Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá tính hợp lý của những hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.52 KB, 12 trang )

A.ĐẶT VẤN ĐỀ.
Thực tế hiện nay cho thấy tồn tại ngày càng nhiều những vi phạm trong lĩnh vực hành chính nhà
nước, từ mức đọ nguy hiểm không đáng kể cho xã hội đến những vi phạm hành chính có mức độ
nguy hiểm lớn. Để xử lý những vi phạm hành chính đó, pháp luật đã đặt ra những quy định về các
hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính
gây ra. Việc “ Đánh giá tính hợp lý của những hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các
biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra” sẽ giúp chũng ta có cái nhìn khái
quát hơn về những ưu điểm cũng như những điểm còn tồn tại để tìm ra phương hướng hoàn thiện
những quy định đó.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Lý luận chung về xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả.
1. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính:
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế hành chính mang tính quyền lực nhà
nước do các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp dụng các biện pháp
chế tài hành chính nhằm mục đích trừng phạt đối với cá nhân tổ chức vi phạm hành chính theo
trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
Để thực hiện hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, nhà nước đã quy định về các hình thức
để xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung.
Hình thức xử phạt chính được áp dụng 1 cách độc lập, nghĩa là đối với mỗi vi phạm hành chính
chỉ được áp dụng 1 hình thức xử phạt chính, có thể kèm theo hình thức xử phạt bổ sung khác.
1.2. Cơ sở pháp lý.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính 2002 ( PLXLVP hành chính), được sửa đổi bổ sung 2008, Nghị định 150/2005/NĐCP, Nghị định 128/2008/NĐ-CP và Thông tư 30/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định 150,
1.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
- Hình thức xử phat chính: cảnh cáo và phạt tiền
- Hình thức xử phạt bổ sung: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu
tang vật được sử dụng để vi phạm hành chính.
- Hình thức trục xuất vừa được coi là hình thức xử phạt chính vừa được coi là hình thức xử phạt
bổ sung.


2. Biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
2.1. Quan niệm về biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
- Là một trong những biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước.
1


- Áp dụng đối với những trường hợp vi phạm hành chính gây ra thiệt hại cho kinh tế theo trình
tự thủ tục được quy định tại Pháp lệnh XLVPHC
2.2. Tính chất và trường hợp áp dụng.
- Cơ sở áp dung: Trong những vi phạm hành chính có gây ra thiệt hại.
- Mục đích áp dụng: khôi phục lại những thiệt hại trên thực tế.
- Nguyên tắc áp dụng: áp dụng kèm với hình thức xử phạt trong quyết định xử phạt hoặc áp
dụng độc lập trong một quyết định hành chính khi:
+ Trường hợp đã hết thời hiệu xử phạt hành chính quy định tại điều 10 của pháp lệnh.
+ Khi hết thời hạn ban hành quyết định xử phạt hành chính quy định tại khoản 1 điều 56 Pháp
lệnh XPVPHC 2002 sửa đổi bổ sung 2008.
+ Khi đã hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt hành chính mà quyết định xử phạt đó có áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
+ Khi hết thời hạn chấp hành xử phạt hành chính.
II. Đánh giá về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả
do vi phạm hành chính gây ra. Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về các hình thức xử
phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
 Đánh giá tính hợp lý của các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
1.Cảnh cáo.
1.1.Cơ sở lý luận.
* Cơ sở pháp lý: Cảnh cáo là hình thức xử phạt chính được quy định tại Điều 13 PLXLVP
hành chính 2002( được sửa đổi bổ sung 2008) - là sự khiển trách công khai của nhà nước do
người có thẩm quyền quyết định với chủ thể vi phạm hành chính. Đây là hình phạt mang tính
cưỡng chế nhà nước đối với chủ thể vi phạm, tác động đến nhận thức của chủ thể giúp họ hiểu
hành vi của mình là trái với quy tắc xử sự chung đã được pháp luật quy định, từ đó kiềm chế

không tiếp tục thực hiện những hành vi vi phạm.
* Đối tượng áp dụng: Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân tổ chức gây ra vi phạm hành
chính nhỏ, vi phạm lần đầu có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi vi phạm hành chính do người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.
* Điều kiện áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo.
Chỉ có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với cá nhân có đủ 16 tuổi trở lên hoặc tổ
chức vi phạm hành chính khi có đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất: Hành vi vi phạm mà tổ chức cá nhân thực hiện được văn bản pháp luật quy định
là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Nếu loại vi phạm mà cá nhân, tổ chức đó thực
hiện mà pháp luật quy định chỉ bị áp dụng hình thức phạt tiền thì không được pháp áp dụng hình
thức xử phạt cảnh cáo.
2


