Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân biệt chứng cứ nguồn chứng loại nguồn chứng cứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.85 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ K35
LỚP 16/1

BÀI TẬP
TỐ
HÌNH

MÔN
TỤNG
SỰ
Danh sách nhóm:

1.
2.
3.
4.
5.

Nguyễn Thị Minh Anh
Nguyễn Việt Dũng
Phạm Ngọc Hà
Tống Việt Hà
Nguyễn Thùy Linh

1055060005
1055060033
1055060044
1055060047
1055060077



Thành phố Hồ Chí Minh
Câu 1/ Phân biệt chứng cứ và nguồn của chứng cứ và loại nguồn của chứng cứ
nào có thể thay thế được?
Trả lời:
1


Chứng cứ và nguồn của chứng cứ đều được quy định trong BLTTHS 2003; chúng
đều được sử dụng làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự.
Về khái niệm, chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do
BLTTHS quy định mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án dùng làm căn cứ để
xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng
như những tình tiết khác cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Trong khi đó, nguồn
của chứng cứ là nơi chứa đựng, cung cấp chứng cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng
củng cố, sử dụng làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự.
Cơ sở pháp lý: chứng cứ được quy định tại khoản 1, điều 64, BLTTHS 2003 và
nguồn của chứng cứ được quy định tại khoản 2, điều 64 của bộ luật này.
Dựa vào các tiêu chí thì ta có các cách phân loại chứng cứ khác nhau chẳng hạn:
Dựa vào mối quan hệ giũa chứng cứ với đối tượng chứng minh:
-

Chứng cứ trực tiếp
Chứng cứ gián tiếp.

Căn cứ vào nơi xuất xứ của chứng cứ:
-

Chứng cứ gốc
Chứng cứ thuật lại, sao chép lại.


Căn cứ vào nội dung và tính chất của chứng cứ:
-

Chứng cứ buộc tội
Chứng cứ gỡ tội

Trong khi đó, nguồn của chứng cứ bao gồm vật chứng; lời của người tham gia tố
tụng ( người làm chứng; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can, bị
cáo); kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật
khác.
Chứng cứ có mức độ tin cậy cao vì chứng cứ là sự thật được chứng minh một cách rõ
rệt và không thể chối cãi được. Khác với chứng cứ, nguồn của chứng cứ có mức độ
tin cậy thấp hơn nó có thể chưa là sự thật được chứng minh một cách rõ ràng. Chứng
2


cứ là nội dung phản ánh sự việc, hiện tượng vụ án còn nguồn của chứng cứ là hình
thức chứa dựng các nội dung bên trong nó.
Mỗi chứng cứ đều phải có đủ ba thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan, tính hợp
pháp, nếu thiếu một trong ba thuộc tính này thì không được coi là chứng cứ. Các
thuộc tính này có mối liên hệ khăng khít với nhau và cùng tồn tại trong một chứng
cứ. Mỗi thuộc tính có một vị trí, vai trò nhất định trong việc hình thành và củng cố
chứng cứ. Nguồn của chừng cứ nếu có đầy đủ ba thuộc tính của chứng cứ sẽ trở
thành chừng cứ và ngược lại nếu không có đầy đủ ba thuộc tính thì sẽ không trở
thành chứng cứ.
 Loại nguồn của chứng cứ có thể thay thế được là lời khai của người làm chứng,

