Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phân tích các nội dung pháp lý cơ bản về dịch vụ logistics

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.69 KB, 19 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.
LOGISTICS là một thuật ngữ mới mẻ đối với mọi người. Tuy vậy,dịch vụ về logistics
lại đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong giai đoạn của nước ta hiện nay – nhất là
trong nền kinh tế thị trường, hội nhập. Do vậy, việc tạo ra một hành lang pháp lý là một
vấn đề quan trọng hàng đầu. Nó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
Việt Nam kinh doanh dịch vụ logistics mà còn giúp cho nước ta tận dụng được cơ hội từ
việc hội nhập thị trường này, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế. và để hiểu rõ hơn về
những vấn đề pháp lí về dịch vụ logistics thì nhóm em đã lựa chọn đề tài : “ Phân tích
các nội dung pháp lý cơ bản về dịch vụ logistics” để tìm hiểu.


B. NỘI DUNG.
I. KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS.
1. Khái niệm.
Theo quy định tại Điều 233 của Luật thương mại (LTM) 2005: “ Dịch vụ logistics là
hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn,
bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ
khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi mã kí hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác
liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao ”. Nói một cách
đơn giản, dịch vụ logistics là việc thực hiện và kiểm sát hàng hóa cũng những thông tin có
liên quan từ nơi hình thành nên hàng hóa đến nơi tiêu thụ hàng hóa cuối cùng
2. Đặc trưng của dịch vụ logistics.
Thứ nhất, chủ thể của quan hệ dịch vụ bao gồm 2 bên:
- Người làm dịch vụ logostics. người làm dịch vụ phải là thương nhân, có đăng kí kinh
doanh dịch vụ logistics.
- Khách hàng là những người có hàng hóa cần gửi hoặc cần nhận và có nhu cầu cần sử dụng
dịch vụ logistics. Như vậy, khách hàng có thể là thương nhân, hoặc không phải là thương
nhân, có thể là chủ sở hữu hàng hóa hoặc không phải là chủ sở hữu hàng hóa
Thứ hai, Nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng, bao gồm các công việc như:
- Nhận hàng từ người gửi để tổ chức việc vận chuyển, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu,
chuyển hàng từ kho của người gửi tới cảng, bến tàu, bến xe và địa điểm giao hàng khác theo


thỏa thuận giữa người vận chuyển với người thuê vận chuyển;
- Làm thủ tục, giấy tờ cần thiết (thủ tục hải quan, vận đơn vận chuyển, làm thủ tục gửi giữ
hàng hóa…) để gửi hàng hóa hoặc nhận hàng hóa được vận chuyển đến;
- Giao hàng hóa cho người vận chuyển; xếp hàng hóa lên phương tiện vận chuyển theo quy
định; nhận hàng hóa được vận chuyển đến;
- Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi bảo quản hàng hóa hoặc thực hiện việc giao hàng
được vận chuyển đến cho người có quyền nhận hàng.


Thứ ba, Dịch vụ logistics là một loại hoạt động dịch vụ thương nhân kinh doanh dịch vụ
này được khách hàng trả tiền công và các khoản chi phí hợp lý khác từ việc cung ứng.
3. Phân loại dịch vụ logistics
Theo Điều 4 Nghị định số 140/2007/NĐ – CP thì dịch vụ logistics được phân loại như sau:
Thứ nhất, các dịch vụ logistics chủ yếu bao gồm:
- Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
- Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container
và kho xử lý nguyên liệu thiết bị;
- Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch
bốc dỡ hàng hóa;
- Dịch vụ bổ trở khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu giữ kho và quản lý thông tin liên
quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi logistics; hoạt động xử lý
hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối
hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container
Thứ hai, các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
- Dịch vụ vận tải hàng hải; Dịch vụ vận tải thủy nội địa; Dịch vụ vận tải hàng không; Dịch
vụ vận tải đường sắt; Dịch vụ vận tải đường bộ;Dịch vụ vận tải đường ống
Thứ ba, các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
- Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật; Dịch vụ bưu chính; Dịch vụ thương mại bán buôn;
Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp,
phân phối loại hàng hóa, phân phối lại và giao lại hàng; và Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ DICH VỤ LOGISTICS
1.Một số văn bản pháp lý liên quan.
- Luật thương mại 2005, từ Điều 233 đến Điều 240;
- Nghị Định số 140/2007/ NĐ-CP ngày 05/9/2007 quy định chi tiết LTM về điều kiện kinh
doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics.
- Bộ luật dân sự 2005


