Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân giải pháp phòng ngừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.33 KB, 19 trang )

Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
vượt bậc, đó là sự nổ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Kinh tế tăng trưởng giữ
vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện do sự tác động tích cực của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý và kinh tế thị
trường. Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế thị trường cũng có những mặt
hạn chế của nó, nó ảnh hưởng tiêu cực làm nảy sinh nhiều vấn đề trong đó có các vấn
đề về dân số, việc làm, tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội giết
người nói riêng.
Ngày nay, tình hình tội phạm ở Việt Nam là một vấn đề vô cùng nhức nhối, có
xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến
sự phát triển chung của đất nước. Trong đó có nhiều vụ giết người chỉ vì mâu thuẫn
nhỏ, những tranh chấp không đáng kể, những hành vi giết người này chủ yếu xảy ra
trong mối quan hệ gia đình, bạn bè, hàng xóm, vợ chồng. Tội giết người diễn ra với
tính chất nhất thời, xem thường tính mạng của người khác gây nên đau thương, tang
tóc cho gia đình nạn nhân không những như thế mà còn gây mất trật tự an toàn, xã hội,
gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân.
Trước tình hình, diễn biến tội phạm xảy ra khá phức tạp như hiện nay thì việc
nghiên cứu tội giết người nói chung và tình hình tội phạm nói riêng đang là một vấn đề
vô cùng cấp bách nhằm tìm ra những nguyên nhân, điều kiện thực hiện tội phạm, đưa
ra những giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh, chống tội phạm và tội giết người, tiến tới đẩy lùi tội giết người trong thời gian
sắp tới.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong các tội xâm phạm thì tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người thì tội xâm phạm tính mạng là nguy hiểm nhất trong xã hội, vì
hành vi này đã cướp đi mạng sống của người khác, một quyền thiêng liêng và cao quý
nhất của con người. Tuy nhiên trong nội dung nghiên cứu của đề tài chỉ xoay quanh
vấn đề tình hình tội giết người, để tìm ra những vấn đề cốt lỗi, trọng tâm của tội phạm


này để có biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ tình hình tội phạm giết người, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội
để có những hướng giải quyết có hiệu quả cao, phân tích đánh giá, những yếu tố cấu

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

1

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
thành tội giết người để từ đó đề ra những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Niên luận được xây dưng trên cơ sở, vận dụng những kiến thức đã học, thu
nhập và tổng hợp tài liệu có liên quan và kết hợp xem xét các vụ án trên thực tế để
chứng minh và làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp thu nhập tài liệu
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
5. Cơ cấu niên luận
Chương 1: Cơ sở lý luận về tội giết người hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và nguyên nhân của tình hình tôi phạm giết người
hiện nay.
Chương 3: Những giải pháp đấu tranh phòng chống tội giết người.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu


2

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI HIỆN NAY
1.1. Khái niện tội giết người.
Giết người là hành vi trái cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách
trái pháp luật.
Hành vi làm chết người được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho
con người, chấm dứt sự sống của họ. Hậu quả của hành vi trái luật này là hậu quả chết
người. Như vậy, tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn thành khi có hậu quả chết
người. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì hành vi
phạm tội được coi là tội giết người chưa đạt (khi có lỗi cố ý trực tiếp) hoặc là tội cố ý
gây thương tích ( khi có lỗi cố ý gián tiếp). Mục đích và động cơ phạm tội không là
dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm tội giết người và được quy định là tình tiết
định khung tăng nặng hình phạt1.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội giết người.
1.2.1. Khách thể của tội giết người.
Khách thể của tội phạm là một trong một trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm.
Khách thể là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng bị tội phạm
xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa trực tiếp của người khác.
Nếu quan hệ xã hội không bị xâm phạm thì không có hành vi nguy hiểm cho xã
hội và tất yếu không có tội phạm. Do đó khi đề cặp đến tội phạm thì trước tiên cần
phải xác định quan hệ mà luật hình sự bảo vệ bị xâm hại.
Trong luật hình sự Việt Nam, khách thể được bảo vệ là độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, chế độ Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa, tính
mạng sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tự do, các quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân trên những lĩnh vực khác của trật tự xã hội.
Khách thể tình hình tội phạm giết người là xâm phạm tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật. Điều 71 Hiến Pháp 1992 khẳng định quyền được sống,
quyền bảo vệ tính mạng, không ai có quyền tước đi mạng sống của người khác trong
bất kì hình thức nào. Trong luật hình sự, Nhà Nước bảo hộ tính mạng của công dân
bằng cách quy định tội phạm và hình phạt đối với tội xâm phạm tính mạng. Điều này
thể hiện tại Điều 93 Bộ Luật hình sự giết người là hành vi tước đoạt tính mạng người
khác một cách trái pháp luật vì thế ngưới phạm tôi giết người phải bị trừng trị một
cách nghiêm khắc đúng pháp luật.
1

/>
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

3

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
1.2.2. Mặt khách quan của tội giết người.
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm tác
động, gây thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ.
Dấu hiệu khách quan của tội phạm bao gồm:
- Hành vi của tội giết người.
- Hậu quả của tôi giết người.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành và hậu quả.
Ngoài ra còn có phương pháp, phương tiện, công cụ, thủ đoạn để thực hiện
hành vi giết người, thời gian không gian xảy ra hành vi giết người.
- Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt tính mạng

