Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo "Sự cần thiết và hướng hoàn thiện các quy định của luật hình sự về bảo vệ trẻ em " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.9 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
40
T ạp chí luật học số 2/200
4




Ths. NGuyễn Văn Hơng *
1. S cn thit phi hon thin cỏc quy
nh ca lut hỡnh s v bo v tr em
Trong cuc u tranh phũng chng ti
phm núi chung, phũng chng cỏc ti xõm
phm i tng l tr em núi riờng, lut
hỡnh s cú vai trũ c bit quan trng.
bo v tr em cú hiu qu v trng tr
nghiờm khc hnh vi phm ti xõm hi tr
em, lut hỡnh s cn cú nhng quy nh
riờng phự hp vi tớnh cht, mc nguy
him ca hnh vi phm ti; phự hp vi ũi
hi ca xó hi v bo v tr em.
Nhng nm qua, cựng vi vic ban hnh
BLHS nm 1999, cỏc c quan cú thm
quyn cng ó cú nhiu vn bn hng dn
ỏp dng BLHS. Tuy nhiờn, cú mt s quy
nh ca lut hỡnh s v bo v tr em cũn
cha chun xỏc v khụng phự hp vi din
bin thc t ca tỡnh hỡnh ti phm. Cỏc ti
phm xõm hi tr em cú din bin phc tp,


ngy cng xut hin nhiu hnh vi phm ti
vi nhng phng phỏp th on mi, tinh
vi xo quyt v nguy him hn trc. iu
ú ó lm cho mt s quy nh ca lut hỡnh
s khụng ỏp ng c yờu cu lm c s
phỏp lớ cho hot ng u tranh phũng chng
ti phm v bo v tr em. Vỡ vy, vic sa
i, b sung cỏc quy nh ca lut hỡnh s v
bo v tr em l ht sc cn thit, nú s gúp
phn to c s phỏp lớ vng chc hot
ng u tranh phũng chng ti phm v bo
v tr em t hiu qu cao hn.
nhn thc rừ nhng bt cp v s
cn thit phi sa i, b sung, hon thin
cỏc quy nh ca lut hỡnh s v bo v tr
em, chỳng tụi xin nờu mt s vn sau:
Th nht, thc tin u tranh phũng
chng ti phm nhng nm gn õy cho
thy ó xut hin nhiu v bt cúc tr em
m mc ớch ca ngi phm ti l xit
n, ũi c khon n ch khụng phi
chim ot tr em. Ngi phm ti bt
cúc tr em v gi nn nhõn mt ni no
ú ộp cha m hoc ngi thõn ca a
tr phi thanh toỏn khon n (quỏ hn) m
h khụng chu thanh toỏn. Hnh vi bt cúc
tr em xõm phm nghiờm trng quyn tr
em v nhõn phm, danh d, sc kho; xõm
phm nghiờm trng cuc sng bỡnh thng,
s hc tp, rốn luyn ca tr em (cú nhiu

tr em b bt, nht, giam gi nhiu
ngy)
(1)
Gn õy cũn xut hin v ỏn c
bit nghiờm trng, ngi phm ti bt cúc
tr em v yờu sỏch cho hn c trn
thoỏt (ngi phm ti l phm nhõn ang
phi chp hnh hỡnh pht trong tri ci
to).
(2)
BLHS khụng quy nh ti bt cúc
* Ging viờn Khoa lut hỡnh s
Trng i hc lut H Ni


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004 41

trẻ em” nên khi hành vi này (bắt cóc trẻ em)
xảy ra thì cũng chỉ có thể truy cứu TNHS
đối với người phạm tội về tội chiếm đoạt trẻ
em (Điều 120 BLHS). Điều này là một bất
hợp lí.
Thứ hai, trong xã hội những năm gần
đây đã xuất hiện hàng loạt vụ phạm tội
cướp, cưỡng đoạt, cướp giật tài sản của trẻ
em. Người phạm tội lợi dụng trẻ em do tuổi
nhỏ, sức yếu khó có điều kiện tự bảo vệ tài
sản để tấn công chiếm đoạt tài sản của
nhiều trẻ em.