- Luật doanh nghiệp 2005
- Bộ luật hàng hải 2005
- Nghị định số 115/2007/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển
- Nghị định số 128/NĐ-CP về dịch vụ chuyển phát.2. Nội dung pháp lý cơ bản về dịch vụ
logistics ở Việt Nam.
2.1. Quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.
Trước hết, cần khẳng định thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải là doanh nghiệp
đáp ứng được các điều kiện của Luật doanh nghiệp và Luật doanh nghiệp Nhà nước, cũng
như các văn bản hướng dẫn của các luật này. Theo khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp thì
doanh nghiệp: “ là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh”. Như vậy, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể tốn tại dưới hình
thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư
nhân… và tồn tại dưới hình thức nào thì phải đáp ứng điều kiện pháp luật về hình thức ấy.
Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện của Luật doanh nghiệp hoặc
Luật doanh nghiệp nhà nước đều có thể kinh doanh dịch vụ logistics, mà còn phải đáp ứng
các điều kiện riêng biệt khác của loại hình dịch vụ này cụ thể: Doanh nghiệp muốn kinh
doanh dịch vụ logistics thì phải có đăng ký kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh về dịch vụ logistics. Đây được coi là một điều kiện rất quan trọng, là cơ sở để
phân biệt giữa thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics với những thương nhân kinh doanh
dịch vụ đơn lẻ thuộc các công đoạn của hoạt động logistics như dịch vụ vận tải, giao nhận,

khai thuế hải quan…Bên cạnh đó thì còn phải đáp ứng điều kiện “ có đủ phương tiện, thiết
bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng nhu cầu ”,
điều đó có nghĩa là bên cạnh điều kiện “ cần” còn phải có điều kiện “đủ”. Các phương tiện,
thiết bị, công cụ ở đây có thể là xe nâng hạ hàng hoá, dây chuyền, băng tải, phương tiện
đóng gói mã hoá hàng hoá…đặc biệt là phải có đội ngũ nhân viên được đào tạo đáp ứng nhu
cầu công việc. Có nghĩa là đội ngũ này phải đáp ứng các yêu cầu, trình độ, năng lực, chuyên
môn nghiệp vụ và kiến thức hiểu biết pháp luật trong nước cũng như pháp luật quốc tế. Ví


dụ, đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải, thì phải thông thuộc mạng lưới
giao thông vận tải để có thể tính toán lựa chọn phương án tối ưu theo yêu cầu của chủ hàng,
giải quyết việc tiếp chuyển giữa các phương tiện vận tải và các chứng từ hàng hoá liên quan
đến quá trình vận chuyển, ngoài ra cũng phải hiểu biết pháp luật Việt Nam và vận dụng có
hiệu

quả

cũng

như

các

tập

quán

thương

mại


quốc

tế

trong

công

việc.

Đối với thương nhân nước ngoài khi tham gia kinh doanh dịch vụ logistics nói chung ở Việt
Nam, bên cạnh phải đáp ứng được các điều kiện chung giống như thương nhân Việt Nam
được quy định tại khoản 1, 2 Điều 5 của Nghị định số 140/2007 thì còn phải đáp ứng thêm
các điều kiện khác về hình thức tồn tại, tỷ lệ góp vốn và tuân thủ các cam kết của Việt Nam
về mở cửa thị trường kinh doanh dịch vụ logistics khi gia nhập WTO. Theo khoản 3 Điều 5
Nghị định số 140/2007, về hình thức tồn tại thì thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ
logistics tại Việt Nam chỉ được thành lập công ty liên doanh với tỷ lệ vốn góp trong mỗi
công đoạn của hoạt động logistics là khác nhau, cụ thể: Đối với trường hợp kinh doanh dịch
vụ bốc dỡ hàng hoá tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%; đối với trường
hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%,
hạn chế này chấm dứt vào năm 2014; trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải tỷ lệ vốn
góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51% không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư
nước ngoài kể từ năm 2014; trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì tỷ lệ vốn góp
không quá 49%, hạn chế này là 51% kể từ năm 2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.
* Đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải:
Thứ nhất, theo Điều 6 Nghị định số 140/2007 thì thương nhân kinh doanh dịch vụ này cũng
phải đáp ứng được các điều kiện chung giống như các thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics chủ yếu: “là thương nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt
Nam” ( Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 140), điều kiện thứ hai có sự khác nhau do liên quan

