Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phương hướng hoàn thiện những quy định về quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.41 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề:
II. Giải quyết vấn đề:
1. Cơ sở lý luận
- Khái niệm quyền nhân thân
- Đặc điểm quyền nhân thân
2. Các giai đoạn phát triển của Luật dân sự cùng với sự điều chỉnh về quyền
nhân thân.


Bộ luật dân sự 1995 và những quy định về quyền nhân thân

• Bộ luật dân sự năm 2005 và những điểm hoàn thiện hơn trong quy định về
quyền nhân thân
3. Các phương thức và biện pháp bảo vệ quyền nhân thân
4. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quy định quyền nhân thân trong Bộ
luật dân sự năm 2005
• Những bất cập trong việc quy định quyền nhân thân theo quy định tại Điều
24 BLDS năm 2005
• Qui định về quyền hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác sau khi chết tại Điều
34 Bộ luật dân sự năm 2005 còn nhiều điểm chưa chặt chẽ.
• Quy định về bí mật đời tư Điều 38 BLDS còn mập mờ, chưa rõ rang
• Điều 36 Bộ luật dân sự về quyền xác định lại giới tính có gì sơ hở


5. Phương hướng hoàn thiện những quy định về quyền nhân thân trong Bộ
luật dân sự
III. KẾT LUẬN

I. Đặt vấn đề
Với tư cách là thành viên của xã hội, từ lúc sinh ra con người đã được hưởng


những quyền nhất định thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống bao
gồm quyền tự do dân chủ về chính trị, quyền về dân sự, quyền về kinh tế – xã
hội v.v… Trải qua quá trình đấu tranh phát triển của xã hội, các quyền của cá
nhân ngày càng được phát triển, mở rộng. Trong các quyền dân sự của cá nhân
thì quyền nhân thân là một phần rất quan trọng. Quyền nhân thân là một trong
những nội dung cơ bản của quyền con người nên đã được pháp luật ghi nhận và
bảo vệ. Bộ luật dân sự nước ta đã có những quy định rất cụ thể về quyền nhân
thân của các chủ thể, nhưng trong thực tế cũng đã phát sinh không ít những bất
cập cần điều chỉnh về vấn đề này. Vậy Bộ luật dân sự quy định về quyền nhân
thân như thế nào? Lý luận và thực tiễn của quyền nhân thân ra sao? Đó là những
câu hỏi mà chúng ta cần đi tìm giải đáp.

II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận
• Khái niệm quyền nhân thân:


Quyền nhân thân là một bộ phận của quyền dân sự. Các cá nhân đều có quyền
nhân thân. Điều 24 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định
trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
* Theo nghĩa khách quan: Quyền nhân thân được hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy định rõ cho
các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là cơ
sở để cá nhân thực hiện quyền của mình.
* Theo nghĩa chủ quan: Quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền
với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể
chuyển giao quyền này cho người khác.
• Đặc điểm của quyền nhân thân:
Thứ nhất: Quyền nhân thân là một quyền dân sự và là quyền dân sự đặc biệt.

Con người là nhân vật trung tâm của xã hội và là đối tượng hướng tới của các
cuộc cách mạng tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Dưới góc độ pháp luật
dân sự thì cá nhân là chủ thể chủ yếu, thường xuyên quan trọng và phổ biến của
quan hệ dân sự. Các quyền mà pháp luật quy định cho cá nhân là vì con người và
hướng tới con người, trong đó có các quyền nhân thân. Sở dĩ nói quyền nhân
thân là quyền dân sự đặc biệt và các quyền này chỉ thuộc về cá nhân, trong khi
đó các quyền khác (quyền tài sản) có thể thuộc về chủ thể khác (pháp nhân, hộ
gia đình).
Thứ hai: Mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân.


Mọi người đều có quyền nhân thân kể từ khi họ được sinh ra, không phân biệt
giới tính, tôn giáo, giai cấp… Chúng ta thấy quyền nhân thân có một sự khác biệt
cơ bản với quyền tài sản vì quyền bình đẳng về mặt dân sự không quy định tất cả
mọi người đều có khả năng hưởng những quyền như nhau. Nguyên tắc bình đẳng
về mặt dân sự có nghĩa là mọi cá nhân đều có những quyền như nhau, đó không
phải là một khả năng trừu tượng mà là một thực tế. Lợi ích của quyền nhân thân
là được quy định như một thực tế chứ không phải là sự quy định mang tính hình
thức.
Thứ ba: Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản.
Quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài
sản hay không gắn với tài sản mà thôi. Vì không phải là tài sản nên quyền nhân
thân không bao giờ trị giá được thành tiền. Về mặt pháp lí, chúng ta cần phân
định rõ tính chất phi tài sản của quyền nhân thân. Ví dụ: Một người sáng tạo ra
một sáng chế hay giải pháp hữu ích. Sáng chế hay giải pháp hữu ích do con
người sáng tạo nên mang giá trị kinh tế, chứ bản thân “Quyền tự do sáng tạo”
(Điều 47 BLDS) không phải là tài sản, không mang giá trị kinh tế.
Thứ tư: Quyền nhân thân luôn gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao cho
chủ thể khác.
Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi

cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác, trừ trường hợp do pháp luật
qui định. Điều 24 BLDS qui định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ
luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Các quyền dân sự nói
chung, quyền nhân thân nói riêng là do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa


trên điều kiện kinh tế – xã hội nhất định. Do vậy, về mặt nguyên tắc, cá nhân
không thể chuyển dịch quyền nhân thân cho chủ thể khác, nói cách khác thì
quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các cá
nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật
thì quyền nhân thân có thể chuyển giao cho chủ thể khác. Ví dụ: Quyền công bố,
phổ biến tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết đi thì quyền này có thể chuyển
giao cho chủ thể khác (người thừa kế của tác giả).
Thứ năm: Quyền nhân thân là một quyền dân sự do luật định.
Quyền nhân thân là một quyền nằm trong nội dung năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân. Pháp luật dân sự quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân
là một sự tuyên bố chính thức về các quyền con người cụ thể được pháp luật thừa
nhận. Việc pháp luật quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân khác
nhau là dựa vào các điều kiện kinh tế xã hội. Do vậy, ở mỗi giai đoạn khác nhau
của lịch sử xã hội loài người, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, chế độ chính trị xã
hội… mà quyền nhân thân của cá nhân được quy định một cách khác nhau.
Quyền nhân thân là do Nhà nước “trang bị” cho cá nhân, Nhà nước không cho
phép bất cứ cá nhân nào làm thay đổi hay chấm dứt quyền đó.
2. Các giai đoạn phát triển của Luật dân sự cùng với sự điều chỉnh về
quyền nhân thân.


Bộ luật dân sự 1995 và những quy định về quyền nhân thân
Qua mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, pháp luật Việt Nam nói riêng, pháp


luật dân sự nói chung có những bước tiến bộ không ngừng trong việc quy định
và đảm bảo cho cá nhân được hưởng các quyền nhân thân do Nhà nước quy
định.


Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992, BLDS năm 1995 đã quy định về
các quyền nhân thân của cá nhân, bao gồm các quy định từ Điều 26, Điều 26 quy
định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn
liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác. Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình
xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người
khác.”
Ngoài quy định chung về quyền nhân thân (Điều 26) và bảo vệ quyền nhân
thân (Điều 27), BLDS năm 1995 đã quy định quyền nhân thân cụ thể, bao gồm:
Quyền đối với họ, tên; Quyền thay đổi họ, tên; Quyền xác định dân tộc - Quyền
của cá nhân đối với hình ảnh; Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức
khoẻ, thân thể; Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Quyền đối với bí
mật đời tư; Quyền kết hôn; Quyền bình đẳng của vợ chồng; Quyền được hưởng
sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; Quyền li hôn; Quyền nhận,
không nhận cha, mẹ, con; Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm
con nuôi; Quyền đối với quốc tịch; Quyền được bảo đảm an toàn về chỗ ở;
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Quyền tự do đi lại, cư trú; Quyền lao động;
Quyền tự do kinh doanh; Quyền tự do sáng tạo. Những quyền nhân thân trên
được quy định từ định từ Điều 28 đến đến Điều 47 của Bộ luật dân sự 1nawm
1995. Cùng với việc quy định về các quyền nhân thân, BLDS năm 1995 có quy
định về phương thức bảo hộ quyền cho chủ thể cũng như các biện pháp bảo vệ
quyền khi có hành vi vi phạm.
BLDS năm 1995 đã phát huy vai trò to lớn trong việc ghi nhận và bảo vệ các

quyền dân sự của chủ thể, trong đó có quyền nhân thân.


=> Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng các quy định của BLDS năm 1995,
bên cạnh những ưu điểm thì BLDS năm 1995 còn bộc lộ nhiều hạn chế.
• Bộ luật dân sự năm 2005 và những điểm hoàn thiện hơn trong quy định về
quyền nhân thân
Theo quy định của BLDS năm 2005, các quyền nhân thân bao gồm: Quyền
đối với tên, họ (Điều 26); quyền thay đổi tên họ (Điều 27); quyền xác định dân
tộc (Điều 28); quyền được khai sinh (Điều 29); quyền được khai tử (Điều 30);
quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31); quyền được bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 32); quyền hiến bộ phận cơ thể (Điều 33);
quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34); quyền nhận bộ phận cơ
thể người (Điều 35); quyền xác định lại giới tính (Điều 36; quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37; quyền bí mật đời tư (Điều 38); quyền kết
hôn (Điều 39); quyền bình đẳng của vợ chồng (Điều 40); quyền được hưởng sự
chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình (Điều 41); quyền ly hôn (Điều 42);
quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con (Điều 43); quyền được nuôi con nuôi và
quyền được nhận làm con nuôi (Điều 44); quyền đối với quốc tịch (Điều 45);
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 46); quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
(Điều 47); quyền tự do đi lại, tự do cư trú (Điều 48); quyền lao động (Điều 49);
quyền tự do kinh doanh (Điều 50); quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo (Điều 50).
Về quy định về quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự năm 2005 không khác
gì so với quy định quyền nhân thân ở Điều 26 BLDS, nhưng BLDS năm 2005
sửa đổi quy định về quyền được khai sinh và quyền được khai tử. Bởi lẽ xuất
phát từ quan điểm chỉ đạo sửa đổi BLDS năm 1995: Có những quan hệ dân sự
nhưng bản chất là quan hệ hành chính (đăng kí hộ tịch) thì không quy định trong
BLDS mà để pháp luật hành chính quy định. BLDS năm 2005 đã bỏ các quy



định liên quan đến đăng kí hộ tịch, các quy định này do pháp luật hành chính quy
định cụ thể (thủ tục đăng kí khai sinh, khai tử, kết hôn…). Tuy nhiên, pháp luật
dân sự nên quy định khái quát về các quyền liên quan đến đăng kí hộ tịch bởi
đây là các quyền dân sự – quyền nhân thân – của cá nhân.
Chính vì lí do đó, BLDS năm 2005 quy định quyền được khai sinh, quyền được
khai tử là quyền nhân thân của cá nhân (BLDS năm 1995 quy định về khai sinh
(Điều 55) và khai tử (Điều 60). Thủ tục thực hiện quyền này sẽ do pháp luật
hành chính quy định.
- Xuất phát từ nhu cầu thực tế, BLDS năm 2005 lần đầu tiên đưa vào một số
quyền nhân thân liên quan đến đạo đức sinh học, đó là các quyền: Quyền hiến bộ
phận cơ thể (Điều 33); quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34);
quyền nhận bộ phận cơ thể người (Điều 35); quyền xác định lại giới tính (Điều
36).
-

Ngoài việc bổ sung quy định mới về một số quyền nhân thân, hầu hết các

quyền nhân thân được quy định trong BLDS năm 1995 cũng được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp như quyền thay đổi họ tên (Điều 27), quyền xác định dân tộc
(Điều 28), quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31), quyền được bảo đảm
an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 32), quyền được bảo vệ danh dự,
nhân phẩm, uy tín (Điều 37), quyền bí mật đời tư (Điều 38)…
=> Với việc ghi nhận về các quyền nhân thân trong BLDS năm 2005 có thể thấy
rằng pháp luật dân sự Việt Nam có những bước tiến đáng kể trong việc ghi nhận
và bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân. Đây là sự khẳng định và ghi nhận đồng
thời là cơ sở pháp lí quan trọng cho cá nhân trong việc thực hiện các quyền của
mình.


3. Các phương thức và biện pháp bảo vệ quyền nhân thân

Việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là một khâu trong cơ chế bảo đảm việc
thực hiện quyền nhân thân của cá nhân. Tuy vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân
của cá nhân một cách tùy tiện cũng có thể xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác vì vậy pháp luật đã phải quy định các phương
thức, biện pháp bảo vệ quyền nhân thân trong trường hợp bị xâm phạm.
Căn cứ theo Điều 27 BLDS quy định: “Khi quyền nhân thân của một cá nhân bị
xâm phạm, thì người đó có quyền: Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu Toà án
buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; Tự
mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng;Yêu cầu người vi phạm
hoặc yêu cầu Toà án buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần.” Việc pháp luật quy định cá nhân có quyền nhân thân bị
xâm phạm có thể bảo vệ quyền nhân thân của mình theo các phương thức khác
nhau là cần thiết, tạo điều kiện cho việc bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả.
Thứ nhất: Cá nhân bị xâm phạm quyền nhân thân có các biện pháp tự bảo vệ
mình:
Thông thường trong trường hợp quyền nhân thân của mình bị xâm phạm thì
trước hết cá nhân tự tiến hành các hành vi bảo vệ cần thiết, tương xứng với hành
vi xâm phạm để chống lại hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của mình,
ngăn chặn không cho các hành vi đó tiếp tục xảy ra như trực tiếp cải chính, yêu
cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm. Việc pháp luật quy định cá nhân
có quyền nhân thân bị xâm phạm tự bảo vệ quyền nhân thân của mình bảo đảm
việc bảo vệ quyền nhân thân được tiến hành kịp thời, ngăn chặn được hậu quả
xấu có thể xảy ra và có thể không khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa các đương sự,
giữ gìn được mối quan hệ bình thường giữa các đương sự. Tuy vậy, việc tự bảo


