Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Những quy định pháp luật hiện hành về mua lại cổ phần, chuyển nhượng cổ phần và mua lại vốn góp, chuyển nhượng vốn góp trong công ty TNHH hai thành viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.19 KB, 15 trang )

Mục lục

I. LỜI NÓI ĐẦU

1

II. NỘI DUNG

1

1, Mua lại cổ phần

2

1.1, Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông

2

1.2, Mua lại cổ phần theo quyết định của công ty

2

2, Chuyển nhượng cổ phần

5

3, Mua lại vốn góp

8

4. Chuyển nhượng phần vốn góp


III. Một số nhận xét và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về
mua lại cổ phần, chuyển nhượng cổ phần và mua lại vốn góp, chuyển

10
11

nhượng vốn góp
IV. KẾT LUẬN

13

Tài liệu tham khảo

14

1


Đề bài: Những quy định pháp luật hiện hành về mua lại cổ phần, chuyển nhượng
cổ phần và mua lại vốn góp, chuyển nhượng vốn góp trong công ty TNHH hai
thành viên.
Bài làm
I. Lời nói đầu.
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam khi chúng ta chủ trương phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước tạo ra thời cơ
thuận lợi để mọi người, mọi tổ chức có thể thực hiện được ý tưởng đầu tư của
mình khai thác các tiềm năng sẵn có về vốn, lao động, trình độ quản lý và các
nguồn lực vật chất cần thiết khác phát triển kinh tế của đất nước. Trong các loại
hình doanh nghiệp hiện nay mà pháp luật cho phép thành lập và hoạt động, công
ty TNHH và công ty cổ phần là hai loại hình chiếm vị trí chủ đạo. Mỗi loại đều

có những điểm mạnh nhất định đòi hỏi các nhà kinh doanh cần nắm bắt để khai
thác và vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện và khả năng của
mình. Trong đó, cách thức, hoạt động quản lý nguồn vốn là yếu tố quan trọng để
tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời nó cũng là tiền đề để các doanh nghiệp
tồn tại, phát triển trong cơ chế thị trường. Do đó nhu cầu tìm hiểu những quy
định pháp luật về chuyển nhượng, mua lại trong công ty TNHH và công ty cổ
phần là việc cần thiết.
II. Nội dung.
Về chủ thể có quyền tham gia quy định tại Điều 13 Luật doanh nghiệp và
Điều 13 Nghị định 102/2010/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Doanh nghiệp, theo đó “Tất cả các tổ chức là pháp nhân,bao gồm
cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không phân biệt nơi đăng ký trụ sở
chính và mọi cá nhân không phân biệt quốc tịch và nơi cư trú, nếu không thuộc
đối tượng quy định tại khoản 4 Điều 13 của Luật Doanh nghiệp đều có quyền
2


góp vốn, mua cổ phần với mức không hạn chế tại doanh nghiệp theo quy định
tương ứng của Luật Doanh nghiệp” trừ một số đối tượng như cơ quan nhà nước,
đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn
vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; các đối tượng
không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức.
1, Mua lại cổ phần
Công ty có thể mua lại cổ phần của mình trong 2 trường hợp sau:
1.1, Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông
Về điều kiện phát sinh, theo Điều 90 Luật Doanh nghiệp, nếu cổ đông biểu
quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa
vụ của cổ đông quy định tại điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ
phần của mình.

Về hình thức, yêu cầu phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ cổ
đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại
và phải được gửi đến công ty trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày đại hội
đồng cổ đông thông qua quyết định về các vấn đề này.
Về giá mua lại, trong trường hợp công ty mua lại cổ phần theo yêu cầu của
cổ đông thì công ty phải mua lại cổ phần với giá thì trường hoặc giá được tính
theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn chín mươi ngày, kể
từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì cổ
đông đó có thể bán cổ phần cho người khác hoặc các bên có thể yêu cầu một tổ
chức định giá chuyên nghiệp định giá. Công ty giới thiệu ít nhất ba tổ chức định
giá chuyên nghiệp cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng.
1.2, Mua lại cổ phần theo quyết định của công ty