đến lĩnh vực khác nhau, đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics này thì ngoài yêu
cầu trên, còn phải: “ Tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp
luật Việt Nam” ( Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 140). Điều đó có nghĩa là thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải đường biển thì sẽ phải tuân thủ các quy định


của Bộ luật hàng hải và các văn bản có liên quan như Nghị định số 115/2007/NĐ-CP về điều
kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển…, hay thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên
quan đến vận tải hàng không thì phải tuân thủ các quy định của Luật Hàng không dân dụng
Việt Nam, điều lệ vận chuyển hàng hoá quốc tế của hãng hàng không quốc gia Việt Nam và
các văn bản hướng dẫn Luật Hàng khôn dân dụng… Thứ hai, tại Điều 234 LTM 2005 chỉ
quy định rất chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics cụ thể: “thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics theo quy định của pháp
luật”. Do đó, Chính phủ đã quy định chi tiết điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics trong các
văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó:
- Đối với thương nhân kinh doanh các dịch vụ logistics chủ yếu: Theo quy định tại Điều 5
của Nghị định này, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải đáp ứng các điều kiện sau:
“ 1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt
Nam
2. Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật, và có đội ngũ
nhân viên đáp ứng yêu cầu.
3. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch logistics ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy
định tại khoản 2 điều này chỉ được kinh doanh dịch vụ logistics khi tuân thủ các điều kiện cụ
thể sau đây:
a, Trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được thành lập công ty liên
doanh, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%
b, Trường hợp kinh doanh dịch vụ kho bãi thì thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ
vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2014;
c, trường hợp kinh doanh dịch vụ đại lý vận tải thì được thành lập công ty liên doanh, trong
đó tỷ lện góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, được thành lập công ty liên

doanh không hạn chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm 2014;
d, Trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì được thành lập công ty liên doanh, trong
đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ năm
2010 và chấm dứt hạn chế vào năm 2014.”


- Đối với thương nhân nước ngoài khi kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải tại
Việt Nam thì bên cạnh việc đáp ứng các điều kiện chung như trên còn phải đáp ứng thêm các
điều kiện riêng khác được quy định ở khoản 3 Điều 6 Nghị định số 140/2007, cụthể:
- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hải thì chỉ được thành lập công ty liên doanh
vận hành đội tàu từ năm 2009, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá
49%; được thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế trong đó tỷ lệ góp vốn
của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%, hạn chế này chấm dứt vào năm 2012;
- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải thuỷ nội địa thì chỉ được thành lập công ty liên
doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%
- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thì thực hiện theo quy định của Luật
hàng không dân dụng Việt Nam;
- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường sắt thì chỉ được thành lập công ty liên
doanh, trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%
- Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải đường bộ thì được thành lập công ty liên doanh,
trong đó tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%; hạn chế này là 51% kể từ
năm 2010;
- Không được thực hiện dịch vụ vận tải đường ống, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
* Đối với các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan khác:
Điều 7 của Nghị định số 140/2007 các thương nhân này cũng phải đáp ứng được các điều
kiện chung giống như thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chủ yếu đó là phải “ Là
doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam” ( khoản 1 Điều 7
Nghị định số 140/2007)
Đối với thương nhân nước ngoài khi kinh doanh dịch vụ logistics này thì ngoài điều kiện

chung đó còn phải đáp ứng được những điều kiện cụ thể quy định ở khoản 2 Điều 7 Nghi
định số 140/2007 đó là:
- Trường hợp kinh doanh dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật: Đối với những dịch vụ
được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ thì chỉ được thực hiện dưới hình thức


liên doanh sau ba năm hoặc dưới các hình thức khác sau năm năm, kể từ khi doanh nghiệp
được phép kinh doanh các dịch vụ đó.
Không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận
tải. Việc thực hiện dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật bị hạn chế hoạt động tại các khu
vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phòng.
- Trường hợp kinh doanh dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ thương
mại bán lẻ thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.
- Không được thực hiện các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Như vậy, để có thể là thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics các thương nhân phải đáp
ứng rất nhiều điều kiện, và ở loại hình dịch vụ nào thì các thương nhân ngoài việc phải đáp
ứng các yêu cầu chung còn phải đáp ứng các điều kiện riêng của dịch vụ ấy theo quy định
của pháp luật chuyên ngành.
2.2.