vệ quyền nhân thân của cá nhân thường chỉ có hiệu quả khi người có hành vi trái
pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân nhận thức được trách
nhiệm của họ. Đối với những trường hợp người có hành vi trái pháp luật xâm
phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không nhận thức được trách nhiệm của

họ thì việc bảo vệ quyền nhân thân theo phương thức này nhiều khi không có
hiệu quả. Trong trường hợp này việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân cần
phải có sự hỗ trợ bảo vệ của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ hai: Các cấp có thẩm quyền bảo vệ quyền nhân thân của các nhân khi cá
nhân có yêu cầu:
Theo đó, cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể yêu cầu các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật bảo vệ như yêu cầu tổ hòa
giải ở cơ sở, Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án, Viện kiểm sát v.v.. bảo vệ. Các
cơ quan, tổ chức này căn cứ vào yêu cầu của đương sự, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình đã được pháp luật quy định tiến hành các biện pháp cần thiết theo quy định
của pháp luật để bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm như xử lý
người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân, buộc họ phải chấm
dứt hành vi xâm phạm hoặc bồi thường thiệt hại. Đặc biệt, việc bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân thông qua việc yêu cầu các cơ quan nhà nước như Tòa án,
Viện kiểm sát bảo vệ là rất cần thiết bởi các cơ quan này là các cơ quan nhà nước
được Nhà nước giao nhiệm vụ quyền hạn bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
các chủ thể, trong đó có quyền nhân thân của cá nhân. Hơn nữa, các quyết định
của Tòa án, Viện kiểm sát còn được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà
nước do đó các quyết định liên quan đến việc bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân của các cơ quan này sẽ được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Như vậy, theo
quy định của pháp luật thì có nhiều phương thức bảo vệ quyền nhân thân, tùy
quyền nhân thân nào của cá nhân bị xâm phạm, tùy mức độ xâm phạm và thái độ


của người có hành vi trái pháp luật mà cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm
có thể lựa chọn thực hiện phương thức pháp lý cần thiết, phù hợp để bảo vệ
quyền nhân thân của mình.
Thứ ba: Các biện khác để bảo vệ quyền nhân thân:
Quyền nhân thân của cá nhân theo quy định của pháp luật khá đa dạng nên hành
vi xâm phạm đến quyền nhân thân cũng khá đa dạng dưới những hình thức, mức

độ khác nhau. Để bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả ngoài việc sử
dụng nhiều phương thức bảo vệ khác nhau còn phải áp dụng các biện pháp bảo
vệ khác nhau như biện pháp xử lý hành chính, biện pháp xử lý hình sự, biện
pháp dân sự, biện pháp xử lý kỷ luật.
Như vậy, theo quy định của pháp luật dân sự thì cá nhân có quyền nhân thân
bị xâm phạm được thực hiện các biện pháp bảo vệ trên để bảo vệ quyền nhân
thân của mình. Việc áp dụng một hay nhiều biện pháp bảo vệ quyền nhân thân
hoặc áp dụng biện pháp bảo vệ quyền nhân thân nào là tùy vào trường hợp cụ thể
quyền nhân thân bị xâm phạm và do người có quyền nhân thân bị xâm phạm tự
lựa chọn quyết định. Tuy nhiên, việc lựa chọn được biện pháp bảo vệ phù hợp sẽ
giúp cho việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả.
4. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quy định quyền nhân thân trong Bộ
luật dân sự năm 2005
• Những bất cập trong việc quy định quyền nhân thân theo quy định tại Điều
24 BLDS năm 2005.
Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy
định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể


chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy
định này đã nêu lên khái niệm về quyền nhân thân thông qua hai đặc điểm cơ
bản là: gắn liền với cá nhân, không chuyển dịch. Nếu chỉ dừng lại ở những đặc
điểm đó thì khái niệm quyền nhân thân sẽ vướng phải một số bất cập nhất định:
bởi lẽ
Thứ nhất: Hai đặc điểm nêu trên thực sự chưa đủ để phân biệt quyền nhân thân
với các quyền dân sự khác, bởi lẽ có một số quyền tài sản cũng mang đủ hai đặc
điểm này. Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định rằng quyền được cấp dưỡng
và nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được gắn liền với những cá nhân nhất định như:
giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và
chồng. Quyền yêu cầu cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế

bằng các quyền, nghĩa vụ khác và cũng “không thể chuyển giao cho người khác”
(Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình 2000). Quyền này là quyền tài sản chứ
không phải là quyền nhân thân. Điều 309 BLDS 2005 cũng quy định một số
quyền tài sản không thể chuyển giao cho người khác như “quyền yêu cầu cấp
dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm uy tín”. Các quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại này được phát
sinh khi các quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm, chúng là quyền tài sản
nhưng cũng gắn liền với cá nhân người bị thiệt hại và cũng không dịch chuyển
được sang cho chủ thể khác.
Thứ hai: Điều 24 BLDS 2005 quy định rằng quyền nhân thân là quyền “gắn
liền với mỗi cá nhân”, vậy thì các chủ thể khác (như pháp nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác) có các quyền nhân thân của mình không? Điều 604 và Điều 611 BLDS
2005 có đề cấp đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác”, vậy đây có
được coi là quyền nhân thân của pháp nhân và các chủ thể khác không? Điều 1
Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004, cũng như Điều 1 Nghị


quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao, đều quy định giống nhau rằng “Thiệt hại do tổn thất về tinh
thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là
tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút
hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin … vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu”. Các quy định đó
đều hướng tới sự thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các chủ
thể khác.
Các phân tích trên cho ta thấy phải chăng khái niệm quyền nhân thân nên được
mở rộng không những gắn với cá nhân mà với cả các chủ thể khác. Ngoài đặc
điểm được nêu tại Điều 24 BLDS 2005, chúng ta cũng nên bổ sung thêm một số
đặc điểm nữa (như: gắn liền với giá trị tinh thần, không định giá được, …) để
phân biệt quyền nhân thân với các quyền dân sự khác. Từ đó chúng ta có thể xây

dựng khái niệm quyền nhân thân như sau: “Quyền nhân thân là quyền dân sự
gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và
không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”.
• Qui định về quyền hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác sau khi chết tại Điều
34 Bộ luật dân sự năm 2005 còn nhiều điểm chưa chặt chẽ.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, để duy trì sự sống, rất nhiều người bệnh
cần phải thay hay ghép một số bộ phận cơ thể (ví dụ như thay thận, ghép gan…)
nên Điều 33 và 34 của BLDS đã cho phép cá nhân có quyền được hiến bộ phận
cơ thể của mình khi còn sống, hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của mình sau khi
chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học.


Việc hiến tặng bộ phận cơ thể hay hiến xác cho khoa học hay chữa bệnh là
việc làm cao thượng của người quá cố, là một quyền dân sự thể hiện sự tự định
đoạt của cá nhân, cần phải được mọi người trong xã hội tôn trọng. Nhưng sự
toàn vẹn cơ thể người chết là một vấn đề nhạy cảm đối với bản thân người chết
cũng như đối với gia đình họ. Dân gian rất kiêng kỵ “cái chết không toàn thây”
nên dù cho việc hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác của người chết là một nghĩa
cử cao thượng đi nữa, thì cũng rất dễ bị những người thân thích nhất phản đối,
dẫn đến việc khó mà lấy được xác hoặc bộ phận trên cơ thể của người chết. Cả
về pháp lý và về đạo lý, người ta không thể kiện ra tòa để yêu cầu một phán
quyết ngay lập tức của tòa án về việc buộc những người thân của người chết phải
giao xác người. Cho dù đã cầm được một quyết định có hiệu lực của tòa án, cơ
quan thi hành án cũng khó có thể cưỡng chế thân nhân người chết phải giao xác
chết, trong khi gia đình của họ đang tổ chức việc tang. Nếu cứ cưỡng chế để
buộc những người này phải giao thi thể của người chết, thì không phù hợp với
tình cảm và đạo lý con người.
=> Do đó, việc hiến tặng xác và bộ phận cơ thể như đã nói trên vừa phải được
sự đồng ý của người quá cố trước khi chết, đồng thời phải không có sự phản đối

của những người thân thích của người chết.