3


Trong trường hợp muốn giảm vốn, công ty có thể chủ động mua lại có cổ
phần của mình thì phải tuân theo quy định tại Điều 91 Luật doanh nghiệp 2005
như sau: Công ty có quyền mua lại không quá 30% tổng số cổ phần phổ thông đã
bán, một phần hoặc toàn bộ cổ phần ưu đãi cổ tức đã bán. Cổ phần được mua lại
sẽ được coi là cổ phần thu về và thuộc số cổ phần được quyền chào bán của công
ty.
Theo khoản 2đ Điều 108 Luật doanh nghiệp, hội đồng quản trị có quyền
quyết định mua lại cổ phần theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Luật này.
Theo đó tại khoản 1 Điều 91 Luật doanh nghiệp: “Hội đồng quản trị có quyền
quyết định mua lại không quá 10% tổng số cổ phần của từng loại đã được chào
bán trong mỗi mười hai tháng. Trong trường hợp khác, việc mua lại cổ phần do
Đại hội đồng cổ đông quyết định.” Với các công ty niêm yết còn phải công bố
rộng rãi trước công chúng.
Hội đồng quản trị quyết định giá mua lại cổ phần. Đối với cổ phần phổ

thông, giá mua lại không được cao hơn giá thị trường tại thời điểm mua lại, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Đối với cổ phần loại khác, nếu Điều
lệ công ty không quy định hoặc công ty và cổ đông có liên quan không có thoả
thuận khác thì giá mua lại không được thấp hơn giá thị trường. (khoản 2 Điều 91
Luật doanh nghiệp)
Công ty có thể mua lại cổ phần của từng cổ đông tương ứng với tỷ lệ cổ
phần của họ trong công ty. Quyết định mua lại cổ phần của công ty phải được
thông báo bằng phương thức bảo đảm đến được tất cả cổ đông trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày quyết định đó được thông qua.
Thông báo phải có tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty, tổng số cổ phần và
loại cổ phần được mua lại, giá mua lại hoặc nguyên tắc định giá mua lại, thủ tục
và thời hạn thanh toán, thủ tục và thời hạn để cổ đông chào bán cổ phần của họ
cho công ty.
4


Cổ đông đồng ý bán lại cổ phần phải gửi chào bán cổ phần của mình bằng
phương thức bảo đảm đến được công ty trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày
thông báo. Chào bán phải có họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh
nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá
nhân; tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký
kinh doanh của cổ đông là tổ chức; số cổ phần sở hữu và số cổ phần chào bán;
phương thức thanh toán; chữ ký của cổ đông hoặc người đại diện theo pháp luật
của cổ đông. Công ty chỉ mua lại cổ phần được chào bán trong thời hạn nói trên.
Tuy nhiên, công ty chỉ được quyền thanh toán cổ phần được mua lại cho
cổ đông trong trường hợp trên nếu ngay sau khi thanh toán hết số cổ phần được
mua lại, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác (khoản 1 Điều 92 Luật Doanh nghiệp). Nếu việc thanh toán cổ phần mua lại
trái với quy định tại khoản 1 Điều 92 thì theo Điều 94 Luật Doanh nghiệp “các
cổ đông phải hoàn trả cho công ty số tiền, tài sản khác đã nhận; trường hợp cổ

đông không hoàn trả được cho công ty thì cổ đông đó và tất cả thành viên Hội
đồng quản trị phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị số tiền, tài sản đã trả cho cổ đông
mà chưa được hoàn lại.”
Trường hợp sau khi thanh toán hết số cổ phần mua lại, nếu tổng giá trị tài
sản được ghi trong sổ kế toán của công ty giảm hơn 10% thì công ty phải thông
báo cho tất cả các chủ nợ biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thanh toán hết
số cổ phần mua lại (khoản 4 Điều 92 Luật Doanh nghiệp). Để đảm bảo an toàn,
cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu cổ phần đã được mua lại phải được tiêu hủy
ngay sau khi cổ phần tương ứng đã được thanh toán đủ.
Việc mua lại cổ phần là một trong những biện pháp nhằm tăng cường
kiểm soát công ty và tăng giá cổ phần. Việc mua lại cổ phần sẽ giới hạn số cổ
đông được chia cổ tức, làm cho số cổ tức được chia tăng lên, tức lợi nhuận trên
5