(3)
Hành vi phạm tội chiếm
đoạt tài sản của trẻ em rõ ràng có tính nguy
hiểm hơn so với những trường hợp phạm tội
bình thường. Trong BLHS hiện nay, tình
tiết “phạm tội đối với trẻ em” chưa được
quy định là dấu hiệu định khung hình phạt
tăng nặng của các tội như cướp tài sản,
cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản
Những trường hợp này nếu chỉ áp dụng tình
tiết “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết
tăng nặng TNHS (điểm h khoản 1 Điều 48
BLHS) thì không phù hợp với mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội.
Thứ ba, sự bất cập của hệ thống các quy
phạm pháp luật hình sự về bảo vệ trẻ em
còn thể hiện ở chỗ: Các văn bản hướng dẫn,
giải thích của các cơ quan có thẩm quyền về
các quy định của BLHS có liên quan đến
đối tượng bị xâm hại là trẻ em còn chưa kịp
thời, còn thiếu và có những hướng dẫn chưa
chuẩn xác.
(4)

Trong BLHS, các tội có đối tượng bị
xâm hại là trẻ em hoặc là người chưa thành
niên (bao gồm trẻ em) như tội dâm ô đối
với trẻ em (Điều 116); tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120); tội
vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ

em (Điều 228); tội dụ dỗ, ép buộc hoặc
chứa chấp người chưa thành niên phạm
pháp (Điều 252) đều có những dấu hiệu
“gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả
rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng” được quy định là dấu hiệu
định khung hình phạt tăng nặng. Những dấu
hiệu này cần phải được hướng dẫn cụ thể,
nếu không sẽ dẫn đến việc nhận thức cũng
như áp dụng không thống nhất, ảnh hưởng
không nhỏ đến việc giải quyết các vụ án
cũng như chất lượng xét xử của toà án.
Các cơ quan có thẩm quyền như
TANDTC, VKSNDTC, Bộ công an, Bộ tư
pháp đã có nhiều cố gắng trong việc giải
thích, hướng dẫn áp dụng BLHS. Tuy
nhiên, có một số vấn đề các cơ quan nói
trên hướng dẫn, giải thích còn chưa chuẩn
xác, thậm chí có những hướng dẫn trái với
quy định của BLHS.
(5)

2. Hướng hoàn thiện các quy định của
luật hình sự về bảo vệ trẻ em
Hoàn thiện các quy định của luật hình
sự về bảo vệ trẻ em là yêu cầu của thực tiễn
đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ
trẻ em ở nước ta hiện nay. Để góp phần
hoàn thiện các quy định của luật hình sự về
bảo vệ trẻ em, chúng tôi xin nêu một số đề

xuất sau:
a. Bổ sung tội danh mới: Tội bắt cóc trẻ
em làm con tin
Trong BLHS, tội chiếm đoạt trẻ em
(Điều 120 BLHS) chưa bao quát được
trường hợp bắt cóc trẻ em. Hành vi chiếm
đoạt trẻ em là “hành vi tách chuyển trái
phép đứa trẻ khỏi sự quản lí của gia đình


nghiên cứu - trao đổi
42
T ạp chí luật học số 2/200
4

hoc ngi qun lớ hp phỏp v thit lp s
qun lớ ú cho mỡnh hoc ngi khỏc bng
nhng th on khỏc nhau .
(6)
Trng
hp ngi phm ti bt cúc tr em nhm
mc ớch bin a tr ca ngi khỏc
thnh ca mỡnh mt cỏch trỏi phộp (bt cúc
v lm con nuụi hoc bt cúc tr em v
bỏn, a ra nc ngoi ) thỡ ú chớnh l
hnh vi chim ot tr em l mt trong 3
dng hnh vi phm ti ca ti phm c
quy nh ti iu 120 BLHS. Cũn hnh vi
bt cúc tr em l hnh vi cỏch li trỏi phộp
a tr khi gia ỡnh hoc ngi qun lớ

hp phỏp nhm nhng mc ớch khỏc nh
lm cho cha m hoc ngi thõn ca a tr
hong s tr thự h hoc khng ch
buc cha m a tr phi lm hoc khụng
c lm mt vic gỡ ú nh thanh toỏn
khon n, khụng c khai bỏo, t giỏc
hoc yờu sỏch vi ngi khỏc nh yờu
sỏch c trn thoỏt thỡ thc cht ch l
hnh vi bt cúc tr em lm con tin vi ỳng
ngha ca t ny m thụi.
BLHS khụng quy nh ti bt cúc tr
em hay ti bt cúc tr em lm con tin nờn
trng hp bt cúc tr em nhng khụng
nhm chng chớnh quyn nhõn dõn, khụng
nhm chim ot ti sn, khụng nhm
chim ot a tr m ch nhm cỏc mc
ớch khỏc nh ũi n, c trn thoỏt,
uy hip ngi thõn ca a tr hoc
ngi khỏc thỡ u b xột x v ti chim
ot tr em (iu 120 BLHS). iu ny
khụng hp lớ vỡ gia hnh vi chim ot tr
em v hnh vi bt cúc tr em (nhm nhng
mc ớch khỏc khụng phi l chim ot tr
em) cú s khỏc nhau. Vic truy cu TNHS
ngi bt cúc tr em xit n, yờu
sỏch c trn thoỏt hoc t nhng
mc ớch khỏc (khụng phi l chim ot
a tr) v ti chim ot tr em l khụng
phự hp vi tớnh cht nguy him ca hnh
vi phm ti cng nh ý nh ch quan ca

