Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.22 KB, 17 trang )

Mục lục
Mục lục..............................................................................................................................................1
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................2
NỘI DUNG.........................................................................................................................................2
I.Một số khái niệm.........................................................................................................................3
a.Lừa dối....................................................................................................................................4
b.Nhầm lẫn................................................................................................................................5
c.Đe dọa, cưỡng ép..................................................................................................................10
III.Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện.................................................................11
1.Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối do vi phạm sự tự nguyện.............................................11
2.Giao dịch vô hiệu tuyệt đối do vi phạm sự tự nguyện..........................................................13
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................17

Page |1


MỞ ĐẦU
Giao dịch dân sự là là một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể
nhằm đạt được mục đích nhất định. Giao dịch là sự tôn trọng quyền tự do thỏa
thuận của các bên, bên cạnh đó pháp luật cũng đặt ra một số những yêu cầu
tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân thủ theo – đó là các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch. Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ của chủ thể tham gia giao dịch. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện là một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Trên thực tế
có rất nhiều giao dịch dân sự không có sự tự nguyện do không có tự do ý chí
và bày tỏ ý chí. Khi giao dịch thiếu tự do ý chí và bày tỏ ý chí (sự tự nguyện)
của chủ thể thì sẽ không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Vì vậy để hiểu rõ về
vấn đề này em xin chọn đề tài: “Một số vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm
sự tự nguyện của chủ thể”.



NỘI DUNG
Page |2


Sự tự nguyện là một nguyên tắc quan trọng trong quá trình thiết lập
giao dịch. Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý
chí, cho nên tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ
ý chí. Nếu không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí thì không có sự tự nguyện
hoặc nếu có nhưng không có sự thống nhất giữa hai bên thì cũng không có sự
tự nguyện là vi phạm pháp luật. Một giao dịch dân sự thiếu sự tự nguyện sẽ
không làm phát sinh hậu quả pháp lý.

I.Một số khái niệm.
*Giao dịch dân sự: là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
*Sự tự nguyện: là quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập
quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào
được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào.
Cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với
các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng.
*Ý chí: là khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt
động của mình để đạt được mục đích đó. Ý chí là ý muốn tiềm ẩn ý chí chủ
quan của các chủ thể, là mầm mống thúc đẩy các chủ thể hướng tới một giao
dịch nào đó để thỏa mãn ý muốn, nhưng phải tuân theo ý chí nhà nước đó là
không trái vơi pháp luật. Ý chỉ của chủ thể và ý chí nhà nước là một thể thống
nhất được thể hiện dưới hình thức nhất định trong đó ý chí của chủ thể phải
phù hợp với ý chí của nhà nước.


Page |3


*Vi phạm ý chí: là hành vi cố ý hoặc vô ý không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng cam kết, thỏa thuận, điều kiện mà một bên đưa ra và được
bên kia chấp nhận. Ngoài ra, các chủ thể vi phạm điều cấm của pháp luật
được coi là vi phạm ý chí của nhà nước.
II.Các trường hợp vi phạm sự tự nguyện:
a.Lừa dối.
Lừa đối là một vấn đề mà ta rất hay bắt gặp trong đời sống hàng ngày.
Thực tế có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về lừa dối. Theo cách hiểu
thông thường thì lừa dối là bằng thủ đoạn nói dối gian lận để làm cho người
khác lẩm tưởng mà tin rằng đó là sự thật. Lừa dối là hành vi cố ý đưa thông
tin sai nhằm để người khác tin đó là sự thật.
Dưới các khía cạnh khác nhau, lừa dối lại được quan niệm khác nhau.
Trong ngôn ngữ pháp lý, các nhà khoa học cho rằng lừa dối là một xảo thuật
dung để gạt người khác. Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của
một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó ( điều 132
BLDS). Sự lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên chủ
thể, nó chỉ thể hiện đúng ý chí của một bên trong giao kết, còn ý chí của phía
đối tác đã bị bóp méo đi do bị lừa dối. Sự lừa dối trong giao kết hợp đồng có
tính chất quyết định đến sự tồn tại của hợp đồng. Tính chất quyết định của sự
lừa dối thể hiện ở chỗ: Nếu một bên vì mục đích tư lợi riêng của mình mà
không dùng các mánh khóe, thủ đoạn để lừa dối bên đối tác thì sẽ không có
giao kết hợp đồng. “Sự lừa dối là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi các
thủ đoạn của một bên đã thực hiện mà nếu không có các thủ đoạn đó thì phía
bên kia đã không ký kết hợp đồng”. Đây là một loại giao dịch không có tự do
ý chí và bày tỏ ý chí của cả hai bên, mà ý chí của một bên đã bị bóp méo khi


