Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.69 KB, 17 trang )

`

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
……………******……………

BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
MÔN : LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Đề bài 2:
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Một số vấn đề lí
luận và thực tiễn

Hà Nội 2011

1


MỤC LỤC
A/ MỞ BÀI

2

B/ THÂN BÀI

I/ Một số vấn đề lí luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

3
3

1. Những khái niệm liên quan


2. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật nuôi con nuôi có 3
yếu tố nước ngoài. Các điều ước quốc tế Việt Nam kí kết, tham gia về
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
3. Điều chỉnh pháp lý về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp 4
luật Việt Nam
II/ Một số vấn đề thực tiễn về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1. Thực trạng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
2. Những bất cập trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam
3. Giải pháp để khắc phục những bất cập trong việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
C/ KẾT BÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Viết tắt: Luật NCN 2010 – Luật nuôi con nuôi năm 2010
Luật HNGĐ 2000 – Luật hôn nhân và gia đình năm 2000

A/ MỞ BÀI
2


Trẻ em là những người chủ nhân tương lai của đất nước. Vì thế việc nuôi
dưỡng, chăm sóc thế hệ trẻ không chỉ là nhiệm vụ của một cá nhân, một gia đình
mà của toàn xã hội. Vậy mà theo số liệu của Bộ Lao động thương binh và xã hội
hiện nay cả nước có khoảng 2,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, chiếm gần 3%
dân số. Bên cạnh những hình thức chăm sóc khác nhau, giải pháp tốt nhật cho
những trẻ em này là được nhận làm con nuôi. Việc nuôi con nuôi đảm bảo cho trẻ
em quyền được sống ổn định trong gia đình với tình cảm của cha mẹ đối với con,
đồng thời là cách thức thể hiện quyền làm cha mẹ của người nhận nuôi. Việc nuôi
con nuôi thể hiện những tình cảm, đạo lý tốt đẹp của con người nên được Nhà

nước khuyến khích thực hiện và ngày càng phát triển. Với xu hướng hội nhập hiện
nay, khi Việt Nam gia nhập Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (năm 1993), việc cho nhận con nuôi sẽ càng phát
triển về quy mô và số lượng. Điều này đòi hỏi pháp luật về nuôi con nuôi của Việt
Nam phải được hoàn thiện nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu của thực tiễn và
bảo vệ có hiệu quả quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài. Trước tình hình đó ngày 16 tháng 7 năm 2010 Quốc hội
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Luật nuôi con nuôi trong đó có một
loạt các quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Với bài tiểu luận này tôi
xin đi sâu nghiên cứu phân tích lí luận và thực tiễn của vấn đề trên.

B/ THÂN BÀI
I/ Một số vấn đề lí luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
3


1.Những khái niệm liên quan
Theo Luật nuôi con nuôi năm 2010:
- Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đăng kí
- Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi
và người được nhận làm con nuôi.
- Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt
Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.
- Trẻ em mồ côi là trẻ em mà cả cha mẹ đẻ đã chết hoặc một trong hai người đã
chết và người kia không thể xác định được
- Trẻ em bị bỏ rơi là trẻ em không thể xác định được cha mẹ đẻ
- Gia đình gốc là gia đình của người có quan hệ huyết thống
- Gia đình thay thế là gia đình nhận trẻ em làm con nuôi

- Cơ sở nuôi dưỡng là cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em, cơ sở khác được
thành lập theo pháp luật Việt Nam để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
2. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài. Các điều ước quốc tế Việt Nam kí kết, tham gia về nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài
Nuôi con nuôi là hiện tượng đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Trong Bộ
luật hamurabi, một trong những bộ luật thành văn cổ xưa nhất đã chứa đựng những
quy định về nuôi con nuôi, đặc biệt là đối với trẻ em bị bỏ rơi. Nhưng nó chỉ thực
sự được quan tâm của cộng đồng quốc tế trong vòng hơn nửa thế kỉ qua
Là nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, trẻ em Việt Nam là những
người chịu thiệt thòi nhiều nhất do mất mát cha mẹ, người thân trong gia đình và
phải chịu cảnh thiếu thốn về điều kiện ăn ở, học hành,...Vì vậy mà vấn đề trẻ em
Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài đã được quan tâm ngay từ khi chiến
4