Quyền



nghĩa

vụ

các


bên

trong

quan

hệ

dịch

vụ

logistics

a. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
* Quyền của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Theo quy định tại Điều 235 LTM 2005 thì các chủ thể kinh doanh dịch vụ logistics có
quyền thoả thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ. Trong trường hợp các chủ thể không thoả
thuận được thì theo quy định họ có các quyền và nghĩa vụ tại Điều 235. Cụ thể:
- Quyền được hưởng thù lao và chi phí hợp lý khác từ việc thực hiện dịch vụ.
Mức thù lao dịch vụ do các bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng. Mức thù lao này có thể
được xác định theo số tiền tuyệt đối hoặc theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá. Mức thù lao do các bên
thoả thuận và phụ thuộc vào nội dung, mức độ phức tạp của công việc giao nhận hàng hoá mà
khách hàng uỷ thác cho người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá thực hiện.
Ngoài tiền thù lao, người làm dịch vụ logistics có thể yêu cầu khách hàng thanh toán các khoản
chi phí hợp lý liên quan đến việc thực hiện dịch vụ nếu điều này được các bên thoả thuận trong
hợp đồng



Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền thù lao và các khoản chi phí hợp lý khác, người làm
dịch vụ logistics có quyền cầm giữ và định đoạt hàng hoá. Theo Điều 239 LTM 2005 thì: “
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền cầm giữ một số lượng hàng hoá nhất định
và các chứng từ liên quan đến số lượng hàng hoá đó để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng
nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng”. Tuy nhiên, quyền cầm giữ hàng hóa chỉ phát sinh
khi có các điều kiện sau:
+ Khách hàng không thanh toán nợ đã đến hạn thanh toán cho người làm dịch vụ logistics.
+ Người làm dịch vụ chỉ được quyền cầm giữ số lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá
trị nợ mà khách hàng chưa thanh toán, không được vượt qúa giá trị khoản nợ đó.
+ Người làm dịch vụ phải thông báo bằng văn bản ngay cho khách hàng về việc cầm giữ hàng
hoá.
Quyền định đoạt hàng hoá cầm giữ của người làm dịch vụ logistics chỉ phát sinh nếu sau thời
hạn 45 ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ hàng hoá hoặc chứng từ liên quan đến hàng hoá, nếu
khách hàng không trả tiền nợ thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền định đoạt
hàng hoá hoặc chứng từ đó theo quy định của pháp luật, trong trường hợp hàng hoá có dấu hiệu
bị hư hỏng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền định đoạt hàng hoá ngay khi
có bất kỳ khoản nợ đến hạn nào của khách hàng. Việc định đoạt hàng hoá cầm giữ phải tuân thủ
các quy định của pháp luật hiện hành đó là, trước khi định đoạt hàng hoá, thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics phải thông báo ngay cho khách hàng biết về việc định đoạt hàng hoá đó.
Trường hợp cầm giữ và định đoạt hàng hoá sai trái gây thiệt hại cho khách hàng thì người làm
dịch vụ logistics phải bồi thường theo quy định của pháp luật
* nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
- Thực hiện các công việc theo đúng thoả thuận với khách hàng. Đây được coi là nghĩa vụ
cơ bản nhất của người làm dịch vụ logistics để nhằm đảm bảo được quyền lợi của khách hàng.
Các công việc mà người làm dịch vụ logistics phải thực hiện có thể đã được thoả thuận trong
hợp đồng dịch vụ logistics, hoặc được khách hàng hướng dẫn cụ thể trên cơ sở các quy định
chung của hợp đồng. Về nguyên tắc thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải làm theo


đúng những chỉ dẫn của khách hàng. Tuy nhiên để đảm bảo lợi ích cho khách hàng thì theo