Thứ hai: Việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính chỉ được thực hiện khi đó là vi phạm lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại
Điều 8 PLXLVP hành chính 2002( được sửa đổi bổ sung 2008).
Ví dụ: Người có hành vi gây tiếng động lớn làm ồn huyên náo trong khoảng từ 22h đến 5h
sáng hôm sau; hoặc người có hành vi không thực hiện các quy định về giữ yên tĩnh của bênh
viện, trường học hoặc ở những nơi khác có quy định phải giữ yên tĩnh chung. Theo quy định tại
Khoản 1 Điều 8 nghị định 150/2005/NĐ- CP thì hành vi trên bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền
từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Như vậy hành vi này chỉ có thể bị xử phạt cảnh cáo với
điều kiện họ thực hiện vi phạm đó lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ hoặc là người chưa đủ 16
tuổi.
Nghị định 150/2005/NĐ-CP đã dành 8 Điều quy định về các hành vi vi phạm có thể bị
phạt cảnh cáo.
* Thẩm quyền ra quyết định và thủ tục trong hình thức xử phạt cảnh cáo: Do tính chất của
phạt cảnh cáo là áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có vi phạm hành chính nhỏ, tính nguy hiểm
không cao. Vì vậy, người có thẩm quyền xử phạt cảnh cáo có thể áp dụng thủ tục đơn giản ra
quyết định xử phạt tại chỗ.

1.2. Đánh giá tính hợp lý về hình thức xử phạt cảnh cáo.
Cảnh cáo là một trong những biện pháp sớm được pháp luật quy định trong hệ thốngcác hình
thức xử phạt vi phạm hành chính. Nói chung, đây là hình thức được áp dụng đối với vi phạm
nhỏ, lần đầu, có các tình tiết giảm nhẹ, mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, nhưng cảnh cáo vẫn
là biện pháp trừng phạt. Tuy mức độ có nhẹ hơn so với các hình thức khác nhưng cảnh cáo vẫn
được quy định trong các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, hiện nay
xung quanh hình thức xử phạt cảnh cáo vẫn đang tồn tại k ít những vấn đề tranh luận. Có nhiều
ý kiến cho rằng hình thức xử phạt cảnh cáo không thực tế và không có tác dụng đối với đối
tượng bị xử phạt.
Hơn nữa, cảnh cáo ít được áp dụng trong thực tiễn, không đạt được mục đích của chế tài, trước
hết là mục đích phòng ngừa vi phạm pháp luật. Hoặc lại có quan điểm cho rằng cảnh cáo là hình
thức xử phạt chính nhưng thực chất lại được coi là hình thức xử phạt nhẹ nhất, có khi còn nhẹ hơn
cả hình thức xử phạt bổ sung, do đó dẫn đến tình trạng đối tượng bị xử phạt không sợ hình thức xử
phạt cảnh cáo.
Cũng phải thấy rằng sở dĩ có nhiều quan điểm khác nhau và tồn tại những điểm chưa hợp lý
trong hình thức xử phạt cảnh cáo cũng 1 phần là do hình thức này ít được sử dụng trong thực tế
trong khi ý thức pháp luật của người dân còn chưa cao, vẫn còn tình trạng tiêu cực trong lực lượng
cán bộ xử phạt. Hiện nay vẫn còn tồn tại xu hướng muốn phạt nặng người vi phạm ngay cả khi vi
phạm chỉ đáng phạt cảnh cáo. Trong thực tiễn xử lý vi phạm hành chính hiện nay, hình thức xử phạt
3