• Quy định về bí mật đời tư Điều 38 BLDS còn mập mờ, chưa rõ ràng
Quyền bí mật đời tư là quyền cơ bản trong hệ thống các quyền nhân thân của cá
nhân. Quyền bí mật đời tư được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật nhiều nước
trên thế giới. Cụ thể hoá quy định này của hiến pháp Bộ luật dân sự 2005 dành
riêng điều 38 quy định về quyền bí mật đời tư của cá nhân như sau: “ Quyền bí


mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; Việc thu thập,
công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý;
trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười
lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện
của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo
quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; Thư tín, điện thoại, điện tín, các
hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác
của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định phải có
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Không chỉ luật dân sự, một số ngành luật khác như luật hình sự, luật hôn nhân
gia đình, luật báo chí…cũng có những quy định bảo vệ quyền bí mật đời tư của
cá nhân.
Cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về bí mật đời tư là gì,
phạm vi của bí mật đời tư là như thế nào, mà chỉ có một số quy định rất chung
chung trong Bộ luật Dân sự (Ðiều 38), Luật Giao dịch điện tử (khoản 2 Điều 46)
quy định quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo
vệ; việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư cá nhân phải được người đó
đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; thư từ, điện thoại, điện tín,
các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn, bí mật
và việc kiểm soát các loại này được thực hiện khi pháp luật có quy định và phải

có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trên thực tế, pháp luật không thể liệt kê hết cái nào là bí mật đời tư, cái nào
không vì có quá nhiều chi tiết mà Bộ luật dân sự lại không quy định cụ thể, rõ
ràng, trong khi đó các vụ án xảy ra lại quá phức tạp.


=> Như vậy, việc việc Bộ luật dân sự 2005 chưa có định nghĩa rõ ràng về bí mật
đời tư khiến cho việc xét xử các vụ việc liên quan của toà án cũng như việc
người dân thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền của cá nhân về bí mật đời
tư còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ việc nhiều khi đã được toà giải quyết
nhưng vẫn để lại dư luận vì chưa có những căn cứ pháp luật thật rõ ràng khi xét
xử.
• Điều 36 Bộ luật dân sự về quyền xác định lại giới tính có gì sơ hở
Điều 36 BLDS quy định: “Cá nhân có quyền được xác định lại giới tính. Việc
xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính
của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự
can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính. Việc xác định lại giới tính
được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
- Theo tinh thần của Điều 36 BLDS, cá nhân có quyền xác định lại giới tính,
nhưng xét về mặt pháp lý thực chất là thay đổi giới tính có điều kiện. Bởi lẽ, theo
qui định của điều luật, nhà làm luật thừa nhận “cá nhân có quyền xác định lại
giới tính… khi giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình
chính xác mà cần có sự can thiệp của y học… thì được xác định lại giới tính theo
qui định của pháp luật cũng có nghĩa là cho phép cá nhân được thay đổi giới tính
xét về mặt pháp lý, trừ trường hợp có kèm những thủ tục pháp lý cần thiết để
kiểm soát việc cho phép xác định lại giới tính. Theo tinh thần của điều luật như
vừa nêu, thì người ta sẽ dễ dàng lợi dụng qui định này để thay đổi giới tính vì 2
lý do sau:
Thứ nhất: Giới tính là một yếu tố thuộc về đời tư. Do đó, rất khó phát hiện và
khó chứng minh về việc họ có thực tế thay đổi giới tính hay không để làm



chứng, khi được yêu cầu làm chứng về việc chứng minh có sự thay đổi giới tính
mà không tuân thủ các qui định của pháp luật.
Thứ hai: Sau khi phẫu thuật thay đổi giới tính, thì những “bằng chứng” hay
“dấu vết” đó không còn nguyên tình trạng ban đầu, trong khi người ta cũng
không biết chính xác là liệu trước đó, đương sự có bị “dị tật bẩm sinh” hoặc bị
khiếm khuyết về giới tính “mà chưa thể xác định chính xác giới tính” thật sự hay
không. Nếu hồ sơ sức khỏe hoặc bệnh án bị làm sai lệch hay ghi không trung
thực, thì cơ quan có thẩm quyền cũng khó có thể kiểm tra, xác minh được.
Hai yếu điểm nói trên tạo sơ hở để cho nhiều người lợi dụng để dễ dàng thay đổi
giới tính cũng như tạo ra một cơ hội thuận lợi mở đường cho các chuyên gia giải
phẫu thẩm mỹ, các cơ sở chữa bệnh thiếu nghiêm túc và thiếu trách nhiệm mở ra
các dịch vụ về lĩnh vực này.
Điều 36 BLDS không qui định nếu người muốn xác định lại giới tính là người
chưa thành niên thì ai sẽ là người quyết định việc xác định lại giới tính cho họ và
nếu họ đạt đến độ tuổi nhất định thì họ có quyền thể hiện ý chí của mình hay
không?. Theo tinh thần Điều 36 BLDS thì nhà làm luật chỉ thừa nhận quyền
được xác định lại giới tính là quyền của cá nhân đương sự mà không tính đến
trường hợp thay đổi giới tính của người chưa thành niên. Như vậy, trong nhiều
trường hợp, cá nhân không có khả năng biểu hiện ý chí, thì quyền này không thể
được thực hiện.
4. Phương hướng hoàn thiện những quy định về quyền nhân thân trong Bộ
luật dân sự