điểm b, c khoản 1Điều 235 LTM 2005 quy định: “ Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có
lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể
thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng; Khi
xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được một phần hoặc toàn bộ những chỉ
dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn”.
- Nghĩa vụ thực hiện các công việc cho khách hàng trong một thời gian hợp lý khi mà các bên
không có thoả thuận. Riêng đối với dịch vụ logistics liên quan đến vận tải thì thương nhân còn
phải có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải.
Có thể nói, Các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics ngoài các quyền và nghĩa vụ đã nêu ở
trên được quy định trong LTM 2005 thì các thương nhân này còn có các quyền và nghĩa vụ cụ
thể được quy định trong các Luật chuyên ngành. Chẳng hạn, đối với thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics vận chuyển đường biển thì nghĩa vụ của họ được quy định tại Điều 75 Bộ luật
hàng hải:
“1. Người vận chuyển phải mẫn cán để trước và khi bắt đầu chuyến đi, tàu biển có đủ khả
năng đi biển, có thuyền bộ thích hợp, được cung ứng đầy đủ trang thiết bị và vật phẩm dự trữ,
các hầm lạnh và khu vực khác dung để vận chuyển hàng hoá có điều kiện nhận, vận chuyển và
bảo quản hàng hoá phù hợp với tính chất của hàng hóa
2. Người vận chuyển chịu trách nhiệm về bốc xếp hàng, dỡ hàng cẩn thận và thích hợp, chăm
sóc chu đáo trong quá trình vận chuyển
3. Người vận chuyển phải thông báo trong thời gian hợp lý cho người giao hàng biết trước
về nơi bốc hàng lên tàu biển, thời điểm mà tàu sẵn sang nhận hàng và thời hạn tập kết hàng
hoá. Việc thông báo này không áp dụng với tàu chuyển tuyến, trừ trường hợp lịch tàu có sự
thay

đổi”.

Như vậy căn cứ từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể cũng như việc thực hiện một hay nhiều chuỗi
dịch vụ logistics mà các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có các quyền, nghĩa vụ quy
định trong các văn bản pháp luật khác nhau



b. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng.
Khách hàng khi sử dụng dịch vụ logistics, với tư cách là một bên trong quan hệ hợp đồng dịch
vụ logistics thì cũng được quyền thoả thuận các quyền và nghĩa vụ đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics. Những gì các bên đã thoả thuận trong hợp đồng mà không trái với pháp
luật, đạo đức xã hội thì được pháp luật tôn trọng. Trường hợp các bên không có thoả thuận thì
quyền, nghĩa vụ của khách hàng sẽ áp dụng theo quy định trong Điều 236 LTM cụ thể:
- Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng;
- Cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics;
- Thông tin chi tiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hoá cho thương nhân kinh doanh dịch
vụ

logistics

- Đóng gói, ghi ký mã hiệu hàng hoá theo hợp đồng mua bán hàng hoá, trừ trường hợp có thoả
thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện công việc này
- Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc trong trường hợp do lỗi của
mình gây ra;
- Thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản tiền đã đến hạn thanh
toán.
2.3. Trách nhiệm của người làm dịch vụ logistics
Khi một bên không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ hợp đồng gây ảnh hưởng đến quyền lợi của
bên kia thì sẽ làm phát sinh trách nhiệm hợp đồng. LTM có một số quy định riêng về trách
nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng logistics như sau:
Thứ nhất, Về giới hạn trách nhiệm: Điều 238 LTM 2005 quy định: “Trừ khi các bên có thoả
thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không vượt quá
giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất hàng hoá”. Theo quy định này, giới hạn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là một ngoại lệ của chế tài bồi
thường thiệt hại trong hoạt động thương mại nói chung khi Điều 302 LTM 2005 quy định: “Giá

trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu


do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không
có hành vi vi phạm”. Và theo nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy
định trong Bộ luật dân sự thì bên vi phạm hợp đồng gây ra thiệt hại bao nhiêu thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường bấy nhiêu. Nhưng riêng đối với hoạt động kinh doanh logistics, thương nhân
lại được hưởng giới hạn trách nhiệm không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất hàng
hoá. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đều được
hưởng quyền giới hạn trách nhiệm này. Trong trường hợp “nếu người có quyền và lợi ích liên
quan chứng minh được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm do thương nhận kinh
doanh dịch vụ logistics cố tình hành động hoặc không hành động”, thì thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics sẽ không được hưởng giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Để cụ thể hoá các quy định này, tại Nghị định 140/2007/NĐ-CP quy định chi tiết về điều kiện
kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics có quy định về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên
quan đến vận tải như sau:
“1. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải
thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan về giới hạn trách nhiệm trong lĩnh vực vận
tải.
2. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không thuộc phạm vi
khoản 1 Điều này do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận thì thực hiện
như

sau:

a) Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về giá trị của hàng hoá thì giới hạn trách
nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường.
b) Trường hợp khách hàng đó thông báo trước về giá trị của hàng hoá và được thương nhân
kinh doanh dịch vụ logistics xác nhận thì giới hạn trách nhiệm là toàn bộ giá trị của hàng hoá