cảnh cáo hiện vẫn được áp dụng khá phổ biến đối với các vi phạm trong lĩnh vực trật tự công cộng,
trật tự an toàn giao thông.
1.3. Hướng hoàn thiện các quy định về hình thức xử phạt cảnh cáo.
Một điều cần chú ý khi áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo là phải xác định các điều kiện để
áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Tác dụng, hiệu quả của hình thức xử phạt cảnh cáo phụ
thuộc rất nhiều vào việc người áp dụng hình thức cảnh cáo đã giải thích rõ điều kiện áp dụng
hình thức này đối với người vi phạm như thế nào để người đó nhận thức rõ và kiềm chế không
thức hiện vi phạm mới.

2.Phạt tiền.
2.1.Cơ sở lý luận:
* Cơ sở pháp lý: Đây là hình thức xử phạt chính được quy định tại Điều 14 PLXLVP
hành chính 2002( sửa đổi bổ sung 2008 )- là việc tước bỏ ở người có hành vi vi phạm 1
khoản tiền thuộc sở hữu của họ. Mức phạt tiền tương ứng với sự đánh giá của nhà nước về hành
vi vi phạm hành chính là có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hay thấp. Phạt tiền tác động trực
tiếp đến lợi ích kinh tế của chủ thể vi phạm hoặc người có trách nhiệm nộp phạt. PLXLVP hành
chính 2002( sửa đổi bổ sung 2008) quy định mức phạt tiền trong vi phạm hành chính là từ
10.000 đồng đến 500.000.000 đồng.
* Đối tượng áp dụng: Phạt tiền là hình thức xử phạt hành chính được áp dụng với các cá
nhân tổ chức, các nhân có đủ 16 tuổi trở lên.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính chỉ bị phạt cảnh cáo không bị
phạt tiền.
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể áp dụng hình thức xử
phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 12 của PLXLVP hành chính 2002( sửa đổi bổ
sung 2008), khi phạt tiền đối với họ thì mức phạt tiền không quá ½ mức phạt đối với người
thành niên. Trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải
nộp phạt thay.
* Điều kiện áp dụng hình thức xử phạt hành chính: phạt tiền.
-Phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực: an ninh, trật tự an toàn xã hội, quản lý và bảo vệ công
trình giao thông...
-Phạt tiền tối đa đến 40.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực: giao thông đường bộ, giao thông đường thủy nội địa, văn hóa thông tin, du
lịch, phòng chống tệ nạn xã hội...
-Phạt tiền tối đa đến 70.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực: thương mại, phí, lệ phí hải quan, giao thông đường sắt,
4



kinh doanh bảo hiểm....
-Phạt tiền tối đa đến 100.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực: hàng hải, hàng không dân dụng, KH- CN, đo đạc, thuế.....
- Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực: bảo vệ môi trường, chứng khoán, đất đai, sở hữu trí tuệ, bảo vệ rừng và quản
lý lâm sản, thăm dò và khai thác nguồn lợi hải sản...
- Đối với các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước mà chưa được
quy định tại khoản 2 Điều 14 PLXLVPHC 2002( sửa đổi bổ sung 2008) thì Chính Phủ quy định
mức phạt tiền, nhưng tối đa không vượt quá 100.000.000 đồng.
Ví dụ: Hành vi tự ý xê dịch, tháo dỡ cột dây điện thoại, điện tín, cột đèn, hàng rào của các
cơ quan nhà nước hoặc các công trình công cộng khác theo quy định tại Khoản 1 Điều 19 Nghị
định 150/2005 thì sẽ bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng
*Thẩm quyền ra quyết định và thủ tục xử phạt hành chính: phạt tiền.
Phạt tiền có thể được tiến hành theo 1 trong 2 thủ tục tùy thuộc vào mức tiền phạt sẽ được
quy định:
- Nếu phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng thì được tiến hành theo thủ tục đơn giản
tức là người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt tại chỗ, không cần thiết phải lập biên bản về
hành vi vi phạm trừ trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện,
thiết bị kĩ thuật nghiệp vụ.
- Nếu mức phạt tiền từ 200.000 đồng trở lên thì việc xử phạt tiến hành theo đúng quy định tại
Điều 55 và 56 của PLXLVP hành chính 2002(sửa đổi, bổ sung 2008).
2.2. Đánh giá tính hợp lý của hình thức phạt tiền.
Phạt tiền là biện pháp cưỡng chế hành chính được quy định sớm nhất trong pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính ở nước ta, đồng thời được quy định áp dụng đối với hầu hết các loại vi phạm
hành chính.
Có thể khẳng định hình thức xử phạt này đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống các hình thức xử
phạt hành chính. Như vậy, phạt tiền là trừng phạt tới tài sản, vật chất hay nói cách khác là tước bỏ ở
đối tượng vi phạm 1 khoản tiền thuộc quyền sở hữu của họ. phạt tiền là biện pháp tác động có mức
dộ nghiêm khắc cao hơn so với cảnh cáo, đương nhiên vi phạm hành chính tương ứng với hình thức
phạt tiền cũng là vi phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn các vi phạm bị áp dụng hình

