BÀI LÀM
A. MỞ ĐẦU
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án
hình sự vì đây là lần đầu tiên vụ án được giải quyết về nội dung. Thông qua
các thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm như bắt đầu phiên tòa, xét hỏi và tranh luận
tại phiên tòa, nghị án và tuyên án mà Tòa án sẽ giải quyết được vụ án như ra
được bản án quyết định bị cáo có tội hay không có tội. Để tìm hiểu sâu hơn
quy định của pháp luật về thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm em xin chọn đề
bài “Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm và việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật về vấn đề này”.
B. NỘI DUNG
I. Quy định của pháp luật về thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm: đó là cách thức tiến hành xét xử lần đầu
tại phiên tòa theo một trật tự xác định nhằm giải quyết toàn diện nội dung vụ
án hình sự, được quy định trong BLTTHS. Bao gồm thủ tục bắt đầu phiên tòa,
xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
1. Thủ tục bắt đầu tại phiên tòa.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định từ Điều 201 đến Điều 205
BLTTHS năm 2003 nhằm kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố
tụng và tạo điều kiện cần thiết cho phiên tòa.
•
Đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử
Điều 201 BLTTHS quy định “khi bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa đọc
quyết định đưa vụ án ra xét xử”. Quy định này là hoàn toàn phù hợp vì thông
qua quyền nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo có điều kiện để
thực hiện một số quyền cơ bản như quyền bào chữa, quyền tham gia phiên tòa,
quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng… Thông qua nội dung của
quyết định đưa vụ án ra xét xử được đọc tại phiên tòa, các bị cáo và những
1
người tiến hành tố tụng có thể nắm được những thông tin cơ bản như thời
gian, địa điểm mở phiên tòa, thành phần người tham gia tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng, điều khoản của BLHS mà Viện Kiểm sát áp
dụng để truy tố bị cáo. Một trong những quyền cơ bản của bị cáo là được nhận
quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng như các quyết định tố tụng khác theo quy
định của BLTTHS. Thông qua đó, bị cáo mới có điều kiện để thực hiện một số
quyền cơ bản như quyền bào chữa, quyền tham gia phiên tòa...Việc bị cáo
chưa nhận được Cáo trạng của Viện Kiểm sát hoặc quyết định đưa vụ án ra xét
xử của Tòa án trước khi mở phiên tòa là vi phạm tố tụng.
• Kiểm tra căn cước và giải thích quyền, nghĩa vụ vủa những người được
triệu tập tham gia tố tụng tại phiên tòa.
Kiểm tra căn cước của những người tham gia tố tụng là việc của chủ tọa phiên
tòa kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đã có mặt. Đây là một
thủ tục bắt buộc, mục đích là nhằm xác định xem họ có đúng là người có lý
lịch được phản ánh trong hồ sơ vụ án không, để HĐXX có thể xác định được
mức độ hợp pháp hoặc không hợp pháp trong quá trình tiến hành tố tụng của
Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát trước khi mở phiên tòa.
Trường hợp các tài liệu trong hồ sơ vụ án và lời khai của người được triệu tập
về căn cước của họ có sự khác nhau, HĐXX cần xác định chính xác căn cước
của họ. Nếu tài liệu trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ để xác định chính xác
căn cước của bị cáo thì HĐXX ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.1
Sau khi kiểm tra căn cước, chủ tọa giải thích quyền và nghĩa vụ của họ tại
phiên tòa theo quy định tại Điều 203, Điều 204 BLTTHS
• Giải quyết các yêu cầu trong thủ tục bắt đầu phiên tòa
- Điều 205 BLTTHS thì người tham gia tố tụng có quyền “đưa ra tài liệu, đồ
vật, yêu cầu” vì nó có thể là những chứng cứ mà họ đã cung cấp qua lời khai
hoặc là chứng cứ tài liệu mới. Tại phiên tòa nếu có người tham gia tố tụng
1
Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sư, tr 136.