mỗi cổ phần cũng tăng lên. Do vậy, lợi nhuận cho nhà đầu tư đang nắm giữ cổ
phiếu đó sẽ tăng lên.
Một doanh nghiệp có nhiều lợi nhuận hơn lượng tiền cần để sử dụng tái
đầu tư thì có thể chi trả cổ tức tiền mặt cho các cổ đông, thay vì chi trả cổ tức
tiền mặt, đôi khi doanh nghiệp sẽ mua lại cổ phần. Cổ đông của doanh nghiệp sẽ
nhận được một khoản lợi từ việc bán lại cổ phần của mình. Đây xem như là một
cơ chế phân phối tiền cho các cổ đông mà một doanh nghiệp có thể lựa chọn
thay cho việc trả cổ tức bằng tiền.
2, Chuyển nhượng cổ phần
Theo khoản 5 Điều 87 Luật Doanh nghiệp, các cổ đông có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Đó cũng là một quyền của cổ
đông phổ thông theo quy định tại khoản 1d Điều 79. Quy định cổ đông tự do
chuyển nhượng cổ phần tạo luồng vốn đầu tư được luân chuyển trên thị trường,
giúp cho các nhà đầu tư linh hoạt, điều chỉnh mục tiêu đầu tư dễ dàng. Nhà đầu

tư có điều kiện thực hiện ý tưởng của mình thông qua việc mua cổ phần đến mức
đủ lớn để có thể điều hành được công ty.
Về hình thức có thể là chuyển nhượng trực tiếp, các cổ đông có thể chuyển
nhượng cổ phần cho nhau, cho người khác ngoài công ty thông qua việc trao đổi
trực tiếp, người mua có điều kiện trực tiếp xác định, đánh giá chất lượng hàng
hóa, và trực tiếp trả giá cho người bán. Hành vi chuyển nhượng này do hai bên
mua bán tự thỏa thuận theo quy định giao dịch dân sự.
Hoặc gián tiếp qua bán cổ phần trên thị trường chứng khoán. Do người
mua không nhìn thấy hàng hóa cụ thể, nếu các thông tin này bị sai lệch thì có rất
nhiều rủi ro đối với người mua nên công ty phải tuân thủ các điều kiện nghiêm
ngặt về tính minh bạch tài chính, về khả năng sinh lời, phải được Ủy ban Chứng

6


khoán thẩm định và phải tuân thủ các quy tắc kiểm toán theo pháp luật về chứng
khoán.
Tuy nhiên, có hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong 2 trường hợp:
Thứ nhất, “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển
nhượng cổ phần đó cho người khác.” (khoản 3 Điều 81). Cổ phần ưu đãi còn lại
không chịu các sự hạn chế trên, trừ trường hợp điều lệ công ty qui định khác. Cổ
phần ưu đãi biểu quyết chỉ do tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng
lập nắm giữ. Các cổ đông này có nhiều ảnh hưởng đến doanh nghiệp, tự do
chuyển nhượng thì sẽ rất rủi ro khi một cá nhân nào đó vì quyền lợi riêng của họ,
bán tháo cổ phần cho đối thủ, để đối thủ dễ dàng kiểm soát và dẫn đến thất bại
của công ty. Mặt khác nếu là tổ chức Chính phủ ủy quyền thì họ không thể tự do
chuyển nhượng.
Thứ hai, để bảo vệ lợi ích cho người mua cổ phần là người không tham gia
thành lập công ty cổ phần, không biết được thực trạng công ty khi mới thành lập,
luật doanh nghiệp đã quy định điều kiện hạn chế đối với người bán là những cổ

đông sáng lập công ty. “Trong thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được
chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông
sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trong trường hợp
này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc
chuyển nhượng các cổ phần đó và người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở
thành cổ đông sáng lập của công ty.” (khoản 5 Điều 84)
Về thủ tục, hai bên (bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng) tự
thỏa thuận với nhau về việc chuyển nhượng cổ phần bằng văn bản phù hợp với
các quy định của pháp luật hiện hành - hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hoặc
giấy chuyển nhượng cổ phần.
7