thức cảnh cáo. Trong hệ thống các hình thức xử phạt vi phạm hành chính hiện nay thì hình thức
phạt tiền được coi là hình thức xử phạt cao nhất, do đó vi phạm hành chính nào nguy hiểm dưới
mức tội phạm được xem là điều kiện cao nhất áp dụng hình thức phạt tiền.
Điểm hợp lý của hình thức phạt tiền là nó tác động đến tài sản nên mang tính trừng phạt cao
hơn, do đó khiến người vi phạm có ý thức hơn.
5


2.3. Hướng hoàn thiện các quy định về hình thức xử phạt phạt tiền.
Thứ nhất: quy định về mức tối thiểu phạt tiền là 10.000 đồng có lẽ vẫn còn hơi ít so với điều
kiện hiện nay. Chính vì việc quy định mức tiền phạt tối thiểu thấp nên cơ quan, cán bộ có thảm
quyền thường ít áp dụng hình thức cảnh cáo mà luôn mong muốn áp dụng hình thức phạt tiền.
Trong phần đóng góp cho dự thảo sửa đổi bổ sung có ý kiến cho rằng nên tăng mức phạt tiền tối
thiểu lên 20.000 đồng áp dụng tại khu vực nông thôn và 50.000 đồng áp dụng tại khu vực thành
phố.
Thứ hai: càn phải quy định mức phạt tiền cụ thể hơn nữa hay nói cách khác là chia nhỏ mức
phạt tiền để áp dụng đối với các loại vi phạm hành chính khác nhau. Việc chia nhỏ mức phạt tiền
đảm bảo cho việc áp dụng hình thức phạt tiền chính xác hơn.
3. Trục xuất.
Ngoài 2 hình thức xử phạt chính được quy định tại PLXLVP hành chính 2002( sửa đổi
bổ sung 2008) thì còn có hình thức xử phạt trục xuất, vừa được coi là hình thức xử phạt
chính, vừa được coi là hình thức xử phạt bổ sung.
3.1.Cơ sở lý luận:
* Đối tượng áp dụng: chỉ áp dụng hình thức xử phạt trục xuất đối với người nước ngoài
mang 1 quốc tịch khác ngoài Việt nam mà không thể áp dụng đối với người không quốc tịch
thường trú trên lãnh thổ VN vì không có địa chỉ trục xuất.
* Điều kiện áp dụng: tùy từng trường hợp cụ thể mà trục xuất có thể được áp dụng như hình
thức xử phạt chính.
Ví dụ: Người nước ngoài vi phạm pháp luật VN mà không bị phạt cảnh cáo hay
phạt tiền mà bị buộc phải trục xuất thì trường hợp này trục xuất được coi là hình thức xử