người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên

quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tam giữ, bị can, bị cáo.
Lời khai trong vụ án hình sự có thể nói cũng là một nguồn chứng cứ rất quan
trọng. Lời khai mang các ý nghĩa, giá trị khác nhau như: lời khai của bị can, bị cáo
thể hiện thái độ thừa nhận hay phủ nhận hành vi phạm tội, lời khai của người làm
chứng thể hiện sự hiểu biết của họ đối với những tình tiết liên quan của vụ án… Sự
hình thành lời khai là một quá trình vô cùng phức tạp, nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố
khách quan lẫn chủ quan khác nhau.
Dạng nguồn chứng cứ thứ hai này có sự khác biệt so với vật chứng. Theo đó, nếu vật
chứng là, mang tính vật chất và nó phản ánh khách quan về vụ án, do đó không thể
có một vật nào khác thay thế cho nó. Trong khi đó, lời khai của các đối tượng trên lại
được hình thành từ tư duy, ý thức của con người. Ví dụ: Khi một người biết những
tình tiết của vụ án và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến với tư cách là
người làm chứng, thì họ nhận thức, tri giác về nó và trên cơ sở đó, lời khai của người
này là sự diễn tả lại, tạo dựng lại diễn biến vụ án thông qua lăng kính chủ quan của
họ. Chính vì vậy, tính khách quan của lời khai không được đảm bảo như vật chứng,
đặc biệt là trong trường hợp người khai báo lại có mối liên quan ít hay nhiều đến vụ
án. Tùy từng đối tượng tham gia với tư cách nào trong vụ án như: bị can, bị cáo,
3


người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… và mối quan hệ
của họ với nhau mà mỗi lời khai lại có những ảnh hưởng của đặc điểm tâm lý khác
nhau. Nguyên đơn dân sự lại mong được bồi thường thiệt hại nhiều; bị đơn dân sự lại
không muốn phải bồi thiệt thiệt hại hoặc bồi thường ít; người làm chứng không thích
bị phiền hà, liên lụy và họ sợ bị trả thù…
Lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan
đến vụ án được xem xét là nguồn chứng cứ. So với BLTTHS năm 1988, nhà làm luật
Việt Nam đã bổ sung thêm lời khai của người bị bắt cũng là nguồn chứng cứ nhằm
bảo đảm quyền lợi của công dân ngay từ thời điểm bị bắt, cũng như họ được quyền

trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm (Điều
71).
1. Lời khai người làm chứng. Người làm chứng là người biết được những tình tiết
liên quan đến vụ án hình sự và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến với tư
cách người làm chứng để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình
sự. Lời khai của người làm chứng là lời trình bày của một người không bị người
phạm tội xâm hại nhưng đã biết được những tình tiết liên quan đến vụ án. Ngoài ra,
Bộ luật còn quy định người làm chứng phải là người có năng lực nhận thức, tỉnh táo
không mắc bệnh tâm thần, phải có khả năng khai báo đúng đắn và có trách nhiệm đối
với lời khai đó. Những người bào chữa cho bị can, bị cáo không được làm chứng
trong vụ án.
Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và trả lời những
câu hỏi đặt ra. Mặt khác, trong quá trình thu thập, đánh giá và sử dụng lời khai của
người làm chứng có thể do những yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau ảnh
hưởng đến lời khai và sự hiểu biết hay nhận thức của họ. Chẳng hạn:
- Các yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng đến lời khai của người làm chứng như:
thời gian để họ nhận biết sự việc, hiện tượng diễn ra; người làm chứng không có kiến
4


thức về lĩnh vực đó; hiện trường nơi xảy ra tội phạm người phạm tội đã làm thay đổi,
tẩy xóa; điều kiện thời tiết khí hậu…
- Các yếu tố chủ quan cũng có thể ảnh hưởng đến lời khai người làm chứng. Người
làm chứng có thể bị dao động bởi động cơ cá nhân hay không, họ có thể có mối quan
hệ thân thích hay tư thù với những người trong vụ án. Ngoài ra, tâm lý người làm
chứng thường có ý nghĩ không dám khai báo hoặc không dám khai báo tất cả những
gì họ biết về hành vi phạm tội. Bởi họ sợ mất thời gian, sợ bị liên lụy, bị trả thù nếu
mình trình báo, tố giác hay làm chứng để người phạm tội bị phát hiện và bị bắt nên