Page |4


bị lừa gạt. Khi mỗi bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối thì có quyền
yêu cầu tòa tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.
Sự lừa dối trong giao kết hợp đồng có tính chất quyết dịnh đến hiệu lực
của hợp đồng. Bởi lẽ lừa dối trong giao dịch mà bị phát hiện và yêu cầu xử lí
giao dịch đó thì giao dịch đó không có hiệu lực, hay nói khác đi hợp đồng các
bên ký kết bị vô hiệu. Sự lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi hành vi cố
ý của một bên chủ thể, nó chỉ thể hiện đúng ý chí của một bên trong giao kết,
còn ý chí của phía đối tác đã bị nhầm lẫn do tưởng tượng sai nội dung, thỏa
thuận hoặc sai về đối tượng do bị lừa dối, có nghĩa là lí trí của họ không đồng
nhất. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi giao dịch đều bị coi là lừa dối.
Như vậy có thể xác định là lừa dối trong giao dịch dân sự phải có hai
điều kiện:
+Một bên phải sử dụng thủ đoạn để lừa người khác,
+Người bị lừa phải nghe theo, làm theo một việc nào đó.
Lừa dối chỉ được coi là yếu tố dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng khi một bên
cố ý làm cho bên kia phải giao kết hợp đồng không theo ý muốn thực và tham
gia vào hợp đồng sẽ bị thiệt hại nhưng đem lại lợi ích cho bên đã lừa dối.
b.Nhầm lẫn.
Nhầm lẫn theo cách hiểu thông thường là hành vi được thực hiện hoặc
nhận thức không đúng với ý chí của người thực hiện hành vi hay nhận thức ví
dụ như: đi nhầm đường, hiểu nhầm ý người khác. Trong khoa học pháp lý
nhầm lẫn là sự thể hiện không chính xác ý muốn đích thực của một bên hoặc
các bên khi tham gia giao kết. Nói một cách khác đó là sự không trùng hợp
giữa mong muốn bên trong vơi việc thể hiện ý chí ra bên ngoài. Có quan điểm

Page |5



khác cho rằng nhầm lẫn là sự không phù hợp giữa niềm tin và thực tế. Song
dù nói thế nào thì nó cũng chính là sự không phù hợp giữa việc thể hiện ý chí
của chủ thể với sự việc xảy ra trong thực tế.
Điều 131 BLDS quy định: “khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên kia
bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu
bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toàn án tuyên
bố giao dịch đó vô hiệu…” Qua điều luật này cho thấy bộ luật dân sự đã
khẳng định nhầm lẫn có thể dẫn tới hợp đồng vô hiệu.
Nhầm lẫn là hậu quả nhận thức sai của chính bản thân chủ thể do thiếu
kiến thức chuyên môn hoặc những điều kiện nhất định để hiểu rõ được ý
tưởng của phía đối tác. Ví dụ: anh A làm nghề kinh doanh điện tử điện lạnh,
do có học qua kĩ thuật sửa chữa nên anh có tân trang lại một chiếc ti vi hiệu
Samsung. Anh B là bạn anh A trong một lần đến chơi cảm thấy thích chiếc ti
vi nên đã hỏi mua về để sử dụng mà không biết đó là tivi cũ đã được bọc lớp
áo mới. Trong trường hợp này sự nhầm lẫn hoàn toàn thuộc về phải anh B.
Anh B rất thích chiếc tivi của anh A nhưng không biết đó là tivi cũ nên mua.
Còn anh A thấy khách hàng mua là bán, vì anh B không hỏi han gì về chất
lượng nên anh A không nói đây là tivi cũ. Theo điều 131 BLDS đã viện dẫn
thì điều luật này chỉ đề cập sự nhầm lẫn của một bên tham gia hợp đồng với
tư cách là điều kiện làm cho hợp đồng vô hiệu mà không hề đưa ra trường
hợp cả hai bên tham gia giao kết mà cùng nhầm lẫn thì sao? Liệu một hợp
đồng được ký kết mà cả hai bên tham gia vào giao kết hợp đồng cùng bị nhầm
lẫn thì có được coi là điều kiện có tính bản chất của hợp đồng dân sự là sự thể
hiện ý chí đích thực của các bên. Nếu các bên không có sự thống nhất ý chí
thì không có hợp đồng. Trường hợp cả hai bên cùng có sự nhầm lẫn khi giao
kết hợp đồng tức là ý chí của họ không phù hợp với nhau hoặc không đúng