2
vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hỏi Kiểm sát viên, bị cáo… xem ai có yêu
cầu hoàn phiên tòa để triệu tập người vắng mặt hay không. Mặt khác, Điều
202 BLTTHS quy định rõ chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên và những người
tham gia tố tụng xem họ có yêu cầu đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên và thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch. Vì hoạt
động của những người này có ảnh hưởng rất lớn đối với kết quả của quá trình
tố tụng. Vì vậy nếu họ làm việc không vô tư, khách quan sẽ có nguy cơ làm
sai lệch kết quả xét xử nên việc đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiếm
sát viên, thư ký Tòa án là hợp lý. Và người giám định cũng như người phiên
dịch có mặt để giúp đỡ cho việc tố tụng được thuận lợi. Do đó những người
tham gia tố tụng có quyền đề nghị thay đổi người này giúp cho quá trình xét
xử được khách quan và toàn diện.
2. Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
Xét hỏi là thủ tục trong xét xử do HĐXX, Kiểm sát viên và những người
khác theo quy định của pháp luật thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực tiếp cho
bị cáo và những người tham gia tố tụng, xem xét vật chứng, xem xét hiện
trường xảy ra vụ án nhằm kiểm tra chứng cứ công khai tại phiên tòa để giải
quyết vụ án. 2 Mục đích của việc xét hỏi là xem xét công khai những chứng cứ
đã thu thập ở giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng minh vụ án.
• Đại diện Viện Kiểm sát đọc bản cáo trạng:
Mở đầu xét hỏi là việc Viện Kiểm sát đọc bản cáo trạng – thủ tục bắt buộc
(Điều 206 BLTTHS). Sau đó, Kiểm sát viên có thể trình bày bổ sung ý kiến
(nếu có) thể hiện sự truy tố công khai của Viện Kiểm đối với bị cáo.
Việc đọc bản cáo trạng giúp cho người tham gia tố tụng cũng như người
tham dự phiên tòa nắm được toàn bộ diễn biến nội dung vụ án, quan điểm truy
tố của Viện Kiểm sát. Hơn nữa, giúp cho bị cáo đối chiếu, so sánh với nội
2
Tạp chí Luật học số 7/2008 tr 51
3
dung bản cáo trạng mà bị cáo đã được giao trước đó, qua đó đảm bảo cho bị
cáo thực hiện quyền bào chữa, và các quyền tố tụng khác tại phiên tòa.
• Việc cách ly những người tham gia tố tụng
Nếu thấy cần thiết, trước khi xét xử Chủ tọa ra quyết định cách ly người làm
chứng, bị cáo để tránh việc khi khai báo tại phiên tòa, lời khai của người này
có thể ảnh hưởng bởi sự có mặt của người khác. Đối với bị cáo bị cách ly thì
sau khi họ trở lại phòng xử án thì Chủ tọa phiên tòa cần thông báo lại nội dung
lời khai của bị cáo trước đó.
•
Nội dung và trình tự xét hỏi tại phiên tòa
Nội dung xét hỏi: Hội đồng xét xử xét hỏi tại phiên tòa là toàn bộ các tình tiết,
sự việc trong vụ án phục vụ cho việc kiểm tra chứng cứ nhằm xác định sự thật
vụ án. Đối với việc tham gia xét hỏi, theo k.2 Đ209 “Kiểm sát viên hỏi về
những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội bị cáo. Người
bào chữa được hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Người bảo
vệ quyền lợi của đương sự được hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bảo
vệ quyền lợi đương sự. Những người tham gia phiên tòa có quyền đề nghị với
chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ.”
Trình tự xét hỏi tại phiên tòa: theo k.2 Điều 207 thì khi xét hỏi từng người
Chủ tọa hỏi trước rồi đến Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi của đương sự, người giám định. Tuy nhiên, do chức năng và tư
cách tham gia tố tụng tại phiên tòa của các chủ thể này khác nhau nên phạm
vi, nội dung xét hỏi cũng khác nhau.