tạo ra một tâm lý nặng nề, thiếu nhiệt tình cũng như sự yên tâm.
2. Lời khai người bị hại. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần
hoặc về tài sản do bọn phạm tội gây ra. Lời khai người bị hại là một trong những
nguồn chứng cứ quan trọng, diễn tả lại trực tiếp hành vi phạm tội và nói lên thiệt hại
mà họ phải gánh chịu. Tuy nhiên, cũng như lời khai khác, lời khai của người bị hại
cũng có những yếu tố không khách quan, chẳng hạn như: thổi phồng sự thiệt hại
hoặc do căm tức người phạm tội, thần kinh bị kích động nên họ đã cung cấp thông tin
không chính xác về người phạm tội cũng như diễn biến của vụ án…. Ngoài ra, cũng
cần thấy rằng lời khai của người bị hại cũng không tránh khỏi sự chi phối của những
yếu tố khách quan và chủ quan nhất định nên lời khai này có những đặc điểm riêng
so với lời khai của những người khác.
Như vậy, vai trò của người bị hại trọng vụ án hình sự là rất cần thiết, nhất là trong
những vụ án chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Tính theo vị trí mở đầu vụ
án thì người bị hại là nhân tố đầu tiên xác định vụ án hình sự nên lời khai của người
bị hại rất quan trọng, có ý nghĩa khi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và đề ra
hướng điều tra. Là nhân chứng sống nên lời khai của người bị hại là cơ sở quan trọng
để các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật truy lần những đầu mối của vụ án.
3. Lời khai nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. Điều 52, 53 BLTTHS năm 2003
quy định về nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự cho thấy họ là những chủ thể có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án hình sự nhưng yêu cầu của những chủ thể
này là giải quyết về mặt dân sự. Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự cũng
5


là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng
làm rõ các tình tiết của vụ án và giải quyết về dân sự. Là những người có liên quan,
họ rất quan tâm đến kết quả vụ án hình sự và mong muốn trình bày với cơ quan tiến
hành tố tụng những tình tiết của vụ án nghiêng theo hướng có lợi cho họ. Cụ thể:
- Với nguyên đơn dân sự, họ có tâm lý muốn được đền bù thiệt hại (vật chất) nhanh
chóng cho mình nên khi khai báo thông thường chỉ ra thiệt hại (hậu quả) thường lớn

hơn so với thiệt hại thực tế.
- Ngược lai, đối với bị đơn dân sự thì họ muốn mức đền bù được giảm ở mức thấp
nhất nên khi khai báo thông thường hay phủ nhận trách nhiệm của mình hoặc đưa ra
lý lẽ để giảm bớt thiệt hại.
Xuất phát từ những lý do đã nêu, trên thực tế lời khai nguyên đơn dân sự và bị đơn
dân sự thường mâu thuẫn trái ngược với nhau. Cho nên, để giải quyết nhanh chóng
về mặt dân sự, đồng thời tìm hiểu rộng thêm về những tình tiết liên quan đến vụ án,
các cơ quan tiến hành tố tụng phải chú ý đến những đặc điểm tâm lý của từng bên,
đồng thời giải thích cho họ rõ hậu quả của việc sai sự thật, khai báo gian dối và trách
nhiệm đối với việc khai báo đó.
4. Lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, bị can, bị cáo. Lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bị can, bị cáo cũng là nguồn chứng cứ để
đối chiếu, xem xét với những chứng cứ khác mà cơ quan điều tra thu thập được nhằm
xác định sự phù hợp khách quan của hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm.
Mục đích lấy lời khai của những người này của cơ quan tiến hành tố tụng là thu được
lời khai chính xác và đầy đủ về vụ án, để trên cơ sở đó xác định được mức độ liên
quan của từng chủ thể đến vụ án hình sự như thế nào.
- Lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ là sự trình bày về những tình tiết liên quan đến
việc họ bị nghi thực hiện tội phạm.
- Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là sự trình bày về
những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
- Lời khai của bị can, bị cáo là sự trình bày của người đã bị khởi tố hình sự hoặc của
6


người đối với họ đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử với nội dung về những tình
tiết của vụ án.
Lời khai của những người này cũng là nguồn chứng cứ quan trọng vì họ có thể nhận
tội, khai ra những người đồng phạm khác, hoặc đưa ra những chứng cứ chứng minh