• Cần có cách phân loại đặc điểm quyền nhân thân cụ thể và rõ ràng hơn


Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định về quyền nhân thân nhưng quy
định này đã nêu lên khái niệm về quyền nhân thân thông qua hai đặc điểm cơ

bản là: gắn liền với cá nhân, không chuyển dịch. Nếu chỉ dừng lại ở những đặc
điểm đó thì khái niệm quyền nhân thân sẽ vướng phải một số bất cập nhất định,
vì vậy cần có một số cách phân loại quyền nhân thân cụ thể hơn.
• Quyền hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác sau khi chết tại Điều 34 Bộ luật
dân sự năm 2005 cần bổ sung
Thứ nhất: Cần phải bổ sung về thủ tục và điều kiện thể hiện sự đồng ý của
người quá cố.
Con người được quyền chết trong sự toàn vẹn thân thể. Nhưng chết là không còn
đối chứng, nên không thể dựa vào “lời trăn trối” hay lời kể của một ai đó để
chứng minh sự đồng ý của người chết mà việc đồng ý đó phải thể hiện bằng một
bằng chứng rõ ràng, chẳng hạn bằng một bức thư, trong di chúc hay bằng một
văn bản riêng thể hiện ý nguyện hiến tặng xác hoặc bộ phận cơ thể cho một cơ
quan, tổ chức y tế có thẩm quyền và xác định. Do vậy, nên bổ sung đoạn 1 qui
định: “Việc hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác phải được người chết tự mình
thực hiện một cách tự nguyện, bằng văn bản. Nội dung văn bản phải ghi rõ ngày
tháng năm lậpvăn bản; họ, tên, tuổi, địa chỉ của người hiến tặng thi thể hay bộ
phận cơ thể sau khi chết; chỉ định người có quyền nhận thi thể hay bộ phận cơ
thể là cá nhân, tổ chức y tế hữu quan…”.
Thứ hai: Qui định việc người chết hiến xác, bộ phận cơ thể của họ phải được
những người thân “đồng ý” như đoạn hai của điều luật là cần thiết và hợp tình,
nhưng chưa hợp lý và không khả thi.


Việc lấy xác hoặc bộ phận cơ thể người chết ngoài việc phải được chính người
chết đồng ý trước khi chết, nhà làm luật còn phải tính đến thực tế xã hội, những
biểu hiện tâm lý, tình cảm và các phong tục tập quán của người Việt Nam. Vì
nếu việc lấy xác hoặc bộ phận cơ thể của người chết mà bị những người thân
thích của họ (được kể trong điều luật) phản đối, không cho mang xác chết đi, thì
người được chỉ định nhận xác hoặc bộ phận cơ thể người chết cũng không thể
thực hiện được ý nguyện của người đã chết. Với cách tiếp cận vấn đề như vậy,

chúng tôi cho rằng qui định về vấn đề này trong Dự thảo còn có hai điểm bất lợi,
đe dọa khả năng có thể lấy được xác hoặc bộ phận cơ thể của người chết:
+ Điều luật qui định “phải được sự đồng ý” của tất cả những người được liệt kê
là không khả thi trong nhiều trường hợp. Qui định như vậy sẽ đe dọa đến sự an
toàn pháp lý cho những người trực tiếp tiến hành các hoạt động lấy xác hoặc lấy
các bộ phận cơ thể người chết.
+ Cùng với đó: Cần dự trù các trường hợp những người thân thích được liệt kê
trong điều luật đều không có năng lực để thể hiện ý chí hoặc người chết là người
độc thân, không còn người thân thích. Do vậy, cần bổ sung vào cuối đoạn 2 qui
định sau: “…, trừ trường hợp người chết không có ai là người thân thích hoặc
không có ai trong số những người thân thích kể trên có đủ năng lực hành vi dân
sự để thể hiện ý chí phản đối, thì không cần hỏi ý kiến của những người này.
Trong trường hợp này, người có quyền nhận xác vẫn lập biên bản ghi rõ tình
trạng không có người thân hoặc lý do mà những thân thích không phản đối”. Qui
định này bảo đảm cho điều luật chặt chẽ và khả thi hơn nếu xảy ra tình trạng như
vừa nêu.
• Cần có 1 quy định rõ ràng cụ thể hơn nữa vấn đề bí mật đời tư theo Điều
38 BLDS


Pháp luật cần quy định cụ thể hơn nữa về khái niệm đời tư và các quy định chặt
chẽ, cụ thể về chế tài xử phạt đối với các hành vi xâm phạm đời tư của người
khác.
Như vậy, để có thể hiểu được “Quyền bí mật đời tư” thì phải xây dựng được khái
niệm “bí mật đời tư”. Việc xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định
được hai khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí
mật” và khái niệm “đời tư”.
Khái niệm “bí mật” được hiểu “giữ kín, không để lộ ra, không công khai”. Như
vậy, việc giữ kín, không công khai xét trong nội dung chúng tôi đang nghiên cứu
liên quan đến các thông tin và đó là những thông tin không bộc lộ công khai..