Thứ tự xét hỏi: những người tham gia xét hỏi có thể xét hỏi lần lượt từng
người, theo thứ tự nhất định và chủ tọa phiên tòa phải xác định cần xét hỏi
người nào trước, người nào sau. Sau khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng xong
chủ tọa phiên tòa hỏi xem bị cáo có ý kiến gì về bản cáo trạng hay không, bị
cáo bị truy tố về tội gì theo điểu khoản nào của Bộ luật Hình sự. Trong trường
4
hợp Kiểm sát viên bổ sung bản cáo trạng làm cho nội dung bản cáo trạng có
thay đổi lớn, ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo thì chủ tọa phiên tòa
phải hỏi xem bị cáo có ý kiến gì không. Nếu bị cáo yêu cầu hoãn phiên tòa thì
HĐXX phải xem xét quyết định. Theo Điều 210 BLTTHS, tiếp đến là hỏi
người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó trình bày về những
tình tiết của vụ án. Sau đó, HĐXX, Kiểm sát viên, người bào chữa và người
bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa
đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Khi hỏi người làm chứng, HĐXX hỏi riêng từng người và không để cho
những người làm chứng khác biệt được nội dung xét hỏi đó. HĐXX phải làm
rõ mối quan hệ giữa người làm chứng với bị cáo và các đương sự khác trong
vụ án, yêu cầu họ trình bày rõ những tình tiết mà họ biết về vụ án. Nếu người
làm chứng là người chưa thành niên thì chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu cha,
mẹ, người đỡ đầu hoặc thày cô giáo giúp đỡ xét hỏi.
Hỏi người giám định: người giám định được hỏi về những vấn đề có liên
quan đến công tác giám định. HĐXX yêu cầu người giám định trình bày kết
luận giám định và sau đó hỏi thêm những vấn đề chưa rõ. Tại phiên tòa, người
giám định có quyền giải thích, bổ sung trên cơ sở kết luận giám định. Nếu
người giám định vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định.
• Công bố lời khai tại Cơ quan điều tra:
Theo khoản 2 Điều 208 BLTTHS chỉ được công bố lời khai của người được
xét hỏi tại Cơ quan điều tra trong những trường hợp sau:
- Lời khai tại phiên tòa của người được xét hỏi có mâu thuẫn với lời khai của
chính họ tại Cơ quan điều tra.
- Người được xét hỏi không trả lời những câu hỏi được đưa ra tại phiên tòa.
- Người được xét hỏi vắng mặt tại phiên tòa hoặc đã chết.
5
Việc công bố lời khai tại phiên Cơ quan điều tra của những người tham gia
tố tụng có mặt tại phiên tòa chỉ được thực hiện sau khi đã hỏi nhưng họ không
trả lời hoặc nội dung trả lời mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra. Sau
khi công bố lời khai của người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa, HĐXX
có thể hỏi vì sao có sự mâu thuẫn giữa các lời khai như thế, nhưng không bắt
buộc người được hỏi phải trả lời lý do. Mục đích của việc công bố lời khai
không phải để khuất phục bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác mà
để đảm bảo nguyên tắc khi xét xử tất cả các chứng cứ trong vụ án đều phải
được xem xét một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
• Xem xét vật chứng và xem xét tại chỗ:
Khoản 1 Điều 212 BLTTHS quy định vật chứng, ảnh, biên bản xác nhận vật
chứng được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Xem xét tại chỗ căn cứ theo Điều
213 BLTTHS “ Nếu xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm
sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa tố tụng đến
xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ
án”. Kiểm sát viên, người bào chữa, và những người khác tham gia phiên tòa
có quyền trình bày những nhận xét của mình về những nơi đó, HĐXX có thể
hỏi thêm những người tham gia phiên tòa về vấn đề liên quan đến nơi đó.