- Của người một cách trái pháp luật và bằng mọi thủ đoạn.
- Hậu quả của tội giết người là gây ra cái chết.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả người có lỗi và cái chết gây ra
cho người bị hại.
Hành vi khách quan của tôi giết người là những biểu hiện của con người ra
ngoài thế giới khách quan có sự điều khiển của ý chí lẫn ý thức. Nói cách khác hành vi
tước đoạt tính mạng sống của người khác là hành vi có khả năng dẫn đến cái chết,
chấm dứt sự sống của người đó dưới bất kì hình thức nào, thường thì hành vi tước đi
mạng sống của người khác được thể hiện thông qua các hành động như đâm, chém,
bắn ....Ngoài ra khách quan của tội giết người thể hiện qua không hành động đó là
những trường hợp chủ thể có nghĩa vụ phải làm công việc nhất định để đảm bảo sự an
toàn cho người khác nhưng họ không hành động không thực hiện những nghĩa vụ đó
gây ra cái chết cho nạn nhân.
Ví dụ: Người vợ bị bệnh tật không thể đi đứng được khi đói phải có người cho
ăn, nhưng do người chồng mê cờ bạc, rược chè, đã bỏ đói vợ mình cho đến chết đi. Do
di luận cũa xã hôi người chồng bị nhiểm HIV thì người vợ không lo lắng chăm sóc cho
người chồng mà nhót người chồng trong phòng và không cho ăn cơm bỏ đối cho đến
chết. Đúng ra người chồng phải lo lắng và chăm sóc cho người vợ và ngược lại người
vợ cũng chăm sóc lo lắng cho người chồng. Chính vì không hành động của người
không phạm đã gây ra cái chết cho nạn nhân.
Hành vi tước đoạt tính mạng của người là hành vi trái pháp luật bị pháp luật
cấm nghiêm cấm, không cho phép thực hiên. Vì vậy không thể coi là phạm tội giết
người nếu hành vi đó không bị pháp luật cấm, không được quy định trong bộ luật hình
sự năm 1999. Ngoài ra có những trường hợp dẫn đến cái chết cho nạn nhân nhưng
không phải là tội phạm, chẳng hạn như trường hợp phòng vệ chính đáng ( Điều 15 Bộ
Luật Hình Sự ). Đây là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của nhà nước, của nhà

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

4


SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
nước, của tập thể, bảo vệ lợi ích của mình mà chống lại một cách tương xứng người
đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Ví dụ: Lực lượng công an đang truy đuổi bắt tên tội phạm nguy hiểm, trên
đường truy đuổi tên tội phạm đã dung sung bắn trả cac anh đã tranh được, đến một con
hẻm anh A đã đối mặt với tên tội phạm, hắn bắn chúng vai anh A và định bắn thêm
phát nửa. Nhưng anh A nhanh tay hơn và đã bắn trúng tên tội phạm và hắn chết khi
trên đường đưa đi cấp cứu. Hành vi của anh A không coi là tội phạm giết người. Đây
là hành vi nhằm ngăn ngừa, hạn chế hậu quả do hành vi trái pháp luật gây ra, ngoài ra
chúng ta còn kể đến những trường hợp tình thế cấp thiết hoặc thi hành hình phạt tử
hình….
Trong những trường hợp nêu trên trong thực tiển xét xử còn gặp những trường
hợp tước đoạt tính mạng của người khác do được sự đồng ý của nạn nhân đều là hành
vi trái pháp luật. Ví dụ: Tước đoạt tính mạng của người mất bệnh hiểm nghèo không
thể cứu chữa, hết hy vọng, và đang trong tình trạng đau đớn, theo yêu cầu của nạn
nhân và gia đình cho họ chết. Tuy nhiên trong thời gian gần đây pháp luật của một số
nước trên thế giới lại cho phép và công nhận việc tước đọat tính mạng người khác
trong những trường hợp đó là hợp pháp. Hành vi tự tước đoạt tính mạng mình không
phải là hành vi khách quan của tội giết người.
Hành vi giết người được thực hiện bằng những hành vi đâm, chém, bắn.
Tội giết người là tội có cấu thành vật chất, hậu quả chết người là dấu hiệu bắt
buộc, nghĩa là tội giết người coi là hoàn thành khi có hậu quả giết người xảy ra. Nếu
người phạm tội thực hiện hành vi giết người với mục đích mong muốn gây ra cái chết
cho người khác nhưng vì lý do khách quan nào đó mà nạn nhân không chết thì hành vi
đó vẫn là hành vi giết người chưa đạt và phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội giết người chưa đạt.

Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của tội giữa hành vi khách quan của
tội giết người với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội giết người cũng là dấu hiệu bắt
buộc. Giữa hành vi tước đoạt tính mạng trái pháp luật của người khác với hậu quả chết
người phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hành vi khách quan của tội giết người,
phải xảy ra trước hậu quả chết người về mặt thời gian và có mối quan hệ nội tại với
hậu quả. Hậu quả chết người xảy ra phải đúng là sự hiện thức hóa khả năn thực tế làm
phát sinh hậu quả của hành vi.
Ví dụ: A và B là hai tên hoạt động trong gian hồ có mâu thuẫn với nhau vì cùng
yêu một cô gái tên là C. Một hôm A bị một nhóm côn đồ đánh bất tĩnh. B lại gần trong
thấy con dao thái do bọn giang hồ để lại người A, B liền lấy dao đâm A một nhát vào
ngực làm B chết. Kết quả giám định cho thấy A chết là do dao đâm trúng tim. Chính vì

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

5

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
hành vi đâm của B gây hậu quả chết cho A. Đám thanh niên côn đồ chỉ phạm tội cố ý
gây thương tích Điều 104 Bộ Luật Hình Sự. Trong thực tế có nhiều trường hợp xác
định không đúng nguyên nhân gây ra cái chết người dẫn đến xử oan người vô tội hay
bỏ lọt tội phạm.
1.2.3. Mặt chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuồi
do pháp luật quy định. Theo Điều 12 Bộ Luật hình sự “ Người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội đặt biệt nghiêm trọng”. Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 93 Bộ