Page |6


với mong muốn giao kết. Vì vậy cũng cần phải xem xét một hợp đồng được
ký kết mà có sự nhầm lẫn đến từ hai phía (các bên tham gia giao kết) là yếu tố
dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng
Xác định yếu tố nhầm lẫn để hủy bỏ một hợp đồng là một vấn đề
không đơn giản. Sự nhầm lẫn do kiến thức hiểu biết có hạn dẫn đến không
hiểu rõ nội dung bên trong hợp đồng quy định đã đặt bút ký vào hợp đồng do
loại hợp đồng đó đã sử dụng những ngôn từ kỹ thuật mà do trình độ hiểu biết
có hạn họ hiểu không rõ ràng về nó dẫn đến nhầm lẫn khi ký kết. hay nói khác
đi đây chính là sự vô ý do thiếu hiểu biết dẫn đến ký kết hợp đồng một cách
nhầm lẫn.
Song, có phải tất cả mọi sự nhầm lẫn trong giao kết đều bị coi là vô
hiệu để hủy bỏ một hợp đồng đã ký kết hay không, người ta cần xem xét đến
hậu quả của sự nhầm lẫn có làm cho chủ thể tham gia giao dịch bị thiệt hại
hay không? Và sự nhầm lẫn đó có tính chất quyết định đến sự tồn tại của hợp
đồng hay không? Do vậy, việc coi sự nhầm lẫn nào là yếu tố có thể dẫn đến
sự vô hiệu của hợp đồng còn tùy thuộc vào cách tiếp cận vấn đề này trong hệ
thống pháp luật của mỗi quốc gia. Để sự nhầm lẫn được coi là chính đáng
người ta phải dựa vào những tiêu chuẩn khách quan và chủ quan.
Thứ nhất: Cần phải xem xét: “ liệu một người bình thường cùng hoàn
cảnh và cùng đốimặt với sự nhầm lẫn tương tự như bên bị nhầm lẫn” nếu biết
được sự thật của sự việc vào thời điểm giao kết hợp đồng thì họ có giao kết
hợp đồng với những điều khoản như vậy hay không hay sẽ chỉ giao kết hợp
đồng với các điều khoản khác.
Thức hai: phải xem xét các điều kiện liên quan đến các bên của hợp
đồng. Bên nhầm lẫn có thể hủy bỏ hợp đồng chỉ khi rơi vào một trong các
trường hợp sau:


Page |7


- Cả hai bên cùng nhầm lẫn và sự nhầm lẫn này chỉ liên quan đến sự việc
vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Ví dụ: anh A có đến công ty của anh B để mua xe nhưng tưởng mình đã
thỏa thuận với anh B là mua 10 chiếc xe máy nên đã không nói lại. Phía anh
B do khách hàng đặt hàng quá nhiều nên anh cũng nhầm tưởng là anh A đặt
20 chiếc xe máy. Vì thế phía anh B đã đưa ra bản hợp đồng với giá bán 20
chiếc xe máy. Trong vụ việc này anh A có quyền yếu cầu hủy bỏ hợp đồng vì
có sự nhầm lẫ từ hai phía anh B và anh A.
- Sự nhầm lẫn của bên nhầm lẫn phải do bên kia gây ra do vô tình, bất
cẩn mà trình bày sai hoặc im lặng.
Ví dụ: anh A đến cửa hàng thuê xe du lịch anh bất cẩn không hỏi cửa
hàng cho thuê xe có những loại xe nào cho thuê mà cứ tưởng mình đã thỏa
thuận thuê xe 30 chỗ anh cần. Còn phía cửa hàng do vô tình không để ý đến
việc người thuê muốn thuê xe bao nhiều chỗ 30 hay 50 mà cứ thế đưa hợp
đồng ra, không ý thức được rằng người thuê xe muốn thuê xe 30 chỗ. Cả hai
bên đều vô tình, bất cẩn dẫn đến sự nhầm lẫn này. Sự nhầm lẫn chỉ được phát
hiện khi cửa hàng cho thuê xe đưa xe đến chở khách.
- Bên kia phải biết hoặc lẽ ra phải biết về nhầm lẫn của bên nhầm lẫn
nhưng để mặc cho bên kia bị nhầm lẫn.
Ví dụ: anh C có đi nước ngoài, gặp được người quen và giới thiệu cho anh
về một bài thuốc quý, do sự thiếu hiểu biết và bất cẩn nên anh chỉ được biết
công dụng của nó là dùng để chữa bệnh đau lưng. Sau khi về nước vì ham
món lợi nhuận đặt ra trước mắt nên anh đã tiến hành bày bán mặc dù không
có hướng dẫn sử dụng chỉ biết nếu sử dụng sai quy cách thì người sử dụng sẽ
bị nguy hiểm. Anh D một bệnh nhân với căn bệnh lâu ngày lại thấy thuốc mới

Page |8



nên mua dùng thử nhưng do không có hướng dẫn sử dụng nên hậu quả là
bệnh anh nặng càng thêm nặng.
Nhầm lẫn chỉ có ý nghĩa với tư cách là yếu tố xác định hợp đồng vô hiệu
nếu nó xảy ra trong giai đoạn hợp đồng được hình thành. Trường hợp có sự
nhầm lẫn dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng thì một trong các bên có thể yêu
cầu tuyên bố vô hiệu ngay từ khi ký kết. Nếu phát hiện ra hợp đồng bị nhầm
lẫn nhưng các bên vẫn mặc nhiên thực hiện không yêu cầu sửa đổi thì hợp
đồng đó vẫn có hiệu lực.
Trong thực tế, vấn đề xác định một người có bị nhầm lẫn hay không phải
dựa vào việc xác định thông tin mà họ nhận được do bên đề nghị đặt ra có sai
không hay sự nhầm lẫn do điều kiện hoàn cảnh mang đến cho chính họ: do sự
thiếu hiểu biết về đối tượng đưa ra giao dịch, hiểu sai về những yếu tố kỹ
thuật, hoặc do yếu tố tâm lý của người tham gia giao dịch mà mà dẫn đến họ
diễn đạt sai ý muốn của mình. Thực tế có những trường hợp cả hai bên cùng
nhầm lẫn ngày từ khi giao kết hợp đồng.
Đối với trường hợp giao kết hợp đồng bị nhầm lẫn thì xử lý theo điều 131
BLDS quy định: “khi một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch
mà xác lập giao dịch thì có quyền yếu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao
dịch đó; nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn,
thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu…”.
Khi giao dịch vô hiệu do bị nhầm lẫn thì bên có lỗi trong việc xảy ra nhầm
lẫn cần phải bồi thường thiệt hại.
Nhầm lẫn là một trong những căn cứ để hủy giao dịch, tuy nhiên những
trường hợp pháp luật quy định buộc chủ thể phải biết điều kiện tham gia hợp
đồng, điều kiện được bồi thường theo hợp đồng… nhưng chủ thể không đưa
vào hợp đồng những điều kiện hoặc không thông báo cho đối tác biết các điều