Khi đến làm thủ tục chuyển nhượng tại Công ty, các bên liên quan xuất
trình Sổ chứng nhận sở hữu cổ phần, giấy tờ tuỳ thân và cùng ký xác nhận việc
chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới sự chứng kiến của đại diện công ty. Việc
chuyển nhượng quyền sổ hữu cổ phần, cổ phiếu của chỉ được coi là hoàn toàn
hợp lệ sau khi đã được bút toán vào “ Sổ đăng ký cổ đông “ của Công ty.
Việc chuyển nhượng cổ phần, thay đổi cổ đông sáng lập trong trường hợp
công ty đã được thành lập trên ba năm không phải thực hiện thủ tục thay đổi
đăng ký kinh doanh, tuy nhiên cần phải thông báo cho phòng đăng ký kinh
doanh biết và đăng ký cổ đông mới nhận chuyển nhượng theo quy định tại khoản
4 điều 86 Luật doanh nghiệp: “Cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần trở lên
phải được đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền trong thời
hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày có được tỷ lệ sở hữu đó”.
Trường hợp nhận chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập quy định
tại khoản 5 Điều 84 của Luật Doanh nghiệp thì còn phải đăng ký thay đổi cổ
đông sáng lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh

doanh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư (khoản 3 Điều 13
Nghị định số 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật
doanh nghiệp).
Theo khoản 2 Điều 41 Nghị định 43/2010/NĐ-CP về đăng ký doanh
nghiệp thay đổi cổ đông sáng lập: “Công ty gửi Thông báo đến Phòng Đăng ký
kinh doanh nơi công ty đã đăng ký...Kèm theo Thông báo phải có: quyết định
bằng văn bản và bản sao biên bản họp của Đại hội đồng cổ đông về việc thay
đổi cổ đông sáng lập; danh sách các cổ đông sáng lập khi đã thay đổi; hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần và các giấy tờ chứng thực việc hoàn tất chuyển nhượng;
bản sao quyết định thành lập, bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực
cá nhân quy định tại Điều 24 Nghị định này của người đại diện theo uỷ quyền và
quyết định uỷ quyền tương ứng đối với cổ đông sáng lập nhận chuyển nhượng là
8


tổ chức hoặc bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng
thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 24 Nghị định này của cổ đông
sáng lập nhận chuyển nhượng là cá nhân. Quyết định, biên bản họp của Đại hội
đồng cổ đông phải ghi rõ những nội dung được sửa đổi trong Điều lệ công ty.
Khi nhận Thông báo, Phòng Đăng ký kinh doanh trao giấy biên nhận và
đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập cho công ty.”
Quy định trên của Luật đã làm rõ những thủ tục về chuyển nhượng cổ
phần của cổ đông sáng lập, khắc phục được tâm lý e ngại của người nhận chuyển
nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập, mối quan hệ giữa công ty và cổ đông
sáng. Một số trường hợp hạn chế chuyển nhượng khác theo tỷ lệ sở hữu, đối
tượng bị cấm được quy định tại khoản 1 Điều 13, Điều 14 Nghị định số
102/2010/NĐ-CP.
Cũng theo Điều 84 quy định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ
ít nhất 20% số cổ phần phổ thông có quyền chào bán là có tính ràng buộc nghĩa
vụ vật chất của các cổ đông sáng lập đối với người mua, tránh tình trạng tuyên

truyền lừa đảo để thu hút người mua. Quy định có thể thỏa thuận để chuyển
nhượng cổ phần cho người không phải cổ đông sáng lập cho thấy sự tôn trọng
thỏa thuận giữa các bên, linh hoạt tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham gia vào
công ty cổ phần.
3, Mua lại vốn góp
Về điều kiện, việc mua lại vốn trong công ty TNHH hai thành viên được
quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật doanh nghiêp: “Thành viên có quyền yêu cầu
công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu thành viên đó bỏ phiếu không tán
thành đối với quyết định của Hội đồng thành viên về các vấn đề sau đây:
a) Sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của thành viên, Hội đồng thành viên;
9