• Kết thúc xét hỏi:
Khi nhận thấy các tình tiết vụ án đã được xem xét đầy đủ, chủ tọa phiên tòa
hỏi kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người khác tham gia phiên
tòa xem có yêu cầu xét hỏi gì nữa không. Nếu có người yêu cầu và thấy là cần
thiết thì chủ tọa phiên tòa sẽ quyết định tiếp tục việc xét hỏi. Nếu không có
yêu cầu hoặc yêu cầu không hợp lý chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần
xét hỏi, chuyển sang phần tranh luận.
3. Tranh luận tại phiên tòa
6
Tranh luận là “bàn cãi để tìm ra lẽ phải”. 3 Tranh luận bao gồm trình tự
phát biểu tại phiên tòa, đối đáp tại phiên tòa, trở lại việc xét hỏi, xem xét việc
rút quyết định truy tố, kết thúc tranh luận và lời nói sau cùng của bị cáo.
Trong phần tranh luận bên buộc tội và bên bào chữa sẽ đưa ra các đánh giá,
kết luận của mình về chứng cứ của vụ án đã được làm rõ trong quá trình xét
hỏi trước đó. Để đảm bảo những quan điểm của mình, các bên tham gia tranh
tụng trên cơ sở phân tích chứng cứ, tài liệu có liên quan để có những lý lẽ, lập
luận phản bác lại quan điểm của bên kia. HĐXX lắng nghe các bên tranh luận,
đối đáp là cơ sở cho việc nghị án và đưa ra các phán quyết phù hợp, đúng đắn.
• Các chủ thể trực tiếp tham gia vào tranh luận
Bao gồm: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, người bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của đương sự và người tham gia tố tụng khác trừ người
làm chứng, người giám định và phiên dịch.
• Trình tự phát biểu khi tranh luận:
Trước hết, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội căn cứ vào những tài liệu,
chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Kiểm sát viên có thể đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung
cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Nếu kiểm sát viên rút một phần quyết
định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn, HĐXX vẫn tiếp tục. Trường hợp nếu
không có căn cứ kết tội bị cáo, Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố và
đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội. Vì theo quy định khoản 1 Điều
217 BLTTHS năm 2003 quy định thì luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ
vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa vào ý kiến của bị
3
Từ điển Tiếng Việt năm 2003 của Viện ngôn ngữ học Việt Nam
7
cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người
tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Sau đó, bị cáo có thể tự mình hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình
theo quy định của pháp luật (khoản 3 điều 217 BLTTHS). Trong quá trình
thực hiện việc bào chữa, người bào chữa phải sử dụng các biện pháp do pháp
luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết chứng minh bị cáo không có tội
hoặc có tội nhưng ở mức độ nhẹ hơn luận tội của Kiểm sát viên và các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Hơn nữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền
và lợi ích liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình
bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Nếu có người bảo vệ quyền
lợi của đương sự tham gia, thì họ có quyền trình bày bổ sung ý kiến để bảo vệ
quyền lợi cho người mà mình bảo vệ. Sau khi người bào chữa, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát
viên và đưa ra đề nghị của mình, Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của
mình đối với từng ý kiến có liên quan đến vụ án. Trường hợp người bào chữa
có nhiều người bào chữa cho bị cáo và những người bào chữa đều có cùng ý
kiến về nội dung bào chữa thì Kiểm sát viên có thể tổng hợp để đối đáp chung
một lần cho các ý kiến đó.