Page |9



kiện đó mà tưởng rằng đối tác đã biết, sau đó xảy ra tranh chấp về điều kiện
thực hiện hợp đồng thì được coi là nhầm lẫn.
c.Đe dọa, cưỡng ép.
Bộ luật dân sự Việt Nam có quy định: khi một bên tham gia giao dịch dân
sự do bị lừa dối hoặc đe dọa thì có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự đó là vô hiệu.
Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ
ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm,tài sản của mình hoặc của cha,
mẹ, vợ, chồng con của mình( điều 132 BLDS).
Như vậy có thể thấy hành vi đe dọa trong giao dịch dân sự là việc một bên
có hành vi cố ý làm cho đối tác (người mà họ định tham gia giao kết hợp đồng
khiếp sợ đến mức họ phải thiết lập một giao dịch không theo ý muốn chủ
quan của họ).
Khi xem xét một giao dịch vô hiệu khi bị đe dọa cần phải xem xét hành vi
mà người đe dọa gây ra cho họ có phải là hành vi cố ý hay không và có làm
cho người bị đe dọa sợ đến mức phải ký kết hợp đồng để tránh những thiệt hại
về vật chất, hay tinh thần cho chính họ hoặc những người than thích của họ
như điều luật nêu hay không? Việc xác định người bị đe dọa có thực sự sợ hãi
hay không không chỉ dựa vào đối tượng của sự đe dọa mà cần phải dựa vào
những yếu tố khác như: nội dung, tính chất và hình thức của sự đe dọa; thời
gian, địa điểm, hoàn cảnh cụ thể nơi diễn ra sự đe dọa; thái độ và những biểu
hiện của người bị đe dọa sau khi bị đe dọa. Trên cơ sở đó mới xác định giao
dịch mà họ tham gia ký kết bị vô hiệu nếu người bị đe dọa yêu cầu tòa án xem
xét. Song đây vẫn là một vấn đề khó giải quyết vì pháp luật chưa có tiêu chí

P a g e | 10



cụ thể quy định về mức độ sợ như thế nào mà họ phải ký kết một hợp đồng
không theo mong muốn.

III.Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện.
Như chúng ta đã biết, bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa
ý chí và bày tỏ ý chí vì thế tự nguyện bao gồm tự do ý chí và bày tỏ ý chí.
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý có ý thức của chủ thể nhằm xác lập, thay
đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự khi họ thiết lập giao dịch dân sự.
Thực tế có nhiều giao dịch không thực hiện được do ý chí của người tham gia
giao dịch bị vi phạm do lỗi vô ý hoặc cố ý của phía bên kia, vi phạm ý chí của
nhà nước khi tham gia giao dịch dân sự họ đã không tuân thủ các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 122 BLDS. Vì vậy nếu một
giao dịch không hội tụ đủ các điều kiện đó thì sẽ bị vô hiệu. Tuy nhiên, không
phải tất cả mọi giao dịch có sự vi phạm là vô hiệu. Hiệu lực của giao dịch phụ
thuộc vào mức độ vi phạm và ý chí của người bị vi phạm, căn cứ vào đó khoa
học pháp lý phân loại giao dịch vô hiệu tương đối và tuyệt đối.
1.Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối do vi phạm sự tự nguyện.

Giao dịch vô hiệu tương đối là giao dịch đã có sự vi phạm ý chí của một
hay cả hai bên tham gia giao dịch dân sự trong các trường hợp : khi giao dịch
được xác lập do bị nhầm lẫn ( Điều 131 BLDS), khi một bên chủ thể tham gia
xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe dọa ( Điều 132 BLDS), khi người xác lập
giao dịch dân sự không nhận thức được hành vi của mình ( Điều 133 BLDS).
Nhưng các giao dịch do những chủ thể trong các điều luật nêu trên thực hiện
chỉ bị coi là vô hiệu khi hội đủ những điều kiện nhất định, đó là:

P a g e | 11



+ Khi có đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan ( bản thân
họ hoặc người đại diện cho họ…)
+ Có quyết định của Tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.
Theo đó nếu không có đơn của người bị thiệt hại hoặc người có thẩm
quyền và lợi ích liên quan yêu cầu Tòa án tuyên bố thì hai bên vẫn tiến hành
thực hiện theo thỏa thuận của họ.
Quyết định của Tòa án trong giao dịch vô hiệu tương đối mang tính chất
phán xử, nó làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Khi Tòa án tiến hành giải
quyết vụ việc yêu cầu tuyên bố một giao dịch bị vô hiệu khi có đơn yêu cầu
của các bên hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Và người đưa ra yêu cầu
tuyên bố một giao dịch vô hiệu phải đưa ra các chứng cứ xác minh cho yêu
cầu của mình là có cơ sở, để Tòa án có cơ sở tuyên giao dịch đó là vô hiệu
hay không.
Các giao dịch vô hiệu tương đối quy định tại các điều luật nêu tren có thời
hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa Án tuyên bố giao dịch vô hiệu là hai năm kể từ
ngày giao dịch được xác lập ( Điều 136 Khoản 1 BLDS).
Mục đích pháp luật của việc tuyên giao dịch vô hiệu tương đối nhằm bảo
vệ lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch. Đâ là một trong các biện pháp
bảo vệ quyền dân sự quan trọng của công dân. Bên cạnh đó còn có ý nghĩa để
áp dụng chế tài cần thiết vào từng giao dịch cụ thể khi giao dịch đó vi phạm
vào điều kiện có hiệu lực của giáo dịch được quy định tại Điều 122 BLDS.
Theo quy định tại Điều 137 Khoản 2 BLDS thì: “Khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, trừ

P a g e | 12


trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy
định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.

Trong giao dịch dân sự vô hiệu tương đối Tòa án chỉ áp dụng một trong
hai phương thức hoàn trả song phương hoặc hoàn trả đơn phương. Phương
thức hoàn trả song phương thường được áp dụng đối với các trường hợp giao
dịch vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thực hiện do bị nhầm lẫn, do người
xác lập không nhận thức được hành vi của mình. Còn phương thức hoàn trả
đơn phương được áp dụng đối với giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe
dọa.
2.Giao dịch vô hiệu tuyệt đối do vi phạm sự tự nguyện.
Giao dịch là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các chủ thể. Tuy nhiên
để giao dịch dân sự có hiệu lực thì ý chí của các chủ thể phải phù hợp với ý
chí của nhà nước là bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ của các bên được
thực hiện và không xâm phạm lợi ích của nhà nước, của xã hội.
Ý chí của các chủ thể là mong muốn bên trong của mỗi bên và được thể
hiện ra bên ngoài, đây là vấn đề tư do thể hiện ý chí. Ý chí của các bên phải
phù hợp với nhau và có sự đồng thuận trên cơ sở tự nguyện của các bên. Tuy
nhiên để giao dịch có hiệu lực thì ý chí của các bên cần phải phù hợp với ý
chí của Nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Nếu sự tự
nguyện của các bên không phù hợp pháp luật thì phải coi đó là sự vi phạm ý
chí của Nhà nước và những giao dịch này sẽ vô hiệu tuyệt đối, gồm giao dịch
giả tạo ( điều 129 BLDS), giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật (điều
1128 BLDS). Các giao dịch được thiết lập trong những trường hợp này mặc
nhiên bị coi là vô hiệu, và thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu là không
hạn chế như các trường hợp vô hiệu tương đối đã nêu trên ( Điều 136 khoản 2

P a g e | 13


BLDS), trừ giao dịch thực hiện không tuân thủ hình thức bắt buộc theo quy
định vẫn có thời hạn khởi kiện là hai năm như giao dịch vô hiệu tương đối bởi