Luật Hình Sự tội giết người điều là tội phạm rất nghiêm trọng. Do vậy, chủ thể của tội
phạm này là người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Năng lực
trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội.
1.2.4. Mặt chủ quan của tội giết người.
Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện trạng thái tâm lý của chủ thể đối với
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Dấu hiệu mặt chủ
quan của tội giết người bao gồm lỗi, động cơ, mục đích.
Lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội. Mặt chủ quan của tội giết người được thực hiện với lỗi cố ý, dưới
hình thức là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Trong trường hợp kẽ giết người với lỗi cố ý trực tiếp nhận thức rõ hành vi tước
đoạt tính mạng của người khác do mình thực hiện là nguy hiểm cho xã hộ, bị pháp luật
cấm. Họ thấy trước hậu quả đó có khả năng gây chết người và mong muốn nó xảy ra.
Ví dụ: Anh Nguyễn Văn Minh do đi công tác xa hai tháng, và sau hai tháng anh
trở về và nghe tin đồn vợ mình là (chị Nhung) quan hệ bất chính với anh hàng sớm
(anh Toàn), anh Minh không nói gì và tìm cách trả thù, Minh hẹn Toàn ra một chỗ
vắng và Minh đã dùng cây đập Toàn cho đến chết.
Trong trường hợp với lỗi cố ý gián tiếp nhận thức rỏ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hành vi đó có thể xãy ra, tuy không mong muốn nhưng để
mặt cho hậu quả xảy ra.
Ví dụ: Do lúa bị chuột phá hoại Lê Văn Bình đã nhiều lần dùng thuốc diệt chuột
và keo dán chuột nhưng không có hiệu quả. Thấy nhiều gia đình khác dùng điện diệt
chuột có hiệu quả nên Lê Văn Bình đã dùng điện mách xung quanh lúa của mình và đã
không thông báo cho hàng sớm biết thời gian và địa điểm, khoảng 4 giờ sáng Bình

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

6


SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
cắm vào ổ điện để diệt chuột cùng thời gian trên Bảo đi ruộng để thâm câu và bị
vướng phải dây diện và bị diện giật chết. Bình vô ý vì tự tin dẫn đến chết người.
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm một hành vi nguy
hiểm cho xã hội dù thỏa mãn các dấu hiệu khách quan, chủ thể, khách thể của tội
phạm nhưng chỉ bị coi là hành vi phạm tội khi người thực hiện hành vi đó có lỗi theo
quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ Luật hình sự.
Động cơ phạm tội là động cơ bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành
vi phạm tội. Theo quy định của Bộ Luật hình sự đối với tội giết người thì động cơ
phạm tội không là dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra
phải đạt dược, cũng giống như động cơ phạm tội mục đích tội phạm không là dấu hiệu
của bắt buộc của cấu thành tội phạm. Trong một số trường hợp mục đích phạm tội là
tình tiết định khung tăng nặng cụ thể giết người để thực hiện hoặc che dấu tội phạm
khác thì quy định tại điểm g khoản 1 Điều 93 Bộ Luật hình sự, giết người để thực hiện
lấy bộ phận trên cơ thể của nạn nhân thì bị xử phạt theo quy định điểm h khoản điều
93 Bộ Luật hình sự. Mục đích phạm tội hoàn toàn khác với hậu quả của tội phạm, khi
bắt đầu thực hiện tội phạm người phạm tội đã có mục đích sẳn trong đầu tức là mục
đích phạm tội đã hình thành trước đó. Hậu quả của tội phạm là kết quả xảy ra trên thực
tế sau khi hành vi phạm tội được thực hiện. Có những trường hợp mà hậu quả của
hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế không đúng như mục đích mà người phạm tội
mong muốn do những nguyên nhân khách quan khác.
Ví dụ: A, B là hai nhà hàng sớm với nhau. Hai nhà có tranh giành với nhau về
lối đi chung ai cũng cho rằng lối đi đó là thuộc sở hữu của riêng mình. Chuyện tưởng
đơn giản nhưng mâu thuẫn giữa A và B ngày càng gay gắt, A định chặn đường đánh B
một lần cho hả dạ. Vào một hôm trên đường B đi nhậu về A kích sẳn, A dùng cây đập
vào lưng và đùi B, B té và đập đầu vào tản đá bên đường bị chắn thương sọ não và

chết. Mục đích A muốn đánh B một lần cho hả dạ nhưng hậu quả trên thực tế gây ra
cái chết cho B. Điều này hoàn toàn trái với ý muốn của A.
1.3. Hậu quả.
Năm 2010, tội phạm giết người do nguyên nhân xã hội có xu hướng tăng đột
biến, toàn quốc đã xảy ra 1.553 vụ án giết người, trong đó có 1.419 vụ giết người do
nguyên nhân xã hội (chiếm 91,37%), tăng 239 vụ (20,25%). Quí I/2011, toàn quốc xảy
ra 317 vụ, giảm 27 vụ = 7,8% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó số vụ do người thân
trong gia đình giết lẫn nhau chiếm khoảng 14%.
Đáng lưu ý là tình trạng những người thân thích, ruột thịt trong gia đình, họ
hàng chém giết lẫn nhau, nhưng tính chất đặc biệt nghiêm trọng, hành vi dã man, tàn