Trong trường hợp người tham gia tranh luận có ý kiến khác nhau thì họ có
quyền phản bác lại ý kiến mà mình không đồng ý. Chủ tọa phiên tòa không
được hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho những người tham
gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không
liên quan đến vụ án. Đối với những ý kiến có liên quan đến vụ án chưa được
Kiểm sát viên tranh luận thì chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên
phải tranh luận và đáp lại. Trong quá trình tranh luận nếu xét thấy cần xem xét
thêm chứng cứ mới thì HĐXX có thể quyết định trở lại việc xét hỏi, xét hỏi
8
xong phải tiếp tục tranhluận. Sau khi những người tham gia tranh luận không
còn trình bày gì thêm nữa, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh luận và bị
cáo được nói lời sau cùng. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm
tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án thì HĐXX phải quyết định
trở lại việc xét hỏi (Điều 220 BLTTHS).
4. Nghị án và tuyên án
4.1 Nghị án
Nghị án là “thảo luận riêng để quyết định hình thức xử lý về một vụ án”. 4
Trong TTHS được hiểu là việc HĐXX đưa ra các quyết định để giải quyết
toàn diện các vấn đề trong vụ án. Theo quy định tại Điều 222 BLTTHS thì
“Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án”, khi nghị án chỉ được
căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những người
tham gia tố tụng tại phiên tòa. Nếu thấy có tình tiết của vụ án chưa được xét
hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì HĐXX phải quyết định trở lại xét hỏi và
tranh luận theo trình tự được quy định trong BLTTHS.
Mặc dù BLTTHS không quy định nội dung phải xem xét, giải quyết trong
quá trình nghị án nhưng thông thường bao gồm: bị cáo có tội hay không, nếu
bị cáo có tội thì là tội gì, loại và mức hình phạt, bị cáo có được hưởng án treo
hay không, những vấn đề khác như bắt giam hoặc trả tự do…
Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố khi trình bày lời
luận tội thì khi nghị án HĐXX vẫn tiến hành thảo luận. Nếu có căn cứ cho
rằng bị cáo không có tội thì tuyên bị cáo vô tội, nếu thấy việc rút quyết định
truy tố của Kiểm sát viên không có căn cứ thì HĐXX phải quyết định tạm
đình chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét.
4
Từ điển Tiếng Việt 2003 của Viện ngôn ngữ học Việt Nam .
9
Sau khi kết thúc nghị án các thành viên của HĐXX phải ký vào biên bản nghị
án trước khi tuyên án. Thành viên của HĐXX có ý kiến thiểu số thì có quyền
trình bày ý kiến của mình bằng văn bản riêng và được đưa vào hồ sơ vụ án.
4.2 Tuyên án
Tuyên án là việc HĐXX đọc toàn bộ nội dung bản án đã được thông qua
trong phòng nghị án tại phiên tòa. Sau khi nghị án chủ tọa phiên tòa thay mặt
HĐXX chỉnh lý lại bản án theo nội dung mà HĐXX đã thảo luận và thông qua
khi nghị án. Sau khi bản án được thông qua thì HĐXX trở lại phòng xử án để
tuyên án. Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trường
hợp bản án quá dài chủ tọa có thể chỉ yêu cầu mọi người trong phòng xử án
đứng dậy khi đọc phần mở đầu và phần quyết định của bản án. Chủ tọa phiên
tòa hoặc một thành viên khác của HĐXX đọc bản án sau đó có thể giải thích
thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.
II. Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm.
1. Những bất cập, hạn chế của quy định BLTTHS về thủ tục phiên tòa
hình sự sơ thẩm.
Chất lượng xét xử vụ án hình sự ngày càng được nâng cao thể hiện việc người
bị kết án oan sai ngày càng giảm: năm 2004 có 5 người bị kết án oan, năm
2005 có 4 người bị kết án oan, và năm 2006 không có trường hợp nào Tòa án
kết án oan. Tuy nhiên theo quy định của BLTTHS về thủ tục phiên tòa sơ
thẩm vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác cải cách tư pháp ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, quy định về tình tự xét hỏi, tranh luận chưa thể hiện
được yêu cầu của tòa án phải có vai trò khách quan, công bằng, vô tư của một
vị trọng tài đứng giữa phán xét.