họ không phạm tội… từ đó kết hợp với nguồn chứng cứ khác để Cơ quan điều tra
xác định hướng điều tra làm sáng tỏ vụ án.
Tuy nhiên, riêng lời khai của bị can, bị cáo cũng cần lưu ý đối tượng này có thể là
nhận tội hoặc không nhận tội.
Thứ nhất, về lời khai theo hướng nhận tội, có nghĩa bị can, bị cáo thừa nhận những
hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện. Trong BLTTHS nước ta, lời nhận tội của bị
can, bị cáo khi phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án mới được coi là chứng cứ
và lời buộc tội không được coi là chứng cứ duy nhất để buộc tội bị can, bị cáo. (Điều
72 BLTTHS 2003). Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng lời khai của bị can, bị cáo
không những là nguồn chứng cứ đối với những hành vi mà họ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự mà còn là nguồn chứng cứ làm sáng tỏ tất cả những tình tiết của vụ
án. Loại nguồn chứng cứ này có ý nghĩa quan trọng vì mọi hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng đều xoay quanh nhiệm vụ là chứng minh bị can, bị cáo có tội
hay không có tội.
Câu 2: Phân biệt hình phạt và biện pháp ngăn chặn
Trả lời: Giống nhau:
-

Hình phạt và BPNC đều được coi là biện pháp cưỡng chế có tính nghiêm khắc
của Nhà nước đối với những đối tượng cần áp dụng. Tính nghiêm khắc của
hình phạt và BPNC đều là tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của công

-

dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
Mục đích của một biện pháp thường được hiểu là kết quả mong muốn đạt
được của một chủ thể khi đề ra biện pháp đó. Hình phạt và BPNC là những
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước đưa ra để mong muốn chung là đạt được

-


những kết quả nhất định trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
Khác nhau
7


Hình phạt luôn được áp dụng BPNC thì chỉ áp dụng với bị can, bị
Đối

cho người phạm tội theo quyết cáo hoặc người chưa bị khởi tố hình

tượng áp định của Tòa án.

sự trong những trường hợp thực sự

dụng

cần thiết, dựa theo những căn cứ mà
pháp luật đã quy định.
Cơ quan tiến hành tố tụng như cơ

Tòa án.

quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát.
Ngoài ra còn có một số cơ quan nhà
Chủ thể

nước khác như bộ đội biên phòng,

áp dụng


Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển và
một số cơ quan khác thuộc lực lượng
công an nhân dân, quân đội nhân
dân…
Khi có hành vi cấu thành loại Để kịp thời ngăn chặn tội phạm: Khi

Căn cứ
áp dụng

tội phạm được quy định trong có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo, sẽ
BLHS 2005 và có quyết định gây khó khăn cho việc điều tra, truy
của Tòa án.

tố, xét xử; Khi có căn cứ chứng tỏ bị

Có tính bắt buộc.

can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Có sự lựa chọn nhất định, tính lựa
chọn ở đây được hiểu là cơ quan có

Thuộc

thẩm quyền phải xem xét cẩn thận

tính

xem có nên áp dụng các BPNC hay
không và nếu có thì chọn lựa biện

pháp nào cho phù hợp.
Hình phạt là biện pháp cưỡng Biện pháp ngăn chặn cũng có tính

Mức độ

chế nghiêm khắc nhất,

nghiêm

chí có những hình phạt nghiêm độ nghiêm khắc không cao như hình

khắc

thậm nghiêm khắc nhưng nhìn chung mức

khắc đến mức tước bỏ mạng phạt.

sống của con người.
Mục đích Hình phạt thì không chỉ nhằm Những BPNC, Nhà nước muốn đảm
8


mục đích trừng trị mà còn giáo bảo cho hoạt động của các cơ quan
dục người phạm tội trở thành THTT được thực hiện thuận lợi, việc
người có ích cho xã hội, có ý chứng minh đạt được kết quả tốt. Qua
thức tuân theo pháp luật và các đó xác định được đúng tội phạm để
riêng

quy tắc của cuộc sống Xã hội Tòa án có thể đưa ra những hình phạt
chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm phù hợp với mức độ nguy hiểm của

tội mới. Đây chính là mục đích tội phạm. Những BPNC còn góp
chính và là nội dung cơ bản của phần đảm bảo việc thực hiện dân chủ,
bản chất hình phạt trong Luật tôn trọng các quyền cơ bản của công
hình sự nước ta.

dân được pháp luật bảo vệ.