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

7

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
bạo như chồng chém chết vợ, con giết bố mẹ... (năm 2010 loại án này chiếm khoảng
20%; quí I/2011 chiếm 14%) mà nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ mâu thuẫn trong
sinh hoạt, trong cuộc sống, do tranh chấp đất đai hoặc do những mâu thuẫn nhỏ nhặt
khác.
Tình trạng các băng nhóm tội phạm có tổ chức; các thanh, thiếu niên hư hỏng tụ
tập thành các băng nhóm côn đồ gây án với động cơ, mục đích khác nhau như thích
thể hiện, tranh giành ảnh hưởng, tranh giành địa bàn, giải quyết mâu thuẫn hoặc đâm
thuê, chém mướn… vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Theo báo cáo chưa đầy đủ của các
địa phương, trong 3 tháng đầu năm 2011 các băng nhóm lưu manh côn đồ sử dụng vũ
khí (súng AK, súng ngắn, súng tự chế, súng bắn đạn hoa cải...), dùng dao, mã tấu đã
gây ra 107 vụ chém giết lẫn nhau, tăng 51 vụ so với cùng kỳ năm 2010 (trong đó có 31

vụ dùng vũ khí) chiếm 34% so với tổng số xảy ra; hậu quả làm 30 người chết, 121
người bị thương. Địa bàn xảy ra tập trung tại các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải
Phòng, TP HCM, Cần Thơ và các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa, Đồng Nai...
Tình trạng thanh thiếu niên tụ tập rủ nhau uống rượu, bia, sau đó phát sinh mâu
thuẫn dẫn đến chém giết lẫn nhau xảy ra nhiều ở các tỉnh phía Nam như: TP HCM,
Cần Thơ, Vĩnh Long…

Các mâu thuẫn phát sinh trong xã hội, trong nội bộ từng gia đình là
nguyên nhân chính xảy ra các vụ án giết người trong thời gian qua.
Mặc dù cơ quan chức năng đã có nhiều giải pháp nhằm kiềm chế sự gia
tăng của loại tội phạm này, nhưng sự nỗ lực đó là chưa đủ nếu không có sự
chung tay, góp sức của toàn xã hội, đặc biệt là của các ban ngành, đoàn thể, các
tổ chức xã hội và trong từng gia đình, từng cá nhân mỗi người2…

2

/>
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

8

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM GIẾT
NGƯỜI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng của tình hình tội giết người ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Diễn biến

Trong thời gian gần đây tình hình tội phạm diễn ra thường xuyên với mức độ
ngày càng phức tạp hơn. Diễn biến của tình hình tội phạm là sự phản ánh xu hướng
tăng, giảm hoặc ổn định tương đối của tội phạm nói chung ( hoặc một tội hoặc nhóm
tội phạm) xảy ra trong khoảng thời gian nhất định và trên một địa bàn nhất định.
Nghiên cứu diễn biến của tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng, nó không
chỉ giúp cho nhận diện “ bức tranh” về tội phạm – tình hình tội phạm được rõ nét mà
nó còn giúp cho việc dự doán ( tuy chỉ là tương đối) xu hướng vận động của tội phạm
trong thời gian tiếp theo, từ đó giúp cho việc xây dựng biện pháp phòng ngừa tội phạm
của cơ quan chức năng sát với thực tiễn. diễn biến của tình hình có thể là diễn biến của
tình hình nói chung, diễn biến của tình hình tội phạm một nhóm tội cụ thể hoặc một tội
phạm cụ thể nào đó.
Diễn biến của tình hình tội phạm có thể bị thay đổi do tác động của hai loại yếu
tố:
- Các yếu tố xã hội như: sự tăng trưởng suy thoái của nền kinh tế, vấn đề di dân,
sự gia tăng dân số ở các thành phố lớn sự chênh lệch về mức sống của người dân…
- Sự thay đổi về mặt pháp lý trong đó, sự thay đổi của pháp luật hình sự trong
việc mở rộng hoặc thu hẹp tội phạm cũng như biện pháp xử lý hình sự cũng ảnh hưởng
đáng kể đến xu hướng vận động của tội phạm.
Việc đánh giá diễn biến của tình hình tội phạm có thể đặt ra trong khoảng thời
gian ngắn hay dài phụ thuộc vào mục đích, nhiệm vụ của người nghiên cứu. Trên thực
tế, việc nghiên cứu diễn biến của tình hình tội phạm thường đặt ra trong khoảng thời
gian 5 năm ( hoặc 10 năm), vì đây là khoảng thời gian tương đối dài, ổn định nên nhận
định về nó có độ chính xác tương đối cao. Nghiên cứu diễn biến của tình hình tội
phạm trong thời gian dài sẽ giúp cho việc tìm ra được quy luật vận động của tội phạm.
Để tìm ra quy luật này, trước tiên, người nghiên cứu sẽ chọn năm thứ nhất của đơn vị
thời gian nghiên cứu là năm gốc và số liệu liên quan đến số vụ án và người phạm tội
xảy ra trong năm này là số liệu gốc ( coi là 100%), sau đó sẽ lấy số liệu của các năm
tiếp theo đối chiếu với số liệu gốc để tìm ra xu thế tăng hay giảm của năm tiếp theo
( tính theo tỷ lệ %).


GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

9

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Các con số phản ánh diễn biến của tình hình tội phạm cần được thực hiện trên
các bảng thống kê và sau đó cần được biểu đạt bằng đồ thị. Với đồ thị, diễn biến của
tình hình tội phạm sẽ được thể hiện sinh động, rõ nét làm cho người đọc có thể nhận
biết được ngay xu hướng tăng hay giảm của tình hình tội phạm tronh khoảng thời gian
nhất định.
Sau đây là tình hình thực tế về tội giết người tại Phường 9 Thành phố Sóc
Trăng. Ví dụ: số vụ tội giết người xảy ra trên địa bàn Phường 9_TPST từ năm 2006
đến năm 2011 như sau:
Năm 2006
2007
2008
2009
2010
2011

Số vụ (22) = (100%)
19
53
25
23
23


Tăng
86.36%
240.90%
113.63%
104.54%
104.54%

Nhận xét: nhìn chung tình hình tội phạm từ năm 2007_2008 có xu hướng tăng
nhanh, từ năm 2008_2009 có xu hướng giảm mạnh, từ năm 2009_2010 cũng có xu
hướng giảm dần, từ năm 2010_2011 tình hình tội phạm không có xu hướng tăng lên.
2.1.2. Cơ cấu