• Về thủ tục bắt đầu phiên tòa:
10
Bao gồm các điều luật từ Đ 201- Đ.205 quy định nhiều nội dung khác nhau
nhằm giúp cho HĐXX xác định được các điều kiện cần thiết cho việc xét xử.
- Đ.201 chỉ quy định về một số việc chủ tọa phiên tòa phải làm khi bắt đầu
phiên tòa gồm: đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, kiểm tra căn cước người
tham gia tố tụng và giải thích quyền nghĩa vụ của họ tại phiên tòa nhưng cũng
đặt tên là “thủ tục bắt đầu phiên tòa” việc đặt tên một điều luật giống như tên
chương là hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp.
- Điều 202 quy định “những người tham gia tố tụng phải được chủ tọa phiên
tòa hỏi xem có đề nghị thay đổi Thẩm phán…” và Đ.205 cũng quy định “ chủ
tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem có
ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng…” Như vậy có thể hiểu người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch cũng có quyền đề nghị trên. Tuy
nhiên, bản chất tham gia tố tụng của người làm chứng, người phiên dịch là
hoàn toàn khác so với bị cáo và người tham gia tố tụng khác. Họ không có
quyền lợi và nghĩa vụ trực tiếp trong vụ án mà vai trò của họ là giúp cho việc
xác định sự thật khách quan của vụ án tại phiên tòa. Vì vậy việc sử dụng cụm
từ “người tham gia tố tụng” ở đây là chưa chính xác.
- Một số điều trong chương XIX còn trùng lặp như Điều 201 BLTTHS quy
định về việc chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước, giải thích về quyền và nghĩa
vụ người được triệu tập… đến Điều 204 lại quy định về việc kiểm tra căn
cước và giải thích quyền và nghĩa vụ của người giám định, người giám định…
- Khoản 2 Đ.204 về việc cách ly người làm chứng không thống nhất “trước
khi người làm chứng được hỏi về vụ án, chủ tọa phiên tòa có thể quyết định
những biện pháp để cho những người làm chứng không thể nghe được những
lời khai của nhau…” quy định là “có thể” có nghĩa là việc cách ly không phải
là bắt buộc trong mọi trường hợp. Ngược lại k.1 Điều 211 lại quy định “
HĐXX phải hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho những người
11
làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó” có nghĩa cách ly những người
làm chứng luôn là một việc bắt buộc. Sự không thống nhất này dẫn đến một
thực trạng là trong phiên tòa hình sự sơ thẩm việc cách ly người làm chứng
thường ít quan tâm thực hiện.
- Quy định về việc khai mạc phiên tòa: do BLTTHS không quy định cụ thể
nên thực tế việc áp dụng rất khác nhau có “thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên
bố khai mạc phiên tòa sau đó mới đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử ngược
lại có Thẩm phán thì đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử trước rồi tuyên bố
khai mạc phiên tòa”. Cũng có trường hợp chủ tọa không tuyên bố khai mạc
phiên tòa mà coi việc đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử đương nhiên là khai
mạc phiên tòa.
• Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
Thứ nhất, hạn chế trong quy định bổ sung bản cáo trạng tại phiên tòa. Theo
quy định của BLTTHS thì Kiểm sát viên có quyền trình bày ý kiển bổ sung
cáo trạng (nếu có). Tuy nhiên BLTTHS không quy định rõ Kiểm sát viên được
bổ sung cho cáo trạng như thế nào, được bổ sung tất cả các nội dung không…
hay chỉ được bổ sung những nội dung nào làm xấu đi tình trạng pháp lý của bị
cáo? Do đó thực tiễn áp dụng đã nảy sinh nhiều quan điểm không thống nhất
giữa những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa.