Câu 3: Có bao nhiêu trường hợp bắt người? Căn cứ, thẩm quyền, đối tượng,
thủ tục áp dụng các trường hợp đó như thế nào?
Trả lời:
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với
bị can, bị cáo, người bị tình nghi thực hiện tội phạm hoặc người phạm tội quả tang
hoặc đang có lệnh truy nã nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ phạm tội
mới, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự.
Xuất phát từ tình hình thực tế của cuộc đấu tranh chống tội phạm ở nước ta và
đ đòi hỏi của việc tăng cường pháp chế xă hội chủ nghĩa, Bộ luật tố tụng hình sự quy
định bốn trường hợp bắt người là: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong
trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người có lệnh truy nă.
a.
-

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam: (Điều 80)
Khái niệm: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố hình sự
hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam, phục vụ cho

-

công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: (K1 Điều 80)

+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp;
9


+ Chánh án, Phó Chánh án TAND và TAQS các cấp;
+ Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC;
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt
-

phải được VKS cùng cấp phê chuẩn.
Đối tượng áp dụng: (Điều 79, Điều 88)
+ Người bị bắt phải là bị can hoặc bị cáo đang được tại ngoại;
+ Người đó phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, hoặc
phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù 2 năm
và có những căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra,

-

truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Thủ tục áp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. (K2 và K3 Điều 80)
+ Phải có người chứng kiến;
+ Phải có lệnh bắt: Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh, giải thích lệnh,
quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt. Biên bản

b.
-

phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe.
+ Thời gian bắt: Phải bắt vào ban ngày. (K3 Điều 80)
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81)

Khái niệm: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là việc bắt người khi người
đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng hoặc có căn cứ để cho rằng sau khi thực hiện tội phạm, người đó

-

có hành vi bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Các trường hợp bắt: (K1 Điều 81)
• Khi có căn cứ để cho rằng 1 người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
- Biết chính xác 1 người đang chuẩn bị thực hiện hoặc tìm kiếm công cụ,
phương tiện phạm tội;
- Tội phạm đang được chuẩn bị nói trên phải thuộc tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
• Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông
thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn


chặn ngay việc người đó trốn;
Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi
thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ:
10




Tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực



-

hiện tội phạm;
Cần bắt ngay để ngăn chặn việc người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp: (K3 Điều 81)
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người
chỉ

huy

đồn

biên

phòng



hải

đảo

và

biên

giới;

Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến

-

cảng.
Đối tượng áp dụng: chưa bị khởi tố về hình sự, nếu là bị can, bị cáo thì là trong
vụ án khác chứ không phải trong vụ này.
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp: (K3, 4 Điều 81)
Khác với bắt tạm giam và bắt khẩn cấp: Thời gian bắt giữ, lệnh bắt khẩn cấp
được phê chuẩn sau, trong khi bắt tạm giam phải được phê chuẩn trước và được

c.
-

tiến hành bắt vào bất cứ lúc nào, không kể ban ngày hay ban đêm.
Bắt người phạm tội quả tang (Điều 82)
Khái niệm: Bắt người phạm tội quả tang là việc bắt người khi người đó đang
thực hiện hành vi phạm tội hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát

-

hiện và bị đuổi bắt.
Các trường hợp bắt: (K1 Điều 82)
+ Đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện;
+ Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện;
+ Đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi

bắt.
Lưu ý: Hành vi bắt quả tang do đuổi bắt phải lien tục, không bị gián đoạn…
Đối tượng: Giống các trường hợp bắt.
Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang: (K1 Điều 82)
"BẤT KỲ NGƯỜI NÀO CŨNG CÓ QUYỀN BẮT."