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

10

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Cơ cấu của tình hình tội phạm là tỷ trọng, mối tương quan giữa nhân tố bộ phận
và tổng thể của tình hình tội phạm trong khoảng thời gian nhất định và trên địa bàn
nhất định. Cũng trên cơ sở mục đích nghiên cứu, người nghiên cứu có thể lựa chọn ,
sắp xếp theo trinh tự nhất định các loại cơ cấu của tình hình tội phạm. Cơ cấu của tình
hình tội phạm có thể xác định theo những tiêu chí sau:
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo tên chương các tội phạm cụ thể của Bộ
Luật hình sự.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo tội danh cụ thể của Bộ Luật hình sự. Loại
cơ cấu này thường được xác định khi nghiên cứu tình hình tội phạm của nhóm tội
phạm đó.

- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo phân loại tội phạm – tội ít nghiêm trọng,
tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng Điều 8 khoản 3 Bộ
Luật hình sự.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo hình thức lỗi.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo hình thức phạm tội.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo địa bàn phạm tội.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo loại hình phạt áp dụng cho người phạm
tội.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo dạng thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo đặc điểm về nhân thân của người bị kết án.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo loại động cơ phạm tội.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo đặc điểm của công cụ, phương tiện phạm
tội, thời gian phạm tội.
- Cơ cấu của tình hình tội phạm theo đặc điểm mối quan hệ của nạn nhân với
người phạm tội.
2.1.3. Tính chất
Việc đánh giá tính chất của tinh hình tội phạm có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm không những phải xuất phát
từ các nguyên nhân của tội phạm mà còn phải bám sát vào các đặc trưng của tình hình
tội phạm – tính chất của tình hình tội phạm. Có như vậy, giải pháp phòng ngừa mới có
tính khả thi, hiệu quả vì nó sát hợp với thực tiễn.
Tính chất của tình hình tội phạm được làm sáng tỏ sau khi đã có sự nghiên cứu
cơ cấu của tình hình tội phạm. Chỉ khi cơ cấu của tình hình tội phạm được nghiên cứu
một cách kỹ lưỡng theo các tiêu chí khác nhau thì tính chất của tình hình tội phạm
càng định hình rõ nét, “ bức tranh” về tội phạm càng được sáng tỏ.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

11


SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Tính chất của tình hình tội phạm phản ánh những đặc điểm đặc trưng, nổi bật
nhất trong cơ cấu của tình hình tội phạm.
2.2. Nguyên nhân của tình hình giết người hiện nay
2.2.1. Nguyên nhân từ đời sống xã hội
Hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, làm cho đời sống của người dân
ngày càng được nâng cao và tương đối hoàn thiện. Bên cạnh sự phát triển cũng có
những mặt hạn chế như: Tỷ lệ người không có việc làm ngày càng tăng, một số thanh
thiếu niên bỏ học do đua đòi, ham chơi và để phục vụ cho nhu cầu của bản thân đã bất
chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình tội phạm gia tăng.
Ví dụ: Vụ án cướp tiệm vàng Ngọc Bích ở Bắc Giang
Khoảng 9h sáng ngày 24/8, vợ chồng chủ tiệm vàng Ngọc Bích (phố Sàn, Lục
Nam, Bắc Giang) cùng bé gái 18 tháng tuổi được phát hiện nằm chết trong nhà với
nhiều vết chém. Con gái lớn 8 tuổi bị chém đứt lìa bàn tay, được cấp cứu. Tại tầng 1,
tủ trưng bày vàng của tiệm bị gỡ mặt kính, toàn bộ vàng ta biến mất.
Cùng thời điểm này, Lê Văn Luyện (18 tuổi, người sống cách tiệm Ngọc Bích 4
km) được anh họ đưa đến trạm xá băng bó vết thương ở tay.
Chiều 24/8, Công an Bắc Giang khởi tố điều tra vụ án đặc biệt nghiêm trọng
này.
Ngày 26/8, Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ cùng lãnh đạo Tổng cục
Cảnh sát phòng chống tội phạm đến kiểm tra hiện trường. Ban chuyên án với sự vào
cuộc của hàng trăm điều tra viên Bộ Công an và Công an Bắc Giang được thành lập.
Ngày 29/8, nhà của Luyện bị khám xét, cảnh sát tìm thấy một túi nilon đựng
hàng trăm nhẫn, dây chuyền vàng (chừng 50 cây) chôn ở sau vườn. Ông Lê Văn Miên
thừa nhận đã cất giấu hộ con trai túi vàng.
Ngày 30/8, Luyện bị khởi tố, truy nã đặc biệt. Cha mẹ Luyện cùng hai người

khác bị điều tra về hành vi che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm.
Chiều 31/8, sau 6 ngày lẩn trốn và chỉ sau một ngày cơ quan điều tra phát lệnh
truy nã đặc biệt, Lê Văn Luyện đã bị bắt tại Lạng Sơn. Hắn thừa nhận là hung thủ gây
ra vụ thảm sát3.
Đây là một vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây hoang mang lo sợ, gây sự bất bình
trong nhân dân, không chỉ ở địa phương nơi xảy ra vụ án, mà còn đối với toàn xã hội,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội.