ngi phm ti. Ngi phm ti trong
nhng trng hp ny khụng cú mc ớch
chim ot (tr em) khi thc hin hnh vi
bt cúc a tr.
Chớnh vỡ vy, chỳng tụi xut nờn tỏch
mt s trng hp c bit ca hnh vi
phm ti chim ot tr em v quy nh
thnh mt ti danh riờng: Ti bt cúc tr em
lm con tin.
Nh vy, v c cu iu 120 BLHS hin
nay vn gi nguyờn v ch b sung thờm
iu 120a ti bt cúc tr em lm con tin.
Chỳng tụi xin mụ t ti danh ny nh sau:
iu 120a. Ti bt cúc tr em lm con tin.
1. Ngi no vỡ ng c ũi n, tr thự
hoc ng c cỏ nhõn khỏc m bt cúc tr em
lm con tin thỡ b pht tự t 2 nm n 7 nm.
2. Phm ti thuc mt trong cỏc trng hp
sau õy thỡ b pht tự t 5 nm n 12 nm:
a. Cú t chc;
b. S dng v khớ, phng tin hoc th
on nguy him khỏc;
c. i vi nhiu tr em;
d. Gõy thng tớch hoc gõy tn hi cho
sc kho ca tr em m t l thng tt t
11% n 30%;
e. Gõy hu qu nghiờm trng;
f. Tỏi phm nguy him.
3. Phm ti thuc mt trong cỏc trng hp
sau õy thỡ b pht tự t 10 nm n 15 nm.

a. Gõy thng tớch hoc gõy tn hi cho


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004 43

sức khoẻ của trẻ em mà tỉ lệ thương tật từ
31% đến 60%;
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20
năm hoặc tù chung thân:
a. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của trẻ em mà tỉ lệ thương tật từ
61% trở lên hoặc làm chết trẻ em;
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng
hoặc phạt quản chế từ 1 năm đến 5 năm.
b. Bổ sung dấu hiệu định khung hình
phạt tăng nặng “phạm tội đối với trẻ em”
Bảo vệ trẻ em là bảo vệ tính mạng, sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tự do, tài sản và
các lợi ích khác của trẻ em. Trong thực tế,
trẻ em có thể là người không có nhiều tài
sản hoặc tài sản có giá trị không lớn nhưng
tài sản mà gia đình trang bị cho các em sử
dụng hàng ngày như xe đạp, đồng hồ, quần
áo, một số em có đồ trang sức như nhẫn
vàng, dây chuyền có nhiều thứ có giá trị

trên 500 nghìn đồng. Trẻ em do tuổi nhỏ,
sức yếu, nhận thức còn hạn chế nên khi bị
những kẻ cướp, cưỡng đoạt tài sản tấn
công thì các em khó có điều kiện chống trả
để bảo vệ tài sản cũng như tính mạng, sức
khoẻ của mình. Hơn nữa, nhiều trường hợp,
người phạm tội đã lợi dụng đặc điểm bất lợi
của trẻ em (tuổi nhỏ, sức yếu) để thực hiện
tội phạm được dễ dàng. Hành vi phạm tội
chiếm đoạt tài sản của trẻ em trong những
trường hợp này thể hiện tính nguy hiểm cao
hơn và do đó cần phải bị trừng trị nghiêm
khắc hơn.
Trong BLHS, dấu hiệu “phạm tội đối
với trẻ em”, “phạm tội đối với người chưa
thành niên” (bao gồm trẻ em) đã được quy
định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng
nặng của nhiều tội phạm. Tuy nhiên, các tội
xâm phạm sở hữu như tội cướp, tội cướp
giật, tội cưỡng đoạt tài sản thì tình tiết
“phạm tội đối với trẻ em” còn chưa được
quy định là dấu hiệu định khung hình phạt
tăng nặng. Các tội phạm này trong những
năm gần đây xảy ra khá nhiều, với nhiều vụ
án rất nghiêm trọng, thậm chí còn hình
thành các băng nhóm chuyên chiếm đoạt tài
sản của trẻ em.
(7)
Để đấu tranh phòng chống
tội phạm và bảo vệ trẻ em có hiệu quả, theo