phạt chính.
-Thẩm quyền áp dụng: Chính phủ quy định cụ thể thủ tục trục xuất. Đồng thời thẩm quyền
quy định áp dụng hình thức xử phạt này được giao cho Bộ trưởng Bộ Công an.
3.2. Đánh giá tính hợp lý của hình thức trục xuất.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay thì việc Người nước ngoài vào Việt nam đầu tư
kinh doanh ngày càng nhiều, do đó vi phạm hành chính xảy ra cũng phức tạp hơn. Chính vì vậy
mà việc quy định hình thức xử phạt trục xuất với đối tượng áp dụng là người nước ngoài là hoàn
toàn hợp lý. Điều này khiến người nước ngoài vi phạm pháp luật ở Việt nam cũng phải chịu sự
trừng phạt của pháp luật Việt nam.
3.3. Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình thức xử phạt trục xuất.
Do đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có thể ảnh hưởng đến quan hệ giữa các quốc gia, thủ
tục trục xuất đòi hỏi phải được quy định cụ thể và chặt chẽ.
4. Hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
6


4.1. Cơ sở lý luận.
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là biện pháp xử phạt bổ sung được quy
định tại điều 16 Pháp lệnh XPVPHC 2002 sửa đổi bổ sung 2008 được áp dụng đối với cá nhân,
tổ chức vi phạm nhiêm trọng những quy định trong việc sử dụng loại giấy phép, chứng chỉ hành
nghề đó. Hình thức này được áp dụng khi thỏa mãn 2 điều kiện sau:
- Văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính quy định có thể áp dụng biện pháp xử
phạt này đối với vi phạm hành chính cụ thể nào đó.
- Cá nhân, tổ chức đã có hành vi vi phạm trực tiếp các quy tắc sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề.
Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghế, tổ chức, cá nhân vi
phạm không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
4.2. Đánh giá tính hợp lý của hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép,chứng chỉ
hành nghề.
Đây được coi là hình thức xử phạt bổ sung không áp dụng độc lập và chỉ được áp dụng khi có

hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Tuy là hình thức xử phạt bổ sung nhưng tước
quyền sử dụng giấy phép là biện pháp nghiêm khắc, do đó nó không thể áp dụng với hình thức xử
phạt cảnh cáo (vì hình thức cảnh cáo theo Pháp lệnh quy định được áp dụng đối với vi phạm nhỏ,
lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ, mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể).
Để đánh giá tính hợp lý của hình thức này cũng cần chú ý, việc quy định tước quyền sử dụng
giấy phép có 2 mức độ khác hẳn nhau: tich thu có thời hạn và tich thu không thời hạn các loại giấy
phép mà trước đó Nhà nước đã cấp cho người vi phạm sẽ giúp cho việc đánh giá tính chất mức độ
vi phạm đúng đắn và dễ dàng hơn. Tước quyền sử dụng giấy phép có thể được coi là phương tiện
cuối cùng để đấu tranh với vi phạm hành chính khi việc áp dụng các hình thức xử phạt chính chưa
hẳn có khả năng phòng ngừa vi phạm từ phía người vi phạm. Hình thức tước quyền sử dụng giấy
phép được áp dụng đối với đối tượng vi phạm để lại hậu quả nặng nề cho họ. ví dụ: Người bị tước
quyền kinh doanh sẽ mất đi nguồn thu nhập hoặc có khi phải chuyển làm nghề khác. Cũng chính vì
lý do này mà đây có thể được coi là tính hợp lý khi quy định đây là 1 hình thức xử phạt trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi bổ sung 2008).
4.3. Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình thức xử phạt tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Khi áp dụng hình thức này cần lưu ý: trong mọi trường hợp, việc tước quyền sử dụng giấy
phép phải được xem xét trong mối quan hệ giữa vi phạm đã được thực hiện với nội dung của
giấy phép được cấp. Về nguyên tắc, giấy phép chỉ bị tịch thu khi vi phạm có lien quan tới quy
tắc, chế độ sử dụng giấy phép. Ví dụ: tước bằng lái xa của người vi phạm được áp dụng khi
người đó vi phạm Luật lệ giao thông ở mức độ đáng kể. Tước quyền sử dụng giấy phép là chế
7


tài phạt do vậy không được nhầm lẫn với biện pháp tạm giữ giấy phép (khi có vi phạm) là biện
pháp tố tụng), hoặc không được nhầm lẫn với việc thu hồi giấy phép do cấp không đúng thẩm
quyền, trái với pháp luật…
5. Hình thức xử phạt tịch thu tang vật được sử dụng để vi phạm hành chính.
5.1. Cơ sở lý luận.
Đây cũng là một hình thức xử phạt bổ sung được quy định cụ thể tại Điều 17 Pháp lệnh