trong trường hợp này quyền quyết định thuộc vào ý chí của chính những
người tham gia giao dịch chứ không phụ thuộc vào ý chí Nhà nước.
Điều 128 BLDS quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội: “ Giao dịch dân sự có mục đích và
nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu…”.
Trường hợp này các bên tham gia giao dịch biết nội dung của giao dịch
vi phạm pháp luật nhưng vẫn quyết tâm thực hiện đến cùng, điều này thể hiện
ý chí của các bên thống nhất trong sự vi phạm hay cố ý vi phạm pháp luật gây
thiệt hại cho Nhà nước và xã hội. Ví dụ: như mua bán thuốc phiện, động vật
quý hiếm thuộc danh mục cấm,…. Như vậy ý chí của các bên chủ thể đã vi
phạm ý chí của Nhà nước, vì vậy giao dịch bị vô hiệu.
Điều 129 BLDS quy định Giao dịch dân sự bị vô hiệu do giả tạo : “Khi
các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu một giao
dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của bộ luật này (
cố ý)”.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.
Theo quy định trên thì có hai loại giao dịch giả tạo là xác lập giao dịch
nhằm che giấu một giao dịch khác và xác lập giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa
vụ với người thứ ba.
Trường hợp thứ nhất : khi xác lập giao dịch giả tạo các bên thống nhất
ý chí, nhưng đói với giao dịch giả tạo này không làm phát sinh quyền và

P a g e | 14


nghĩa vụ của các bên. Chính xác hơn là các bên không có mục đích xác lập
giao dịch. Tuy nhiên để che đậy một giao dịch khác ( có thể vi phạm pháp luật
hoặc vì mục đích riêng ) cho nên các bên đã giao kết một giao dịch giả tạo.

Trường hợp này rõ ràng ý chí của các bên là không có thật, có trường hợp tuy
không có sự vi phạm pháp luật nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí bên
trong và sự bày tỏ ra bên ngoài, mặt khác mục đích của một hoặc các bên
không nhằm xác lập giao dịch, cho nên giao dịch thứ hai này luôn là vô hiệu.
Ví dụ: giao kết hợp đồng tặng cho tài sản nhằm che dấu hợp đồng gửi giữ.
Đối với loại giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người
thứ ba thì giao dịch này xét về nội dung không có sự vi phạm pháp luật. Tuy
nhiên, giữa ý chí và bày tỏ ý chí không có sự thống nhất. Mặt khác, mục đích
xác lập giao dịch là có sự vi phạm pháp luật không thực hiện nghĩa vụ đã tồn
tại trước đó mặc dù có điều kiện thực hiện. Vì vậy, trường hợp này được coi
là vi phạm ý chí của Nhà nước. Ví dụ: các bên thỏa thuận giao kết hợp đồng
tặng cho, nhưng không làm phát sinh quyền của người được tặng cho ( hợp
đồng tưởng tượng) nhằm trốn tránh việc trả nợ người cho vay trước đó khi đó
hợp đồng tặng cho giả tạo sẽ bị vô hiệu.
Các giao dịch vô hiệu tuyệt đối không hề có hiệu lực pháp lý làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận kể cả trường hợp các bên tham gia giao
dịch đã thực hiện các hành vi theo cam kết của hai bên vì giao dịch của họ đã
thể hiện ý chí vi phạm pháp luật của cả hai bên tham gia giao dịch nên không
được Nhà nước bảo hộ.
Quyết định của tòa án trong trường hợp này chỉ mang tính hình thức công
nhận sự vô hiệu của giao dịch trên cơ sở luật định, xác định rõ hậu quả của vi
phạm, để xác định các bên vi phạm khắc phục hậu quả bằng cách hoàn trả

P a g e | 15


song phương, đơn phương hay bị Nhà nước tịch thu các khoản thu lợi sung
công quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

KẾT LUẬN

Như vậy, qua những phân tích trên đây chúng ta có thể thấy giao dịch dân
sự là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định. Và
pháp luật cũng đặt ra một số quy định buộc các chủ thể phải tuân theo – đó là
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Sự tự nguyện của chủ thể trong giao
dịch là một trong những điều kiện đó và khi giao dịch dân sự vi phạm sự tự
nguyện của chủ thể thì giao dịch đó sẽ không làm phát sinh hậu quả pháp lý.
Khi đó giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu.

P a g e | 16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại Học Luật Hà Nội. Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1
NXB – CAND. Hà Nội 2006.
2. Bộ luật dân sự 2005.
3. Phạm công Lạc, “ ý chí giao dịch dân sự”, tạp chí luật học, số 5/1998,
tr. 6-9.
4. Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự: luận văn thạc sĩ luật học/
nguyễn thị nhàn.

P a g e | 17



×