Thứ hai, hạn chế trong quy định về nội dung xét hỏi của Kiểm sát viên. Theo
k3 Đ.209 quy định Kiểm sát viên được xét hỏi bị cáo về những tình tiết liên
quan đến việc buộc tội, gỡ tội của bị cáo. Quy định này dẫn đến cách hiểu là
Kiểm sát viên được thực hiện cả chức năng gỡ tội cho bị cáo tại phiên tòa.
Tuy nhiên, theo Điều 23 BLTTHS thì Kiểm sát viên có chức năng thực hành
quyền công tố đồng nghĩa với việc buộc tội bị cáo.
Thứ ba, hạn chế trong quy định về trình tự xét hỏi theo Điều 207 BLTTHS
quy định HĐXX xét hỏi trước Kiểm sát viên và tham gia xét hỏi quá nhiều
12
như vậy khiến cho HĐXX mất đi vai trò một vị “trọng tài” công bằng và lắng
nghe các bên tham gia tranh luận để có nhận định đúng đắn về vụ án. Cần sửa
đổi, bổ sung theo hướng chuyển trách nhiệm chính trong xét hỏi cho các chủ
thể thuộc bên buộc tội và bên bào chữa.
• Về tranh luận tại phiên tòa:
Theo khoản 1 Đ.217 quy định “sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa,
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội” trước khi người tham gia tố tụng phát
biểu ý kiến. Trong khi đó cũng tại Điều 217 quy định “ luận tội của Kiểm sát
viên phải căn cứ vào… ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”. Hai
điều luật này mâu thuẫn ở chỗ vào thời điểm trình bày lời luận tội, Kiểm sát
viên chưa thể biết ý kiến của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa như
thế nào vì họ chưa trình bày ý kiến. Trước đó trong phần xét hỏi tại phiên tòa
những người tham gia tố tụng chỉ thực hiện việc trả lời các câu hỏi của
HĐXX, Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác theo quy định.
• Về nghị án và tuyên án:
BLTTHS quy định khi nghị án chủ tọa phiên tòa biểu quyết sau cùng mà
không quy định ai là người đưa ra vấn đề để HĐXX biểu quyết. Vì vậy, có
quan điểm cho rằng để đảm bảo cho việc xét xử khách quan, bảo đảm cho Hội
thẩm độc lập khi nghị án thì chủ tọa phiên tòa không được đặt vấn đề trước.
Và Bộ luật cũng không quy định ai là người cụ thể, ai là người có trách nhiệm
tổng hợp về các ý kiến thảo luận và các quyết định được biểu quyết thông qua
để ghi chép vào biên bản nghị án. Và BLTTHS cũng không quy định việc chủ
tọa phiên tòa phải thông báo cho người tham gia phiên tòa biết thời gian dự
kiến sẽ tuyên án của HĐXX. Nên thực tiễn đã nảy sinh việc tùy tiện về thời
gian nghị án, gây phiền hà và bức xúc cho những người tham gia tố tụng.
13
2. Những kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS về thủ tục phiên
tòa hình sự sơ thẩm.
Thứ nhất, sửa đổi bổ sung một số quy định chung của BLTTHS về thủ tục
phiên tòa hình sự sơ thẩm. Hoàn thiện quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa.
- Nên quy định chặt chẽ về việc khai mạc phiên tòa, vì mặc dù khai mạc chỉ
là…vấn đề về hình thức nhưng lại có ý nghĩa là đánh dấu sự khởi đầu của một
giai đoạn tố tụng quan trọng và để tạo ra sự thống nhất trong thực tiễn xét xử.