XPVPHC, người có thẩm quyền xử phạt quyết định áp dụng biện pháp tịc thu để xung vào công
quỹ nhà nước các tài sản, vật dụng, hàng hóa, tiền bạc…dùng để thực hiện hành vi vi phạm hành
chính hoặc do vi phạm hành chính mà có.
Riêng đối với vật, tiền, phương tiện thuộc sở hữu nhà nước hoặc thuộc sở hữu hợp pháp của
người khác bị cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thì không
bị tich thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chúng.
Ví dụ: Hành vi đưa hối lộ người thi hành công vụ, ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân tổ chức vi
phạm còn bị tich thu toàn bộ số tiền, tài sản hoặc vật chất dùng để hối lộ người thi hành công
vụ sung vào công quỹ nhà nước.
5.2. Đánh giá tính hợp lý của hình thức xử phạt tịch thu tang vật được sử dụng để vi
phạm hành chính.
Tịch thu là hình thức xử phạt, do đó khi áp dụng nó phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm
và các yếu tố khác để xem xét mức độ tịch thu. Tuy nhiên trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính lại không quy định giới hạn tối đa của tịch thu. Có thể coi đây là điều mâu thuẫn với nguyên
tắc xử lý vi phạm hành chính quy định tại Khoản 5 Điều 3 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
“việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân than và những tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định biện pháp xử lý phù hợp”. Do đó hình thức tịch thu tang vật,
phương tiện là chế tài hành chính không được phân biệt rõ rang với tich thu là chế tài hình sự. trong
thực tế, tịch thu tang vật, phương tiện đã dẫn đến tình trạng kiện cáo, gây hoang mang trong nhân
dân.
5.3. Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình thức xử phạt tịch thu tang vật
được sử dụng để vi phạm hành chính.
- Cần xác định tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng là hình thức phạt chứ không nên
quan niệm là biện pháp ngăn chặn hành chính.
- Tịch thu phải được thực hiện đối với tang vật, phương tiện là sở hữu hợp pháp của đối
tượng vi phạm có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính.
- Cần giới hạn tối đa của mức tịch thu.
- Khi tich thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính cũng cần nếu rõ
nguyên tắc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm đã bị tịch thu để xử lý kịp thời, tránh tình trạng
8



để hư hỏng, thất lạ, mất mát. Thậm chí chiếm đoạt phương tiện, tang vật bị tich thu.
 Đánh giá tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính
gây ra.
1. Cơ sở lý luận.
Các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính bao gồm:
1.1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc
buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.(Điều 18 Pháp lệnh XLVPHC 2002 sửa đổi bổ sung
2008).
Cá nhân, tổ chức phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị tháy đổi do vi phạm hành chính
của mình gây ra hoặc phải tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm
không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm
phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
1.2. Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành
chính gây ra.( Điều 19 Pháp lệnh XLVPHC 2002 sửa đổi bổ sung 2008).
Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải đình chỉ ngay các hành vi vi phạm gây ô nhiễm
môi trường, lây lan dich bệnh và phải thực hiện các biện pháp để khắc phục; nếu cá nhân, tổ
chức vi phạm không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ
chức vi phạm phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
1.3. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương
tiện.( Điều 20 Pháp lệnh XLVPHC 2002 sửa đổi bổ sung 2008).
Hàng hóa, vật phẩm được đưa vào Việt nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc
hang tạm nhập tái xuất nhưng không được tái xuất theo đúng quy định của pháp luật thì buộc
đưa ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc buộc tái xuất. . Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi
phí để thực hiện biện pháp này.
1.4. Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng, văn hóa
phẩm đọc hại.(Điều 21 Pháp lệnh XPVPHC 2002 sửa đổi bổ sung 2008).
Vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại là
tang vật vi phạm hành chính phải bị tiêu hủy. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện

thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi
phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
1.5. Các biện pháp khác do pháp luật quy định
2. Đánh giá chung tính hợp lý của các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành
chính gây ra.
Những biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng chủ yếu để khôi phục lại những thiệt hại trên
thực tế. Đây là những biện pháp được áp dụng đối với cá nhân tổ chức vi phạm trong trường hợp
9