Thủ tục: (Điều 82, 83, 84, 85)
+ Việc bắt người phạm tội quả tang ko cần phải có lệnh cuả cá nhân, cơ quan, tổ
chức nào.Mọi công dân đều có quyền bắt và tước vũ khí, hung khí cuả người bị
bắt.
+ Sau khi bắt phải giải ngay đến cơ quan Công an, VKS, UBND nơi gần nhất.
+ Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều
d.

tra có thẩm quyền.
Bắt người đang bị truy nã (Điều 82)
11


-

Khái niệm: Bắt người đang bị truy nã là việc bắt những đối tượng đã có lệnh

truy nã của CQĐT.
Đối tượng:
+ Đã có lệnh bắt nhưng chưa bắt được thì bỏ trốn;
+ Đã bị bắt, đang bị giam giữ, tạm giam nhưng bỏ trốn;
+ Đang thi hành án phạt tù giam thì bỏ trốn;
+ Đang tại ngoại mà bỏ trốn.
Thẩm quyền bắt người đang bị truy nã: (K1 Điều 82)
"BẤT KỲ NGƯỜI NÀO CŨNG CÓ QUYỀN BẮT."
Thủ tục bắt người đang bị truy nã: Phải tuân theo các quy định tại Điều 82, 83,
84, 85.

Câu 4 Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản đảm bảo
có áp dụng đối với bị can, bị cáo là ngoài nước ngoài phạm tội tại Việt Nam

không? Có thể áp dụng đối với trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng hay không?
Trả lời:
 Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91 BLTTHS) là biện pháp ngăn

chặn có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm
đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiển
sát, Tòa án.
• Điều kiện, đối tượng áp dụng:
- Thứ nhất, họ phải là bị can, bị cáo
- Thứ hai, phải có nơi cư trú rõ ràng
Về mặt pháp lý, nơi cư trú được xác định theo quy định từ điều 48 đến điều 53
BLDS. Theo đó, nơi cứ trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống
và có hộ khẩu thường trú. Trong trường hợp cá nhân không có hộ khẩu thường trú
và nơi thường xuyên sinh sống, thì nơi cư trú của người đó là nơi tạm trú và có đăng
kí tạm trú.
Căn cứ theo quy định tại điều 91 BLTTHS thì điều kiện để áp dụng biện pháp
ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với bị can, bị cáo là họ có nơi cư trú rõ ràng.
Nơi cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam là nơi người đó tạm trú và có đăng ký
12


tạm trú. Như vậy biện pháp này vẫn có thể áp dụng đối với người nước ngoài phạm
tội ở Việt Nam. (trừ trường hợp đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các
đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ theo pháp luật Việt Nam, theo
Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kí kết hoặc gia
nhập hoặc theo tập quán quốc tế, thì vụ án được giải quyết bằng con đường ngoại
giao-Đoạn 3 Điều 2 BLTTHS 2003)
Thực tiễn áp dụng:

Điều 91 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định biện pháp ngăn chặn
“cấm đi khỏi nơi cư trú”, nhưng thực tiễn áp dụng biện pháp này hiệu quả thấp.
Nhiều trường hợp chính quyền cơ sở không theo dõi, quản lý chặt chẽ nên để xảy ra
việc bị can, bị cáo trốn, gây khó khăn cho quá trình tiến hành tố tụng.
Điều kiện đảm bảo thi hành:
Vấn đề đặt ra là cần quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng để phát huy hiệu lực
biện pháp này trên thực tiễn. quy định người đứng đầu chính quyền địa phương có
trách nhiệm quản lý, giám sát chặt chẽ bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú; quy
định cụ thể thời hạn áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
 Bảo lĩnh

Căn cứ điều 92 BLTTHS bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm
giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiển cho xã hội của hành vi phạm tội và
nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết
định cho họ được bảo lĩnh.
Căn cứ áp dụng:
-

Áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam
Dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và
nhân thân của bị can, bị cáo.