3

/>
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

12

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
2.2.2. Nguyên nhân do mâu thuẫn cá nhân
Trong đời sống hiện nay đôi khi chỉ vì một chút hiểu lầm dẫn đến mâu thuẫn
làm ảnh hưởng đến quan hệ thân thiết thường ngày như: mâu thuẫn giữa các thành
viên trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và các mối quan hệ khác nên khi có hành
động bộc phát nhất thời trong một lúc mất bình tỉnh, họ đã gây ra những hậu quả nặng
nề không đáng có. Đây có thể xem là những trường hợp phạm tội đặc biệt nguy hiểm
do có yếu tố bất ngờ.
Ví dụ: Giết chết bạn thân vì say
Tuấn và Thông rủ nhau đi uống bia từ trưa tới tối. Vì có chút hiểu lầm, đôi bạn
thân này xảy ra mâu thuẫn rồi dẫn tới việc lấy mạng của nhau.
Khoảng 11h ngày 27/5, Phạm Quang Tuấn (SN 1957) ở phường Phan Chu

Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội cùng với Trần Hữu Thông (SN 1960) trú ở ngõ văn
Hương, phường Hàng Bột, quận Đống Đa, Hà Nội đi uống bia. Là đôi bạn thân thiết
đã 20 năm nên việc đi uống bia cùng nhau là chuyện hằng ngày của Tuấn và Thông.
Hôm đó, hai người ra quán bia ở phố Hàm Long uống tới 18h. Ngồi từ trưa tới gần tối,
đôi bạn tri kỷ vẫn không thấy chán mà tiếp tục về quán bia ở phố Trần Hưng Đạo uống
tiếp
Khi ngồi ở quán bia trên phố Trần Hưng Đạo, Tuấn gặp người quen nên để anh
Thông ngồi một mình và sang bàn bên uống “giao lưu” một cốc. Anh Thông nghĩ
Tuấn không tôn trọng mình nên đã chửi bới Tuấn. Anh Thông hất cả cốc bia vào mặt
Tuấn, rồi ném chiếc cốc vào người Tuấn nhưng không trúng. Một người uống bia cạnh
đó đã can ngăn, đẩy Thông ngồi xuống ghế còn Tuấn thì đi về nhà.
Khoảng 21h, Thông về đến cửa nhà Tuấn thì tiếp tục chửi bới, gọi Tuấn ra đánh
nhau. Thấy anh bạn thân của chồng to tiếng, biết là cả hai người say nên vợ Tuấn là
chị Hương cùng hàng xóm can ngăn, bảo Thông đi về.
Thông không về mà thách thức Tuấn: “Mày không ra, tao gọi đồng bọn đến và
hiếp cả vợ mày”. Nghe thấy bạn nói thế, Tuấn không chịu nổi tức nên lấy con dao gọt
hoa quả ra cửa đứng cãi nhau với Thông. Còn Thông thì lấy phích nước gần đó xông
vào đánh Tuấn.
Hôm nay, ngày 26/10. Tuấn bị đưa ra trước vành móng ngựa. Tại tòa, Tuấn run
run khai rằng, lúc đó anh Thông vung phích đánh vào người bị cáo. Bị cáo người yếu,
mất 1/3 cánh tay phải trong một tai nạn lao động và tổn hại 50% sức khỏe nên tay trái
cầm dao huơ huơ dọa bạn. Không hiểu trong lúc xô xát thế nào mà Tuấn đâm 1 nhát
vào cùng mặt Thông. Anh này được đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong4.
4

/>
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

13


SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Qua vụ án trên, ta có thể thấy được chỉ vì một chút hiểu lầm, đôi bạn thân nhau
đã 20 năm xảy ra mâu thuẫn mà dẫn tới việc lấy mạng nhau của nhau, gây ra sự hối
tiếc cho gia đình nạn nhân và bị cáo. Qua đó ta có tác hại của bia rượu làm cho con
người ta mất lý trí, sáng suốt dẫn đến hành động sai lầm và đến khi hối tiếc thì đã
muộn màng.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

14

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI GIẾT NGƯỜI
3.1. Giải pháp trong lĩnh vực kinh tế xã hội và các biện pháp ngăn chặn
Pháp luật giữ vai trò là yếu tố bảo đảm tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong
mối quan hệ kinh tế, pháp luật phản ánh và chịu sự chi phối của kinh tế nhung đồng
thời nó có tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với kinh tế. Cơ chế thị trường hình thành
và phát triển cũng như một điều kiện để tình hình tội phạm tăng lên. Đẩy mạnh nền
kinh tế đất nước là điều vô cùng quan trọng nhưng không vì thế mà lãng quen mặt trái
của nó. Phải biết kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố này để ta vừa có nền kinh tế phát
triển cao vừa ngăn ngừa tình trạng phạm pháp do tác động tiêu cực của nền kinh tế thị
trường.
Để ngăn chặn, hạn chế tình hình tội phạm nói chung, “tội giết người” nói riêng