b) Tổ chức lại công ty;
c) Các trường hợp khác quy định tại Điều lệ công ty.”
Quy định về quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp có ý nghĩa khi
các thành viên nhỏ không tán thành ý kiến của Hội đồng thành viên về các vấn
đề thuộc khoản 1 Điều 43 sẽ được bảo đảm quyền lợi cho mình rút vốn trực tiếp
để tránh bị thiệt hại; không bị rơi vào thế bị các thành viên đa số chi phối.
Về hình thức, yêu cầu mua lại phần vốn góp phải bằng văn bản và được
gửi đến công ty trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày thông qua quyết định
vấn đề quy định tại các điểm a, b và c khoản này.(khoản 1 Điều 43 Luật doanh
nghiêp)
Giá mua lại sẽ do hai bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì
theo khoản 1 Điều 43 Luật doanh nghiêp: “…công ty phải mua lại phần vốn góp
của thành viên đó theo giá thị trường hoặc giá được định theo nguyên tắc quy
định tại Điều lệ công ty trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu…). Việc thanh toán chỉ được thực hiện nếu sau khi thanh toán đủ phần
vốn góp được mua lại, công ty vẫn thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài

sản khác.
Khi công ty mua lại phần vốn góp thì vốn điều lệ giảm nên các khả năng
trả nợ, tài chính giảm làm trách nhiệm của mỗi cá nhân tăng lên tuy vẫn nằm
trong giới hạn TNHH. Trong một số trường hợp các thành viên đa số gây khó dễ
trong việc công ty mua lại phần vốn góp của các thành viên nhỏ thì các thành
viên nhỏ lúc này có quyền chuyển nhượng cho nguời ngoài.(khoản 3 Điều 43
Luật doanh nghiêp: “Nếu công ty không mua lại phần vốn góp theo quy định tại
khoản 2 Điều này thì thành viên đó có quyền chuyển nhượng phần vốn góp của
mình cho thành viên khác hoặc người khác không phải là thành viên.”. Quy định
này sẽ rút gọn thủ tục, giúp các thành viên nhỏ có nhu cầu chuyển nhượng đảm
bảo được quyền lợi và không mất nhiều thời gian. Pháp luật hiện tại không ràng
10


buộc nghĩa vụ của công ty hay thành viên công ty mua lại vốn góp của thành
viên khác khi thành viên này có yêu cầu. Như vậy, nếu việc chuyển nhượng vốn
góp theo cách trên mà không ai mua và nếu Điều lệ công ty không có quy định
khác, việc rút lại vốn chỉ có thể thực hiện thông việc giải thể công ty. Vấn đề giải
thể doanh nghiệp được quy định của thể tại Điều 157, 158, 159 Luật doanh
nghiêp.
4. Chuyển nhượng phần vốn góp
Theo Điều 41 Luật doanh nghiêp về quyền của thành viên công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, thành viên được quyền chuyển nhượng
một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp theo quy định của Luật này; có quyền định
đoạt phần vốn góp của mình bằng cách chuyển nhượng, để thừa kế, tặng cho và
cách khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
Việc chuyển nhượng tuân theo quy định tại Điều 44 Luật doanh nghiêp,
theo đó: “1. Phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ
tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện;
2. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các

thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày chào bán.”
Khoản 6 Điều 45 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Trường hợp thành
viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì người nhận thanh toán có quyền sử
dụng phần vốn góp đó theo một trong hai cách sau đây:
a) Trở thành thành viên của công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp
thuận;
b) Chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp đó theo quy định tại Điều
44 của Luật này”

11


Như vậy, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền tự do
chuyển nhượng phần vốn góp của mình mà phải ưu tiên chuyển nhượng cho các
thành viên còn lại. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho các thành viên còn lại
có mục đích đảm bảo tính “đóng” của công ty trách nhiệm hữu hạn. Ngoài ra,
công ty trách nhiệm hữu hạn còn có quan hệ giữa các thành viên thường là quen
biết nhau hay có quan hệ kinh doanh với nhau, cùng giữ bí mật kinh doanh, công
nghệ … cho nên việc tham gia của người ngoài công ty bị hạn chế.
Bên cạnh đó, về phía doanh nghiệp còn phải tuân thủ các quy định tại
khoản 2, điều 42 Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 về đăng ký kinh
doanh đối với việc đăng ký thay đổi thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên, cụ thể:
Trường hợp thay đổi thành viên do chuyển nhượng phần vốn góp, công ty
gửi thông báo đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi công ty đã đăng ký kinh
doanh.
Kèm theo Thông báo phải có hợp đồng chuyển nhượng và các giấy tờ
chứng thực đã hoàn tất việc chuyển nhượng có xác nhận của công ty; bản sao
quyết định thành lập, bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân

quy định tại Điều 24 Nghị định này của người đại diện theo uỷ quyền và quyết
định uỷ quyền tương ứng đối với thành viên mới là tổ chức hoặc bản sao Giấy
chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác
quy định tại Điều 24 Nghị định này của thành viên mới là cá nhân.
Khi nhận Thông báo, Phòng Đăng ký kinh doanh trao giấy biên nhận và
đăng ký thay đổi thành viên cho công ty.
III. Một số nhận xét và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật
về mua lại cổ phần, chuyển nhượng cổ phần và mua lại vốn góp, chuyển
nhượng vốn góp.