 Biện pháp bảo lĩnh có thể áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội tại Việt
Nam (trừ trường hợp đoạn 3 Điều 2 BLTTHS 2003)
13


Căn cứ điều 92 BLTTHS không quy định cụ thể biện pháp bảo lĩnh được áp dụng
đối với bị can, bị cáo phạm loại tội nào nên việc bảo lĩnh có thể áp dụng đối với bị
can, bị cáo khi có đủ những điều kiện do pháp luật quy định mà không phụ thuộc

vào loại tội phạm mà người đó đã thực hiện. Do đó, bảo lĩnh có thể được áp dụng
đối với trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Ví dụ: Đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc diện không bị áp
dụng biện pháp tạm giam theo quy định tại khoản 2 điều 88 (phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng) có thể áp
dụng biện pháp bảo lĩnh.
 Đặt tiền hoặc tài sản đảm bảo

Căn cứ Điều 93 BLTTHS đặt tiền và tài sản đảm bảo là biện pháp ngăn chặn đê thay
thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập.
Căn cứ áp dụng:
-

Áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam
Dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và
nhân thân của bị can, bị cáo

Thực tiễn áp dụng:
Nguyên nhân là do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm quyền,
nên nhận thức về biện pháp ngăn chặn này giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn
chưa thống nhất.
Trước đây, căn cứ Điều 76 BLTTHS 1988 quy định việc đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để đảm bảo là biện pháp ngăn chặn chỉ có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo là
người nước ngoài. Tuy nhiên, theo chủ trương cải cách tư pháp của nước ta hiện
nay, Điều 93 BLTTHS 2003 đã bổ sung đối tượng áp dụng bao gồm cả bị can, bị
cáo là người Viêt Nam.
14



Căn cứ vào điều 88 và 93 BLTTHS thì biện pháp đặt tiền hoặc tài sản đảm bảo
là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam căn cứ vào tính chất mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị
can, bị cáo để ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và đảm bảo sự có mặt của
bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng, chứ không phụ thuộc
bị can, bị cáo phạm tội gì.
Kinh nghiệm pháp luật của một số nước điển hình cho thấy, biện pháp đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thay cho biện pháp tạm giam có nhiều điểm tương
đồng với Bộ luật Tố tụng Hình sự nước ta. Tuy nhiên, giới hạn của việc áp dụng
biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm chỉ đối với một số loại tội, với khung
hình phạt nhất định, chứ không áp dụng biện pháp này đối với tội phạm nguy hiểm,
đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia hoặc trật tự an toàn xã hội.
Căn cứ vào Điều 79 để áp dụng các biện pháp ngăn chặn khi có một trong các
căn cứ sau:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử
Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội
Đảm bảo thi hành án
Như vậy có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp cần thiết để đảm bảo
-

hoạt động cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, việc chứng minh vụ án đạt kết
quả tốt, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.

Câu 5: Trong 6 BPNC, biện pháp nào cần có sự phê chuẩn của VKS cùng cấp?
Trả lời:
BLTTHS năm 2003 quy định có 6 BPNC, đó là: bắt người, tạm giữ, tạm giam,

cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
- Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can,

bị cáo; trong trường hợp khẩn cấp và phạm tội quả tang thì áp dụng đối với người
chưa bị khởi tố hoặc trường hợp đối với người đang bị truy nã. Bắt người là biện
15


pháp ngăn chặn có tính đặc thù được áp dụng trước các biện pháp tạm giữ hoặc tạm
giam, nội dung của biện pháp này là hạn chế tự do thân thể của người bị bắt trong
thời gian luật định.
+
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Mục đích bắt ở đây là để tạm giam, mà
muốn tạm giam trước hết là phải bắt người. Quyền tự do thân thể là một trong
những quyền nhân thân quan trọng được pháp luật bảo vệ nên việc phê chuẩn của
VKS cùng cấp là một thủ tục pháp lý bắt buộc, cần thiết phải có để có thể bắt
bị can, bị cáo để tạm giam. Luật quy định điều đó (Điểm d K1 Điều 80) thể hiện sự
công bằng, nhằm bảo đảm cho việc bắt được thực hiện đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
+