trong lĩnh vực kinh tế xã hội thì ta cần làm những việc sau: Các cơ quan có thẩm
quyền càng giải quyết càng sớm càng tốt vấn đề việc làm cho người lao động, tạo cuộc
sống an cư lạc nghiệp. Một ngày bao gồm 24 giờ, khi con người được học hành hoặc
có việc làm, hướng vào công việc có ích thì thời gian để có thể làm những việc không
có ích hoặc bất lợi cho xã hội bị hạn chế hoặc hiếm hoi hơn.
Trong công tác phòng ngừa, chúng tôi luôn coi việc triển khai các biện pháp
nghiệp vụ để phát hiện, triệt xóa các băng, nhóm thanh, thiếu niên hư hỏng hoạt động
côn đồ, hung hãn, các băng, nhóm tội phạm có tổ chức hoạt động "kiểu xã hội đen" dễ
phát sinh tội phạm xâm phạm nhân thân là biện pháp quan trọng, cần thiết để phòng
ngừa, ngăn chặn tội phạm giết người, cố ý gây thương tích trong giai đoạn hiện nay.
Trong quí I/2011, các vụ án giết người do các băng nhóm gây ra chiếm 34%, vì
vậy trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh triệt phá các băng nhóm tội phạm là của lực
lượng CSHS các cấp, nhằm làm giảm tội phạm giết người nói riêng và các loại tội
phạm khác. Lực lượng CSHS công an các tỉnh, TP sẽ triển khai quyết liệt các biện
pháp nghiệp vụ, như: Tăng cường công tác nắm tình hình, phát hiện các băng, nhóm
tội phạm có tổ chức hoạt động "kiểu xã hội đen" như: bảo kê, cho vay lãi nặng,"tín
dụng đen'', tổ chức cờ bạc, tệ nạn xã hội, đòi nợ thuê...; Đặc biệt các băng nhóm thanh,
thiếu niên hư có biểu hiện hoạt động tội phạm và tệ nạn dễ phát sinh tội phạm giết
người do nguyên nhân xã hội để áp dụng các biện pháp phòng ngừa.
Thường xuyên rà soát, nắm tình hình về hoạt động của các băng, nhóm nêu trên
đang tồn tại trên từng địa bàn, phát hiện các đối tượng trong băng, nhóm, những đối
tượng trọng điểm có vai trò cầm đầu, tích cực, có ảnh hưởng lớn trong từng băng,

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

15

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh



Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
nhóm để có biện pháp tác động, răn đe, giáo dục, phân hóa ngăn chặn các hoạt động
phạm tội và tệ nạn xã hội.
Lập hồ sơ để quản lý, lập chuyên án triệt phá các băng, nhóm tội phạm có tổ
chức hoạt động "kiểu xã hội đen", các băng nhóm thanh, thiếu niên hư có biểu hiện
hoạt động tội phạm và tệ nạn dễ phát sinh tội phạm giết người do nguyên nhân xã hội
để chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa, điều tra khám phá khi có vụ án xảy
ra.
Thường xuyên tiến hành công tác tuần tra, kiểm tra, kiểm soát tại các địa bàn,
tụ điểm phức tạp về ANTT có nguy cơ cao xảy ra các vụ án giết người, cố ý gây rối
trật tự công cộng (TTCC)… để kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi côn đồ, càn quấy
gây rối TTCC, ngăn chặn các vụ việc xô xát, mâu thuẫn bột phát dễ dẫn đến giết
người, đâm chém gây thương tích5.
3.2. Giải pháp trong công tác giáo dục
Ngay nay các giá trị về chuẩn mực đạo đức ở một phận thanh niên đã bị nhìn
nhận dưới một góc độ khác, cái thiện không trở thành điều lý tưởng để phấn đấu. Vì
vậy chùng ta phải tự coi trọng mình và coi trọng người khác, phải biết đặt mình vào
hoàn cảnh người khác và ngược lại để xử sự với nhau một cách chân thật, không có sự
dối trá, lừa lội trong gia đình, ông bà, cha mẹ cho con cháu noi theo, cha mẹ cần phải
gần giũ tìm hiểu tâm tư tình cảm con cái, xem chúng cần gì và muốn gì ở lứa tuổi đó,
trong thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay, xu hướng chạy theo đồng tiền đã đẩy
các gia đình lao vào kiếm tiền ít có thời gian quan tâm đến con cái. Các gia đình phải
theo dõi dành nhiều thời giaan cho con em mình hơn, cần tăng cường hơn nữa gia đình
và nhà trường. Nhà trường cần thường xuyên giáo dục các em thầy cô giáo phải luôn
giúp đỡ và là tấm gương sáng cho các em noi theo.
Bên cạnh việc học tập thì hoạt động vui chơi giải trí cũng là một vấn quan trọng
cần xây dựng sân chơi lành mạnh cho trẻ vị thành niên, những chương trình dành
riêng cho thanh thiếu niên các tổ chức quần chúng, cần được pháp triển rộng rãi,
thường xuyên thong qua đó giáo dục nhằm giúp các em tôn trọng ý thức pháp luật nêu
gương tốt để tuyên truyền vận động mọi người hướng đến cái thiện, loại trừ cái ác.

3.3. Các giải pháp phòng ngừa sự gia tăng của tội phạm giết người hiện
nay
Phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ là hai biện pháp đang được Cục
CSHS chỉ đạo lực lượng CSHS tham mưu cho lãnh đạo công an các cấp triển khai
mạnh mẽ, sâu rộng.

5

/>
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

16

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Về các biện pháp phòng ngừa xã hội, chúng tôi có kế hoạch phối hợp với các
lực lượng, tuyên truyền, vận động và hướng dẫn quần chúng tham gia đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung và tội phạm giết người nói riêng, gắn với việc xây dựng gia
đình văn hóa mới, khối phố, bản, làng, phường, xã an toàn về ANTT. Chú trọng việc
giáo dục hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống cho mọi lứa tuổi, đặc biệt
là lứa tuổi vị thành niên. Tập trung tuyên truyền pháp luật về hình sự, dân sự, luật
phòng chống bạo lực trong gia đình, phòng chống bạo lực trong học đường, Luật Hôn
nhân và gia đình, Luật Khiếu nại tố cáo… phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn phát
sinh trong nội bộ nhân dân nhằm ngăn chặn tội phạm giết người xảy ra từ những mâu
thuẫn này.
Khi phát hiện có mâu thuẫn tranh chấp, xô xát, bạo lực trong sinh hoạt, đất đai,
kinh tế… lực lượng Công an cơ sở cần phối hợp với các ngành, chính quyền các cấp,
các tổ chức, đoàn thể ở địa phương tổ chức ngay việc hòa giải, không để mâu thuẫn