đó
3. Giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức
thực hiện nhiều công đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm khác nhau thì giới hạn trách nhiệm
của công đoạn có giới hạn trách nhiệm cao nhất”.


Theo khoản 1 điều này thì trong lĩnh vực vận tải, giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh
doanh vận tải phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về vận tải, ví dụ: giới hạn trách nhiệm của
thương nhân kinh doanh vận tải đa phương thức được quy định tại Điều 121 Bộ luật hàng hải:
“Trường hợp hàng hoá bị mất, hư hỏng xảy ra ở một phương thức vận tải nhất định của quá
trình vận chuyển, các quy định của pháp luật tương ứng điều chỉnh phương tiện vận tải đó của
vận tải đa phương thức được áp dụng đối với trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của người
kinh doanh vận tải đa phương thức”. Nghĩa là, một người kinh doanh vận tải đa phương thức,
họ sử dụng rất nhiều phương tiện vận tải khác nhau. Trường hợp họ sử dụng tàu biển để vận
chuyển hàng hóa thì giới hạn trách nhiệm cụ thể được quy định tại Bộ luật hàng hải, Nghị định
115/2007 về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển, hay trong trường hợp họ sử dụng ô tô để
vận chuyển thì giới hạn trách nhiệm của họ Luật giao thông đường bộ…Tuy nhiên, giới hạn
trách nhiệm do các bên thoả thuận vẫn được coi là ưu tiên số một trong hợp đồng. Trong trường
hợp họ không thoả thuận thì pháp luật cũng đưa ra một mức tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi
yêu cầu bồi thường khi khách hàng không thông báo trước về giá trị của hàng hoá. Trường hợp
khách hàng đã có thông báo trước về giá trị của hàng hoá thì “giới hạn trách nhiệm là toàn bộ
giá trị của hàng hoá đó”.
Thứ hai, Về các trường hợp miễn trách nhiệm: Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được
miễn trách nhiệm hợp đồng trong các trường hợp sau:
- Việc vi phạm hợp đồng không phải do lỗi của họ. Ví dụ: Người làm dịch vụ đã làm đúng theo
những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền; hàng hoá bị hư hỏng
do khách hàng đóng gói và ghi ký mã hiệu hàng hoá không phù hợp, do khuyết tật của hàng
hoá, do lỗi của người vận chuyển khác.
- Các lý do khách quan nằm ngoài tầm kiểm soát của người làm dịch vụ như: Các trường hợp
bất khả kháng ( thiên tai, địch họa), đình công hay do thay đổi chính sách pháp luật.

III. ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ LOGISTICS VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN.
1.Đánh giá các quy định pháp lý về logistics.


Thứ nhất, về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics: Theo Điều 5 Nghị định số 140 quy định
yêu cầu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải “ có đầy đủ phương tiện, thiết bị,
công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng nhu cầu” trên
thực tế chưa đáp ứng được. Nhìn từ hoạt động thực tế kinh doanh dịch vụ logistics, các
thương nhân có thể tham gia một hoặc nhiều công đoạn của chuỗi dịch vụ này. Chẳng hạn,
thương nhân đăng ký làm đại lý thủ tục hải quan hay như thương nhân làm trung gian thuê
tàu chủ tàu chẳng hạn. Thế nào là có đủ phương tiện, kỹ thuật đảm bảo tiêu chuẩn thì không
có một văn bản nào đưa ra tiêu chí cả, điều này sẽ rất khó để thẩm định. Vì vậy, sẽ dẫn đến
tình trạng tiêu cực trong việc xác định tiêu chuẩn, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu, mỗi nơi, mỗi
ngành xác định một kiểu.
Thứ hai, Nghị định số 140/2007/ NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết LTM về điều kiện
kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics đã được coi là hành lang pháp lý quan trọng để phát triển loại hình dịch vụ này tại
Việt Nam. Tuy nhiên việc nghị định này dành riêng một điều (Điều 6 - trong số 12 điều của
nghị định) để đề cập đến điều kiện kinh doanh đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics liên quan đến vận tải cho thấy, Nghị định chưa bao quát được hết hoạt động dịch vụ
logistics mà mới chỉ chuyên về lĩnh vực vận tải.
Thứ ba, trong quy định tại Điều 235 LTM 2005 về quyền, nghĩa vụ của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics có đề cập đến quyền được hưởng “ thù lao dịch vụ và các chi phí
hợp lý khác”. Tuy nhiên, “ chi phí hợp lý khác” là chi phí gì thì chưa có văn bản hướng dẫn
cụ thể. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc xác định trên thực tế và có thể ảnh hưởng đến lợi
ích của một trong các bên của quan hệ hợp đồng dịch vụ logistics.
Thứ tư, về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tại Điều 238
LTM 2005 có quy định: “ trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, toàn bộ trách nhiệm
của thương nhận kinh doanh dịch vụ logistics không vượt quá giới hạn tổn thất với khách