chúng tôi cần bổ sung thêm tình tiết “phạm
tội đối với trẻ em” là dấu hiệu định khung
hình phạt tăng nặng của tội cướp tài sản
(Điều 133), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều
135), tội cướp giật tài sản (Điều 136) và tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139) BLHS.
c. Cơ quan có thẩm quyền cần ban hành
văn bản hướng dẫn, giải thích và sửa đổi
những hướng dẫn không phù hợp để các
quy định của luật hình sự Việt Nam về bảo
vệ trẻ em có tính khả thi
Hệ thống hoàn chỉnh các quy định của
luật hình sự với những quy định rõ ràng, cụ
thể, chặt chẽ chính là đòi hỏi của Nhà nước
và xã hội hiện nay. Tuy nhiên, BLHS không
thể quy định cụ thể, chi tiết tất cả các vấn
đề về tội phạm và TNHS của người phạm
tội mà chỉ quy định một cách khái quát. Do
vậy, hệ thống hoàn chỉnh các quy định của
luật hình sự phải bao gồm quy định của
BLHS và các văn bản hướng dẫn, giải thích
BLHS. Hơn nữa, do diễn biến phức tạp của


nghiªn cøu - trao ®æi
44
T ¹p chÝ luËt häc sè 2/200
4

tình hình tội phạm, sự thay đổi nhanh chóng

của những điều kiện kinh tế xã hội, các vấn
đề đã được hướng dẫn, giải thích nhưng
không còn phù hợp thì phải có những
hướng dẫn, giải thích mới phù hợp để việc
áp dụng BLHS được thống nhất. Đối với
các tội xâm phạm đối tượng trẻ em, các cơ
quan có thẩm quyền cần sớm hướng dẫn,
giải thích những vấn đề sau:
Một là, cần sớm hướng dẫn, giải thích dấu
hiệu hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất
nghiêm trọng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
được quy định là dấu hiệu định khung hình
phạt của các tội: Tội dâm ô đối với trẻ em
(Điều 116), tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em (Điều 120); tội vi phạm quy định
về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228); tội dụ
dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành
niên phạm pháp (Điều 252).
Hậu quả nghiêm trọng của tội dâm ô đối
với trẻ em không giống như hậu quả
nghiêm trọng của tội mua bán trẻ em hay
tội dụ dỗ người chưa thành niên phạm
pháp. Vậy, hậu quả nghiêm trọng, hậu quả
rất nghiêm trọng hay hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng của những tội phạm này bao
gồm những nội dung gì? Mức độ thiệt hại
như thế nào thì được coi là gây hậu quả
nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng,
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Đây là vấn
đề cần được các cơ quan có thẩm quyền

hướng dẫn, giải thích cụ thể để việc nhận
thức và áp dụng luật được thống nhất.
Tuy nhiên, đối với tội vi phạm quy định
về sử dụng lao động trẻ em, các cơ quan có
thẩm quyền cần thận trọng khi hướng dẫn,
giải thích về dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm
trọng”. Theo các hướng dẫn trước đây và
mới gần đây như Nghị Quyết của Hội đồng
thẩm phán TANDTC số 02/2003/NQ-HĐTP
ngày 17/4/2003
(8)
thì dấu hiệu “gây hậu quả
nghiêm trọng” thường được hướng dẫn là:
Làm chết người, gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ gây thiệt hại về tài
sản Theo chúng tôi, sẽ là không hợp lí nếu
quan niệm hành vi vi phạm quy định về sử
dụng lao động trẻ em “gây hậu quả nghiêm
trọng” lại bao gồm cả việc gây thiệt hại về
tính mạng của trẻ em. Trường hợp vi phạm
quy định về sử dụng lao động trẻ em gây
hậu quả chết người phải coi là “gây hậu quả
rất nghiêm trọng” và áp dụng khoản 2 Điều
228 BLHS.
Hai là, TANDTC cần có văn bản hướng
dẫn lại hoặc sửa chữa mục 26 (phần hình
sự) trong văn bản “Giải đáp một số vấn đề
về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính và tố tụng” ngày 1/2/1999 về tình tiết
“phạm tội đối với trẻ em”. Bởi vì, “Phạm

tội đối với trẻ em”, theo chúng tôi không
chỉ là tình tiết tăng nặng TNHS “đối với
người phạm tội trong trường hợp cố ý xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm,
danh dự của trẻ em” mà là tình tiết tăng
nặng TNHS đối với người phạm tội cố ý
xâm hại đối tượng là trẻ em nói chung. Nó
được áp dụng không chỉ đối với hành vi
phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự mà còn được áp dụng
đối với cả những tội xâm phạm sở hữu, xâm
phạm sự phát triển lành mạnh của trẻ em về
thể chất và tâm lí BLHS đã quy định tình
tiết “phạm tội đối với trẻ em” là dấu hiệu
định khung hình phạt của tội bắt cóc nhằm