phát sinh, kéo dài. Kết hợp công tác vận động, tuyên truyền cá biệt với việc tuyên
truyền sâu rộng trong toàn khu dân cư; Gắn với công tác vận động quần chúng xây
dựng và nhân rộng các mô hình điển hình như: "Khu dân cư an toàn về ANTT", "Khu
dân cư không có tội phạm và tệ nạn xã hội", "Tổ tự quản về an ninh xã hội", "Tổ hòa
giải ở thôn, bản"…
Đối với các vụ án giết người do nguyên nhân xã hội xảy ra trên địa bàn, đặc
biệt là các vụ án gây bức xúc trong dư luận cần tập trung lực lượng điều tra khám phá
nhanh, đưa xử án điểm, xét xử lưu động ngay tại địa bàn, qua đó tuyên truyền, giáo
dục về phương thức, thủ đoạn của tội phạm; Tuyên truyền về nguyên nhân, điều kiện
xảy ra vụ án để nhân dân lên án, cảnh giác, tự mình có ý thức phòng ngừa tội phạm,
tôn trọng pháp luật, giải quyết triệt để các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân
dân, trong từng gia đình.
Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ đã và đang được triển khai bao gồm:
Chủ động nắm tình hình, phát hiện các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, các
hành vi bạo lực xảy ra trong các gia đình. Đây là biện pháp cần được ưu tiên thực hiện
và có ý nghĩa rất lớn trong công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm giết người do
nguyên nhân xã hội.
Đối với những hộ gia đình trong khu dân cư phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp,
xô xát trong sinh hoạt, tình ái, đất đai, kinh tế… Lực lượng Công an cơ sở chủ động
tham mưu cho các tổ chức hòa giải ở cơ sở tổ chức ngay việc hòa giải, không để mâu
thuẫn phát sinh kéo dài phức tạp dẫn đến hậu quả xấu. Lực lượng Công an cơ sở làm
nòng cốt, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương để chỉ đạo các tổ chức chính

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

17

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh



Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
trị, đoàn thể quần chúng, tham gia phát hiện, hòa giải và giải quyết triệt để các mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Đối với các vụ việc mâu thuẫn kéo dài chưa giải quyết xong hoặc xô xát đã xảy
ra có thể gây hậu quả nghiêm trọng thì lực lượng CSHS phải trực tiếp giải quyết và có
phương án phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ xảy ra các vụ án nghiêm trọng hơn như:
giết người, cố ý gây thương tích….
Đối với những đối tượng phát sinh mâu thuẫn, xô xát kéo dài có nguy cơ gây ra
vụ án giết người, gây thương tích, gây rối TTCC… lực lượng CSHS cần áp dụng các
biện pháp cưỡng chế, răn đe và phòng ngừa cá biệt nhằm tước bỏ các điều kiện mà đối
tượng có thể lợi dụng để thực hiện tội phạm. Đối với những người có nguy cơ trở
thành nạn nhân cần tuyên truyền, giáo dục họ để bản thân họ chủ động phòng ngừa,
tránh những mâu thuẫn, xung đột, xô xát xảy ra, giải quyết dứt điểm mâu thuẫn, xung
đột; Lực lượng CSHS có các phương án bảo vệ tính mạng, tài sản của nạn nhân và
ngặn chặn kịp thời không để án mạng xảy ra6.

6

/>
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

18

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh


Tình hình tội phạm giết người - Nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
KẾT LUẬN
Nhà nước sẽ không tồn tại được nếu không có pháp luật, pháp luật chính là
công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội và duy tri chế độ chính trị. Thật vậy,

nếu không có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội sẽ không ổn định, lúc đó mọi hoạt
động sẽ diễn ra trong xã hội sẽ không theo một trình tự nào cả mà là tự do không hạn
chế. Trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật hình sự là một trong
những ngành luật quan trọng góp phần trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa.
Thông qua những quy định trong phần tội phạm chúng ta có thể thấy giá trị của
Luật hình sự đối với nhu cầu xã hội hiện nay là rất cần thiết. Bộ Luật hình sự năm
1999 là thành quả của quá trình nghiên cứu, sửa đổi bổ sung. Luật hình sự Việt Nam
quy định về tội phạm, quy định về các tội xâm phạm tính mạng con người, đặc biệt là
tội giết người nói chung và tình hình tội giết người nói riêng là một trong những vấn
đề trọng yếu được xã hội ngày cáng quan tâm.
Sống trong một xã hội tiến bộ và phát triển thì tính mạng con người phải được
bảo đảm và được tôn trọng hơn bao giờ hết, huống chi con người vốn quý của xã hội,
là nhân tố chính của xã hội trong quá trình hình thành và phát triển thì càng không thể
bị xâm hại.
Trong tình hình hiện nay, tội phạm đang ngày một gia tăng về số lượng cũng
như tính đa dạng và phức tạp của chúng đặc biệt là tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu
niên, hoặc do mâu thuẫn nhỏ, những xô sát không cần thiết giữa hai bên đã gây nên
chết người, gây hoang mang lo ngại trong xã hội.
Để áp dụng có hiệu quả và nhằm thu hẹp dần “ khoảng cách” giữa luật và thực
tiễn thì các cơ quan có thẩm quyền cần tiến hành một số giải pháp sau:
Một là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, Bộ Luật hình sự nói riêng về
tội giết người.
Hai là: Cần có hướng dẫn rõ rang, chính xác của Tòa án nhân dân tối cao trong
quá trình định tội ở những tội phạm có dấu hiệu pháp lý đặc trưng giống nhau.
Từ những giải pháp trên thì “ khoảng cách” giữa luật và thực tiễn sẽ được rút
ngắn lại giúp cho công tác xét xử được đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đây là
nền tảng cho quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời góp phần xây dựng các quy định về tội giết người trở nên chặt chẽ hơn.
Sinh viên thực hiện

Huỳnh Thị Nhanh

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

19

SVTH: Huỳnh Thị Nhanh



×