hàng”. Tuy nhiên, ở đây lại không nói rõ giới hạn tổn thất cho khách hàng là giới hạn tổn
thất hiện tại hay tương lai. Vì thực tế có những tổn thất có tính “ tương lai”, chẳng hạn do


hàng hoá bị giao chậm ảnh hưởng đến thu nhập hình thành trong tương lai của khách hàng.
Cũng tại Điều 8 Nghị định số 140/2007 có xác định giới hạn trách nhiệm tối đa trong trường
hợp các bên không có thoả thuận và khách hàng không có thông báo trước về giá trị của
hàng hoá bằng một con số cụ thể “ tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường”.
Việc định lượng giới hạn trách nhiệm bằng một số lượng cụ thể như vậy sẽ tạo cho việc áp
dụng trên thực tế được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra một bất cập rất lớn đó là
trong nhiều trường hợp khối lượng hàng hoá vận chuyển cho khách hàng bị mất mát, hư
hỏng lớn hơn nhiều so với mức 500 triệu đồng. Và theo quy định này thì sẽ ảnh hưởng đến
quyền lợi của khách hàng. Đặc biệt trong xu thế hội nhập, mở cửa như hiện nay, quy định
này sẽ làm hạn chế khách hàng nước ngoài sử dụng dịch vụ logistics liên quan đến vận tải để
vận chuyển hàng hoá.
Thứ năm, Trong quy định về phân loại dịch vụ logistics tại Điều 4 Nghị định số 140/2007 thì
dịch vụ logistics được phân làm 3 loại: Dịch vụ logistics chủ yếu, dịch vụ logistics liên quan
đến vận tải và các dịch vụ liên quan khác. Việc phân loại như trên mặc dù rất rõ ràng, cụ thể
tuy nhiên vẫn không bao quát được hết các dịch vụ logistics khác hiện đang tồn tại, mà mới
chỉ nghiêng về các dịch vụ logistics mang tính vận tải. Ngay trong dịch vụ logistics chủ yếu
có dịch vụ bốc xếp, dịch vụ đại lý vận tải, dịch vụ lưu kho, lưu bãi…hầu như chỉ để phục vụ
cho dịch vụ logistics liên quan đến vận tải. Đối với dịch vụ logistics liên quan đến vận tải,
Nghị định đề cập đến 6 hình thức dịch vụ vận tải đang được tiến hành trên thực tế. Việc quy
định liệt kê như vậy bao giờ cũng dẫn đến thiếu vì có những dịch vụ trong tương lai sẽ được
hình thành hoặc có những hình thức vận tải đang tồn tại nhưng chưa được coi là hình thức
dịch vụ logistics liên quan đến vận tải.
Cũng theo quy định này “ dịch vụ bưu chính” được coi là dịch vụ logistics liên quan. Tuy
nhiên, Nghị định số 128/2007 về dịch vụ chuyển phát lại không điều chỉnh hoạt động kinh
doanh và sử dụng “ …dịch vụ logistics; dịch vụ vận tải đa phương thức quốc tế; dịch vụ
giao nhận bằng phương thức vận tải đường không, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường

sắt, đường bộ” (Điều 1). Vấn đề chưa rõ về pháp luật này cần được các nhà lập pháp làm rõ.
Thứ sáu, quy định về quản lý nhà nước đối với dịch vụ logistics hiện nay theo Điều 9 Nghị