Tính “bí mật” này có thể được xác định theo các tiêu chí cụ thể như:
• Bản thân thông tin đó đã mang tính bí mật. Việc xác định thông tin mang tính
bí mật có thể dựa vào bản chất của thông tin, có thể xác định theo qui định của
pháp luật (thư tín, điện thoại, tình trạng bệnh tật… – những thông tin này đã có
văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành xác định rõ đó
là bí mật mà không được tiết lộ hoặc xâm phạm)
• Người nắm giữ thông tin có thể đã áp dụng mọi biện pháp để bảo mật như
khoá, cài đặt mã số bảo vệ, hoặc áp dụng mọi biến pháp bảo vệ khác.
• Giữa “chủ sở hữu thông tin bí mật” với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đã có
sự thoả thuận về nghĩa vụ giữ bí mật.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ không coi là “bí mật” nếu những thông tin đó xâm phạm
lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác (ví dụ: thông tin liên quan đến hành vi phạm tội, chuẩn bị phạm tội).


Trong trường hợp này việc tiết lộ thông tin sẽ không bị coi là “xâm phạm bí mật
đời tư”.
Có thể đưa ra khái niệm về bí mật đời tư như sau:
Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu (gọi chung là thông tin) về tinh thần, vật
chất, quan hệ xã hội hoặc những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá
khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được
bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận.
• Sửa đổi, bổ sung Điều 36 BLDS
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới
tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần
có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính, khi có sự kết luận của pháp
y có thẩm quyền. Chỉ có những cơ sở y tế được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp phép hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có liên quan mới
được phép thực hiện phẫu thuật xác định lại giới tính.
Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo qui định của pháp luật”.

Qui định này vừa bảo đảm quyền được xác định lại giới tính của người chưa
thành niên, tôn trọng ý chí cá nhân của họ nếu họ đã đạt được một độ tuổi nhất
định có thể nhận thức được phần nào hậu quả của việc xác định lại giới tính;
Đồng thời, qui định này cũng thể hiện quan điểm hạn chế tối đa các trường hợp
thay đổi giới tính không cần thiết, kiểm soát chặt chẽ việc thay đổi giới tính của
các cá nhân trong xã hội cũng những hoạt động bất hợp pháp của những cơ sở y
tế thiếu nghiêm túc.


Cùng với việc qui định hạn chế thay đổi giới tính và các thủ tục bắt buộc
phải tuân thủ khi muốn xác định lại giới tính, thiết nghĩ pháp luật cũng cần chuẩn
bị biện pháp đồng bộ và các chế tài thích ứng khi cá nhân và cơ sở y tế vi phạm
các thủ tục về thay đổi giới tính.

III.

KẾT LUẬN

Con người luôn là trung tâm, là tâm điểm hướng tới của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Việc ghi nhận các quyền của con người là một trong những yếu tố đánh giá
sự tiến bộ của từng giai đoạn lịch sử, của từng nhà nước khác nhau. Nhà nước
Việt Nam luôn coi trọng các quyền của con người – trong đó có quyền nhân
thân. Hiến pháp là văn bản pháp lí có hiệu lực cao nhất đã khẳng định điều này.
Sự phân biệt đẳng cấp, địa vị tự do không tồn tại trong xã hội hiện tại của Nhà
nước ta, theo đó các quyền của cá nhân (trong đó có quyền nhân thân) là bình
đẳng và được pháp luật bảo vệ. Quyền nhân thân là một trong những quyền dân
sự của cá nhân, các quyền này đã được cụ thể hoá trong các quy định của Bộ luật
dân sự (BLDS). Muốn nhà nước được vững mạnh hơn nữa, đòi hỏi hệ thống
pháp luật ngày càng hoàn thiện và tiệp cận đời sống hơn, không chỉ về vấn đề
quyền nhân thân mà còn các vấn đề thực tiễn hơn nữa.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam – Tập 1 (Nxb Giáo dục Việt Nam)
2. Bộ luật dân sự năm 2005 (Nxb Tư pháp)
3. Tạp chí luật học số tháng 7 năm 2009 (TS. Bùi Đăng Hiếu – Trường
Đại học Luật Hà Nội)
4.
5.
6.
7.
8.



×