- BLTTHS cần quy định cụ thể về thời hạn hoãn phiên tòa trong trường hợp
bị cáo đề nghị hoãn phiên tòa vì chưa nhận được Bản cáo trạng hoặc quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
- Điều 201 nên sửa tên từ “Thủ tục bắt đầu phiên tòa” thành “bắt đầu phiên
tòa” bổ sung thêm về việc khai mạc phiên tòa và bỏ nội dung kiểm tra căn
cước, giải thích quyền và nghĩa vụ cụ thể của những người được triệu tập.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về thủ tục xét hỏi: nên quy định Kiểm sát
viên là người hỏi chính và hỏi trước để làm rõ các tình tiết của vụ án để chứng
minh cho quyết định truy tố của Viện Kiểm sát là có căn cứ. Sau đó đến người
bào chữa xét hỏi nhằm phục vụ việc bào chữa, tiếp đến là những người khác
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. HĐXX có thể tham gia xét hỏi kết
hợp xen kẽ trong quá trình xét hỏi nếu thấy xuất hiện những chứng cứ mới cần
thiết làm rõ hoặc hỏi thêm những nội dung người khác đã hỏi nhưng chưa rõ.
Nên mở rộng phạm vi đối tượng chủ thể tham gia xét hỏi trực tiếp. Để đảm
bảo cho sự bình đẳng giữa các bên tham gia tranh tụng cần quy định cho
người bị hại, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi
ích liên quan đến vụ án cũng có quyền xét hỏi trực tiếp.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về thủ tục tranh tụng: cần bổ sung quy định về
trình tự người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày lời buộc tội
tại phiên tòa trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị
14
hại. Mặt khác cần quy định cho người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ
…được phát biểu ý kiến trước sau đó bị cáo và người bào chữa mới thực hiện
việc bào chữa.
Thứ tư, hoàn thiện quy định của pháp luật về nghị án và tuyên án: cần quy
định rõ chủ tọa phiên tòa là người tổng hợp và đưa ra các vấn đề cần thảo luận
thông qua tại phòng nghị án. Chủ tọa phiên tòa cũng có trách nhiệm tổng hợp,
ghi chép vào biên bản nghị án những ý kiến của các thành viên trong HĐXX
khi thảo luận và thông qua các quyết định tại phòng nghị án.
Và trước khi vào nghị án nên thông báo cho người tham gia phiên tòa biết thời
gian HĐXX dự kiến tuyên án. Nhằm giúp cho người tham gia tố tụng thực
hiện được quyền tham gia phiên tòa của mình.
C. KẾT LUẬN
Trên đây là những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục
phiên tòa hình sự sơ thẩm và một số kiến nghị để hoàn thiện hơn nữa quy định
của pháp luật về vấn đề này. Bởi vì muốn nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm
thì cần có những quy định mới để khắc phục những điểm chưa hợp lý và hoàn
thiện thủ tục phiên tòa sơ thẩm. Trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào
nền kinh tế quốc tế và khu vực, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó
có tư pháp của nước ta đặt ra là hết sức cần thiết…Trước tình hình đó cần phải
nhanh chóng hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục phiên tòa hình
sự sơ thẩm để góp phần nâng cao hiệu quả xét xử.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
15
1. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường ĐH Luật HN, Nxb
CAND, 2008.
2. Dương Thanh Biểu, Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư pháp
HN, 2007.
3. Mai Thanh Hiếu & Nguyễn Chí Công, Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án
hình sự, Nxb LĐ- XH, 2008.
4. Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của BLTTHS năm
2003, Luận văn Thạc sỹ Đào Trung Kiên, HN, 2008.
5. Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm và vấn đề đổi mới thủ tục tố tụng tại
phiên tòa theo hướng mở rộng tranh tụng, KLTN Hoàng Thùy Linh,
HN, 2010.
6. Tạp chí Luật học số 7/2008, Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố
tụng hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm, TS Nguyễn Đức Mai, tr 37- 45.
7. Tạp chí Luật học số 7/2008, Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm, Thạc sỹ Lê Thị Thúy Nga, tr 51- 55.
8. Uông Chu Lưu (chủ biên) Đề tài khoa học cấp nhà nước “ Cải cách cơ
quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu
lực và hiệu quả xét xử Tòa án trong Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân” HN 2006.
9. />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=11419778&article_
details=1
16