định số 140 thì có rất nhiều các Bộ, Ngành liên quan tham gia quản lý nhưng pháp luật lại
chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền của từng cơ quan. Điều này sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn,
chồng chéo lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện.
Từ một số hạn chế nêu trên và dựa vào một số tài liệu liên quan, nhóm xin đưa ra một số giải
pháp sau:
Một là, cần tiến hành rà soát, sửa đổi các quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành
điều chỉnh dịch vụ logistics, mà trước tiên là các quy định về dịch vụ logistics trong LTM
2005 và văn bản hướng dẫn Nghị định số 140 cụ thể:
- Về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics: Nghị định số 140 nên có quy định hướng dẫn cụ
thể về vấn đề có đầy đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật
và có đội ngũ nhân việc đáp ứng yêu cầu đối với từng loại dịch vụ logistics. Và nên đưa ra
một tiêu chí xác định như thế nào là đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật. Đồng thời
Nghị định 140 cũng nên quy định thêm về điều kiện kinh doanh đối với các hoạt động dịch
vụ logistics khác ngoài dịch vụ logistics liên quan đến vận tải như điều kiện kinh doanh đối
với dịch vụ bưu chính, dịch vụ thương mại bán buôn, bán lẻ…
- Liên quan đến quyền nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, LTM 2005
nên quy định cụ thể chi phí hợp lý khác ở đây là bao gồm những chi phí gì, để giúp cho các
bên hạn chế được tranh chấp xảy ra khi xác định chi phí phát sinh từ việc thực hiện dịch vụ
logistics. Cũng như quy định về các trường hợp được coi là “ lý do chính đáng vì lợi ích của
khách hàng”. Chẳng hạn lý do chính đáng có thể là do thời tiết, hay vì một lý do khách quan
nào khác để đảm bảo lợi ích cho khách hàng thương nhân kinh doanh dịch vụ này không làm
theo các chỉ dẫn của khách hàng.
- Về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tại Điều 238 LTM:
nên bổ sung quy định rõ giới hạn trách nhiệm ở đây là “ không vượt quá giới hạn tổn thất
thực tế với khách hàng”. Điều này được xuất phát từ cơ sở trách nhiệm bồi thường thiệt hại

được quy định trong LTM 2005 và Bộ luật dân sự 2005


Đối với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8 Nghị định số 140 về giới hạn trách nhiệm đối
với thương nhân kinh doạnh dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, thì không nên quy định
bằng một con số định lượng cụ thể là “ tối đa 500 triệu đồng” mà nên quy định một tỷ lệ nhất
định như 2/3 hoặc 3/4 so với hàng hóa vận chuyển tuỳ từng trường hợp khác nhau
- Về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics thì Nghị định 140 nên
quy định làm sao cho rõ ràng về thẩm quyền quản lý của các Bộ, Ngành có liên quan để
tránh tình trạng chồng lấn nhau trong việc tiến hành quản lý nhà nước về dịch vụ logistics.
Hai là, ban hành các văn bản mới phù hợp với thực tế và các cam kết của Việt Nam về mở
cửa thị trường dịch vụ logistics thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế, các hiệp định đa
phương, hiệp định song phương. Sau đó nội luật hoá các văn bản trên.
C.KẾT LUẬN.
Dịch vụ logistics là một hoạt động thương mại đa dạng nhiều các khâu giao nhận hàng
hóa: từ lưu kho, lưu bãi đến vận chuyển, làm các thủ tục hải quan…Do vậy, việc tạo ra sự
chặt chẽ, thống nhất trong các quy định của pháp luật về dịch vụ này là một việc có ý
nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp
phần thúc đẩy vào sự nghiệp phát triển đất nước.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình luật thương mại, Tập II, Nxb CAND;
2. Luật thương mại năm 2005 (LTM);
3. Nghị Định số 140/2007/ NĐ-CP ngày 05/9/2007 quy định chi tiết LTM về điều kiện
kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics.
4. Bộ luật dân sự năm 2005;
5. Bộ luật hàng hải năm 2005;
6. Nghị định số 115/2007/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển;

7. Nghị định số 128/NĐ-CP về dịch vụ chuyển phát.


MỤC LỤC



×