đưa hàng hóa, vật phẩm, phương tiện vào lãnh thổ Việt nam, gây ảnh hưởng tới việc giữ gìn vệ sinh
chung; vi phạm quy định về nếp sống văn minh; gây hư hại đến công trình công cộng, công trình an
ninh….
Như vậy theo quy định của pháp luật thì chỉ được áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối
với hành vi vi phạm hành chính nếu Nghị định số 150/2005 có quy định biện pháp khắc phục hậu
quả. Một hành vi vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu
quả và biện pháp khắc phục hậu quả không được áp dụng độc lập mà phải áp dụng kèm theo hình
thức xử phạt chính, trừ trường hợp hết thời hiệu xử phạt theo quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh và
hết thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 1 Điều 56
của Pháp lệnh. Đây là một quy định khá hợp lý vì thực tế cho thấy, có trường hợp đã quá thời hạn
xử phạt vi phạm hành chính mà quan hệ pháp luật bị xâm hại vẫn chưa được khắc phục (ví dụ như
chưa tháo dỡ công trình trái phép) thì có nghĩa là vi phạm chưa được giải quyết. Vì vậy, việc quy
định áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp luật
trên thực tế đồng thời góp phần khôi phục lại những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế.
3.Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về các biện pháp khắc phục hậu quả do vi
phạm hành chính gây ra.
Việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả phải luôn đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Chỉ được áp dụng khi văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính cho phép áp dụng đối
với vi phạm hành chính cụ thể đó.
- Khi áp dụng phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật về thẩm quyền, thủ tục áp dụng.

- Nguyên tắc áp dụng: áp dụng kèm với hình thức xử phạt trong quyết định xử phạt hoặc áp
dụng độc lập trong một quyết định hành chính khi:
+ Trường hợp đã hết thời hiệu xử phạt hành chính quy định tại điều 10 của pháp lệnh.
+ Khi hết thời hạn ban hành quyết định xử phạt hành chính quy định tại khoản 1 điều 56 Pháp
lệnh XPVPHC 2002 sửa đổi bổ sung 2008.
+ Khi đã hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt hành chính mà quyết định xử phạt đó có áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
+ Khi hết thời hạn chấp hành xử phạt hành chính
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Qua việc đánh giá tính hợp lý của những hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp
khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra đã giúp chũng ta có cái nhìn khái quát hơn về
những ưu điểm cũng như những điểm còn tồn tại để tìm ra phương hướng hoàn thiện những quy
định đó. Cùng với sự nâng cao ý thức pháp luật của người dân và việc sửa đổi bổ sung những
vướng mắc còn tồn tại trong những quy định trên , hứa hẹn chắc chắn sẽ hoàn thiện hơn trong tương
lai, chúng ta có quyền tin tưởng rằng vi phạm trong lĩnh vực hành chính nói riêng và vi phạm pháp
luật nói chung sẽ giảm đi đáng kể.
10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, trường ĐH Luật Hà nội, NXB CAND.
2. Giáo trình Luật hành chính Việt nam, ĐH QGHN. Khoa Luật, PGS.TS Nguyễn Cửu Việt,
NXB ĐHQGHN.
3. Giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính Việt nam, Học viện hành chính quốc
gia, NXB Giáo dục.
4. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 ( sửa đổi, bổ sung 2008)
5. Nghị định số 128/2008/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành 1 số điều của pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002, sửa đổi bổ sung 2007, 2008.
6. “Hoàn thiện quy định pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính”. Luận án
tiến sĩ Luật học. Nguyến Thu Hòa.

7. “Xử phạt vi phạm hành chính rong lĩnh vực trật tự và an toàn xã hội”. Khóa luận tốt
nghiệp.
8. Và một số website tham khảo khác.

11


MỤC LỤC

12



×