Bắt người trong trường hợp khẩn cấp thể hiện tính chất cấp bách đặc biệt

của việc ngăn chặn tội phạm, nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ gây ra nhiều tổn thất
nghiêm trọng cho các cơ quan, tổ chức, nhà nước và xã hội hoặc gây trở ngại cho
việc điều tra làm rõ vụ án. Để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm, không để lọt lưới tội phạm, không làm oan người vô tội cũng như
tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, xét xử nên lệnh bắt người trong trường
hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn trước của VKS cùng cấp, nhưng sau khi
bắt phải báo cáo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên

quan đến việc xét phê chuẩn (K 4 Điều 81).
+

Bắt người phạm tội quả tang hoặc truy nã thì bất kỳ người nào cũng có

quyền bắt nhằm phát huy tính tích cực của công dân trong công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm. Kịp thời, chính xác ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi
trốn tránh pháp luật. Vì vậy, hình thức bắt người này không cần chờ sự cho phê
chuẩn của VKS cùng cấp. Nhưng khi bắt người phạm tội quả tang, cơ quan
điều tra phải lấy ngay lời khai trong thời hạn 24 giờ và trong thời hạn đó phải
ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Đối với người bị truy nã
CQĐT nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan điều tra đã ra quyết định
truy nã để đến nhận người bị bắt. Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết
16


định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh
tạm giam đã được VKS cùng cấp phê chuẩn cho cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
(Điều 82, 83, 84, 85)
- Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do những người có thẩm quyền áp

dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người đang
bị truy nã hoặc người phạm tội ra đầu thú, tự thú. Những người có quyền ra lệnh bắt
khẩn cấp đồng thời có quyền ra quyết định tạm giữ. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi
ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng
cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm
sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả
tự do ngay cho người bị tạm giữ. Hơn nữa, mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được
đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra

quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. (Điều 86)
- Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do cơ quan điều tra, VKS và tòa án

áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp luật định nhằm ngăn chặn tội
phạm hoặc bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Người có thẩm
quyền ra lệnh bắt đồng thời có quyền ra lệnh tạm giam. Đây là biện pháp hạn chế
quyền tự do của người bị bắt, cho nên phải cần có sự phê chuẩn của VKS cùng
cấp để cho quyết định tạm giam này có cơ sở pháp lý rõ ràng, chính xác, hạn
chế thấp nhất việc tạm giam nhầm người vô tội (Điều 88).
- Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối

với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy
triệu tập. So với các biện pháp khác như bắt người, tạm giữ, tạm giam thì biện pháp
cấm đi khỏi nơi cư trú mang tính chất ít nghiêm khắc hơn, chỉ hạn chế một phần
quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi cư trú, người bị áp dụng biện pháp này không bị
cách ly với xã hội, các quyền công dân khác vẫn được đảm bảo nếu việc thực hiện
17


các quyền công dân không gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy,
biện pháp này không cần phải có sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi
hành (Điều 91).
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn dùng để thay thế biện pháp tạm giam trong TTHS
do CQĐT, VKS , Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức
làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt
của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập. Biện pháp này không cần phải có sự phê
chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành. Chỉ cần căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo mà
CQĐT, VKS, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh (Điều 92).
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn dung để thay

thế biện pháp tạm giam trong TTHS do cơ quan điều tra, VKS, Tòa án áp dụng đối
với bị can, bị cáo để đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập. Căn cứ vào tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài
sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho
họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập.
Những chủ thể theo K1 Điều 80 khi ra quyết định cho phép bị can, bị cáo đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành.
Ghi chú: Tất cả các Điểm, Khoản (K), Điều trong bài viết đều là những Điểm,
Khoản, Điều tương ứng được quy định trong BLTTHS 2003.

18



×