12


Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn là hai loại hình doanh
nghiệp được lựa chọn nhiều nhất hiện nay. Về cơ bản hai loại hình doanh nghiệp
này khá giống nhau, từ các chủ thể có quyền thành lập theo Điều 13 Luật doanh
nghiệp, sự tách bạch giữa tài sản cá nhân với tài sản của thành viên công ty,
được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn, đều có bộ máy hoạt động của riêng
mình. Công ty cổ phần có thể coi là dạng lớn hơn của công ty TNHH. Do công
ty TNHH có tính đóng còn công ty cổ phần có tính mở nên khả năng huy động,
chuyển nhượng vốn của công ty cổ phần có tính vượt trội. Công ty cổ phần được
tự do chuyển nhượng trừ một số trường hợp luật quy định cấm; được quyền phát
hành chứng khoán để huy động vốn, còn công ty TNHH không có quyền phát
hành bất kỳ các loại chứng khoán nào.
Công ty TNHH thích hợp với quy mô kinh doanh vừa và nhỏ, số lượng
thành viên công ty không nhiều và các thành viên thường là người quen biết, tin
cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp. Chế độ
chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát
được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công
ty.

Đối với công ty cổ phần có thể xem là loại hình công ty đại chúng với quy
mô hoạt động lớn. Cơ cấu vốn hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng
góp vốn vào công ty; khả năng huy động vốn cao thông qua việc phát hành cổ
phiếu; việc chuyển nhượng vốn cũng là tương đối dễ dàng, các cổ đông có thể
duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một
cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt, có thể điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này
sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác một cách nhanh chóng, các
cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần. Với sự phát
triển nhanh chóng, trong một thời gian ngắn công ty TNHH và công ty cổ phần
đã phát huy được tác dụng tích cực đối với việc huy động vốn, giải quyết việc
13


làm, kích thích tính năng động sáng tạo, sự đầu tư, khai thác nguồn vốn của
người dân, tăng sự cạnh tranh giữa các công ty dẫn đến việc phát triển khoa học
công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tuy đã quy định khá đầy đủ nhưng một số điều luật vẫn chưa rõ ràng dẫn
đến những nhầm lẫn hay bất cập trong Luật Doanh nghiệp. Với công ty cổ phần,
theo khoản 5 Điều 84 quy định: “Trong thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng
chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là
cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông”.
Quy định này không rõ ràng, có thể dẫn đến các cách hiểu sai lệch. Quy
định này chỉ liên quan đến số cổ phần phổ thông tối thiểu là 20% tổng số cổ phần
phổ thông được quyền chào bán (Điều 84 Luật doanh nghiệp) mà các cổ đông
sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua khi đăng ký kinh doanh. Số cổ phần này
không được tự do chuyển nhượng trong thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Còn cổ phần phổ thông khác của cổ
đông sáng lập được tự do chuyển nhượng như đối với các cổ đông khác. Do vậy

cần có hướng dẫn cụ thể để tránh nhiều cách giải thích sai lệch.
IV. Kết luận.
Tìm hiểu những quy định pháp luật về mua lại, chuyển nhượng có ý nghĩa
quan trọng một mặt giúp các nhà đầu tư có thêm sự hiểu biết về cách thức hoạt
động, quản lý nguồn vốn, mặt khác tăng cường, mở rộng quan hệ giao lưu
thương mại, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.

14


IV. Tài liệu tham khảo

1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 1), Nxb. CAND,
Hà Nội, 2006.
2, Luật doanh nghiệp năm 2005.
3, Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh
nghiệp.
4, Nghị định 102/2010/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Doanh nghiệp.
5, />
15



×