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004 45

chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội dụ dỗ, ép
buộc hoăc chứa chấp người chưa thành niên
phạm pháp (Điều 252 BLHS) nên việc giới
hạn phạm vi áp dụng tình tiết “phạm tội đối
với trẻ em” chỉ là tình tiết tăng nặng TNHS
đối với các tội xâm phạm tính mạng sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự như hướng dẫn
trong văn bản đã nêu trên là không hợp lí.
Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền
cần hướng dẫn cụ thể về vấn đề nhận thức,

thái độ của người phạm tội về tuổi của
người bị hại là trẻ em. Người phạm tội có
đòi hỏi phải biết đối tượng của hành vi của
mình là trẻ em hay không? Theo quan điểm
của chúng tôi, mặc dù BLHS chỉ quy định
là “phạm tội đối với trẻ em” nhưng quy
định này cũng đã thể hiện người phạm tội
phải nhận thức được đối tượng của hành vi
phạm tội là trẻ em. Tình tiết “phạm tội đối
với trẻ em” vừa thể hiện biểu hiện khách
quan là hành vi phạm tội tác động vào đối
tượng trẻ em, vừa thể hiện thái độ chủ quan
là người phạm tội nhận thức được đối tượng
của hành vi phạm tội là trẻ em. Chính vì
vậy, để đảm bảo nguyên tắc lỗi, các cơ quan
có thẩm quyền cần giải thích tình tiết
“phạm tội đối với trẻ em” theo hướng là:
Khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm
tội biết được đối tượng mà hành vi phạm tội
tác động vào là trẻ em.
Ba là, Bộ tư pháp, Bộ công an, TANDTC,
VKSNDTC cần ban hành ngay văn bản sửa
đổi mục 6, Thông tư số 01/2001/TTLB ngày
25/9/2001 hướng dẫn áp dụng quy định tại
chương XV “các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân và gia đình” của BLHS năm 1999.
Văn bản này có hướng dẫn: “ trong mọi
trường hợp hành vi loạn luân được thực
hiện đối với trẻ em dưới 13 tuổi, thì người
thực hiện hành vi loạn luân phải bị truy cứu

TNHS về tội hiếp dâm trẻ em (điểm a khoản
2 Điều 112 BLHS)”. Nội dung của hướng
dẫn này hoàn toàn trái với quy định tại
khoản 4 Điều 112 BLHS: “Mọi trường hợp
giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là
phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm
tội bị phạt tù từ ”.

(1).Xem: - Đặc san báo CATP HCM ra ngày 29/3/1997,
tr. 40
(2). Xem: - Báo CAND ngày 4/3/2003, tr.8;
(3). Xem: - Báo CAND số 1535 ngày 16/1/2003, tr.12.
- Báo CAND số 923 ngày 30/6/2000, tr.6.
- Báo ANTĐ số 480 ra ngày 2/8/2000, tr.9.
- Báo ANTĐ số1090 ra ngày 23/10/2003, tr.2.
- Báo Giáo dục và Thời đại (số đặc biệt tháng
năm), ngày 17/5/2003, tr.12.
(4).Xem: Mục 26 (phần hình sự) văn bản "Giải đáp
một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động
hành chính và tố tụng" ngày 1/2/1999 của Tòa án
nhân dân tối cao.
(5).Xem: Mục 6, Thông tư số 01/2001/TTLB ngày
25/9/2001 của Bộ tư pháp, Bộ công an, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
(6)Xem: Trường đại học luật Hà Nội (2002), "Giáo trình
luật hình sự Việt Nam", Nxb. Công an nhân dân, H,
tr.337.
(7). Xem: - Báo CAND số 1535 ngày 16/1/2003, tr.12.
- Báo CAND số 923 ngày 30/6/2000, tr.6.
- Báo ANTĐ số 480 ra ngày 2/8/2000, tr.9.

- Báo Giáo dục và Thời đại (số đặc biệt tháng
năm), ngày 17/5/2003.
(8). Văn bản này chỉ hướng dẫn áp dụng tình tiết “gây hậu
quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại Điều 202,
245 BLHS.

×