tranh mới kết thúc. Một trong những biểu hiện của sự quan tâm đó là việc tham gia
các điều ước quốc tế về nhân quyền nói chung và về quyền trẻ em nói riêng:
- Năm 1980 kí Hiệp định tương trợ tư pháp với nhiều nước: Pháp, Tiệp Khắc, Liên
Xô,...
- Ngày 20/2/1990, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước về
quyền trẻ em của Đại hội đồng Liên hợp quốc và là nước thực hiện với cố gắng
cao nhất các cam kết phát sinh từ công ước. Ngoài ra trong khuôn khổ Liên hợp
quốc Việt Nam còn tham gia hàng loạt các công ước khác có liên quan đến vấn đề
nuôi con nuôi như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị năm 1966,
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa năm 1966,...
- Gia nhập Công ước La Hay ngày 29/5/1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước.
- Đến năm 2005 Việt Nam đã kí 12 hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với: Cộng
hòa Pháp (ngày 1/2/2000), Vương quốc Đan Mạch (26/5/2003), Vương quốc Thụy

Điển (4/2/2004), ba cộng đồng ngôn ngữ thuộc Vương quốc Bỉ (17/3/2005), Hoa
Kỳ (2/6/2005), Canada (27/6/2005), Quebec (Canada) (15/9/2005), Liên bang
Thụy Sỹ (20/12/2005)
3. Điều chỉnh pháp lý về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật
Việt Nam
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một vấn đề mới được điều chỉnh
trong các văn bản luật của nước ta (từ Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 -được
quy định trong chương VIII). Nhưng gần đây nhất, văn bản Luật nuôi con nuôi đã
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17
tháng 6 năm 2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đã bãi bỏ
Chương VIII, Điều 105 và sửa đổi, bổ sung điều 109 của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000. Luật gồm 5 chương với 50 điều trong đó chương III đã quy định

5


một cách cụ thể, chặt chẽ về việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong khi
luật hôn nhân và gia đình chỉ có duy nhất điều 105 điều chỉnh cụ thể vấn đề này.
a. Nguyên tắc giải quyết
Theo điều 4 Luật NCN 2010 “Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi:
1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống môi
trường gia đình gốc.
2. Việc nuôi con nuôi phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận
làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam
nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
3. Chỉ cho làm con nuôi người nước ngoài khi không tìm đước gia đình thay thế ở
trong nước.”
Như vậy có thể thấy Luật NCN 2010 đã có một bước phát triển vượt bậc
hơn so với Luật HNGĐ 2000. Nếu theo Luật HNGĐ 2000 thì nguyên tắc giải
quyết chỉ đảm bảo quyền lợi cho người được nhận làm con nuôi mà không đề cập

tới vấn đề đảm bảo quyền lợi cho người nhận con nuôi. Mối quan hệ giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi là một mối quan hệ phát sinh do nhu cầu của chính bản thân con
người, nó không có mối quan hệ ràng buộc về huyết thống như giữa cha mẹ đẻ và
con đẻ. Chính vì thế, việc đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên mới là bình đẳng và
phù hợp.
Thứ hai, trẻ em Việt Nam chỉ được người nước ngoài nhận nuôi khi không
tìm được người nhận nuôi tại Việt Nam. Tức là quyền ưu tiên nhận con nuôi sẽ
dành cho người trong nước. Quy định này không nhằm mục đích phân biệt đối xử
giữa người nước ngoài và người Việt Nam mà thiết nghĩ, nó chỉ vì mục đích duy
nhất là đảm bảo quyền lợi của người được nhận nuôi: được sống tại đất nước của
mình, dùng ngôn ngữ của mình và có thể giữ được mối quan hệ với những người
thân. Chính vì thế mà trong thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế cho người
được nhận làm con nuôi tại điều 5 thì: người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
6


công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở nước
ngoài đều lần lượt ở sau:1. Cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người
được nhận làm con nuôi; 2. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước.
b. Điều kiện nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
*Thứ nhất về điều kiện của người được nhận làm con nuôi thì theo điều 8
Luật NCN 2010:
1. Trẻ em dưới 16 tuổi
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a. Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi
b. Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi
3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của hai người là
vợ chồng.
4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có

hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi
Khác với Luật HNGĐ 2000, độ tuổi của người được nhận làm con nuôi đã
thay đổi từ dưới 15 tuổi thành dưới 16 tuổi; hơn thế nhà nước cũng không giới hạn
về độ tuổi đối với những trường hợp thuộc khoản 4 điều 8; mở rộng hơn về trường
hợp người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi nếu đáp ứng được các điều kiện ở khoản
2.Việc nuôi con nuôi đối tượng hướng tới trước tiên là trẻ em nên pháp luật đã quy
định độ tuổi tối đa của người được nhận làm con nuôi. Những người ở độ tuổi này
thường chưa trưởng thành đầy đủ về thể chất và tinh thần, đang trong quá trình
định hình về nhân cách rất cần có sự quan tâm, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
của người lớn. Đồng thời quy định về độ tuổi là phù hợp với các quy định của
nhiều ngành luật khác như: luật dân sự, luật lao động,...
* Thứ hai là về điều kiện của người nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài được quy định tại điều 29 của Luật NCN 2010:
7


1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước
ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định
của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại điều 14 tại luật này.
2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều
kiện theo quy định tại điều 14 của luật này và pháp luật của nước nơi người được
nhận làm con nuôi thường trú.
Điều 14 luật NCN 2010 quy định điều kiện đối với người nhận con nuôi như
sau:
1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b. Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
c. Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con nuôi;
d. Có tư cách đạo đức tốt.

2. Những người sau đây không được nhận con nuôi:
a. Đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên;
b. Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh;
c. Đang chấp hành hình phạt tù;
d. Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp
người chưa thành niên vi phạm pháp luật, mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Những quy định trên đều được xây dựng dựa trên những căn cứ nhất định.
Ví dụ như việc yêu cầu “người nhận con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự” vì
chỉ khi đó họ mới thể hiện được ý chí tự nguyện, khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con nuôi của bản thân mình. Hay với quy định người nhận con nuôi phải
8


có tư cách đạo đức tốt vì tư cách đạo đức của cha mẹ nuôi có ảnh hưởng trực tiếp
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Đặc biệt khi trẻ còn nhỏ
chưa có khả năng nhận thức độc lập, toàn diện, đúng đắn.
c. Trình tự , thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo Luật NCN 2010 thì một loạt thủ tục liên quan đến việc nhận nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định từ điều 31 đến điều 38. Trong đó: điều
31 quy định về các giấy tờ mà người nhận con nuôi cần chuẩn bị trước khi nộp hồ
sơ; điều 32 nói về “hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài”
trong đó phải có “văn bản về đặc điểm sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em”;
điều 33 quy định trách nhiệm kiểm tra xác minh hồ sơ và xác nhận trẻ em có đủ
điều kiện được cho làm con nuôi; điều 34 “trách nhiệm kiểm tra hồ sơ của người
nhận con nuôi” tức là Bộ Tư pháp phải kiểm tra và xử lý hồ sơ của người nhận con
nuôi trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ. Nếu “trường hợp người nhận
con nuôi đích danh là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; là cô,

cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; có con nuôi là anh, chị,
em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi; nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm
HIV/AISD hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; là người nước ngoài
đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất một năm thì Bộ Tư pháp
phải chuyển hồ sơ về cho Sở Tư pháp nơi người được giới thiệu làm con nuôi
thường trú để cùng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định”. Dựa trên
những đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em; khả năng hòa nhập phát
triển của trẻ em; điều kiện kinh tế, môi trường gia đình, xã hội và nguyện vọng của
người nhận con nuôi Sở tư pháp sẽ xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước
ngoài theo trình tự tại điều 36:
“1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của người nhận con nuôi,
Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi trên cơ sở bảo đảm các căn cứ
9


quy định tại Điều 35 của Luật này và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, nếu Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh đồng ý thì thông báo cho Sở Tư pháp để làm thủ tục chuyển hồ
sơ cho Bộ Tư pháp; trường hợp không đồng ý thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý
do.
Trước khi Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài,
nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì người đó liên hệ với Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu việc nhận con
nuôi đã hoàn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Sở Tư pháp để chấm dứt
việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài.
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả giới thiệu trẻ em
làm con nuôi, Bộ Tư pháp kiểm tra việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, nếu hợp lệ
thì lập bản đánh giá việc trẻ em Việt Nam đủ điều kiện được làm con nuôi nước
ngoài và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi
thường trú.

3. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm
quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú thông báo về sự đồng ý của
người nhận con nuôi đối với trẻ em được giới thiệu, xác nhận trẻ em sẽ được nhập
cảnh và thường trú tại nước mà trẻ em được nhận làm con nuôi, Bộ Tư pháp thông
báo cho Sở Tư pháp.
Người nhận con nuôi không được có bất kỳ sự tiếp xúc nào với cha mẹ, người
giám hộ hoặc cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trước khi nhận được thông báo giới thiệu
trẻ em làm con nuôi, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật này.

10


4. Trường hợp người nhận con nuôi từ chối nhận trẻ em được giới thiệu làm con
nuôi mà không có lý do chính đáng thì việc giải quyết hồ sơ xin nhận con nuôi của
người đó chấm dứt.”
Sau khi hoàn tất các thủ tục trên Bộ tư pháp sẽ cấp giấy chứng nhận việc
nuôi con nuôi và “cứ sáu tháng một lần trong thời hạn 3 năm kể từ ngày giao nhận
con nuôi, cha mẹ nuôi phải có trách nhiệm thông báo cho Bộ Tư pháp và cơ quan
đại diện của Việt Nam ở nước nơi con nuôi thường trú về tình trạng sức khỏe, thể
chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng
đồng”(điều 39).
d. Chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lý vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam
Cơ quan quản lý vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
hiện nay là phòng con nuôi có yếu tố nước ngoài thuộc Cục con nuôi trực thuộc
Bộ Tư pháp được thành lập trên cơ sở cục con nuôi quốc tế theo Quyết định số
2278/QĐ-BTP ngày 04 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Cũng theo
quyết định này Cục con nuôi có những chức năng, quyền hạn liên quan trực tiếp
tới vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:
1. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng, trình Bộ trưởng chủ

trương, chính sách trung hạn, dài hạn về lĩnh vực nuôi con nuôi trong nước và
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển dài hạn, 5 năm và hàng năm của ngành Tư pháp;
2. Về công tác nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
a) Tiếp nhận, kiểm tra và xử lý hồ sơ của người nước ngoài, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi; kiểm tra hồ sơ của
trẻ em Việt Nam được giới thiệu làm con nuôi ở nước ngoài;

11


b) Giải quyết các thủ tục cho công dân Việt Nam xin nhận trẻ em nước ngoài
làm con nuôi;
c) Theo dõi tình hình phát triển và kiểm tra việc thực hiện quyền, lợi ích của
trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài;
d) Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ xin phép lập Văn phòng con nuôi nước ngoài tại
Việt Nam; trình Bộ trưởng cấp, gia hạn, thay đổi nội dung, chấm dứt, thu hồi Giấy
phép lập Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam; thực hiện quản lý các Văn
phòng Con nuôi nước ngoài tại Việt Nam theo quy định.
3. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi quốc
tế của Việt Nam theo các điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam
với các nước;
Ngoài ra theo quy định tại Chương IV của Luật NCN 2010, Bộ Tư pháp còn
có trách nhiệm “cấp, gia hạn, sửa đổi, thu hồi giấy phép hoạt động của các tổ
chức nuôi con nuôi nước ngoài tại Việt Nam”
Một số cơ quan khác như: Bộ Lao động, Thương binh và xã hội; Bộ công
an; Bộ ngoại giao; Ủy ban nhân dân các cấp cũng có trách nhiệm hỗ trợ cùng Bộ
Tư pháp trong việc quản lý vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
Bộ Ngoại giao “chỉ đạo Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện
các biện pháp cần thiết để bảo vệ trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi ở nước

ngoài”. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh “quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài theo quy định của Luật này”. Ủy ban nhân dân cấp xã “ghi chú việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài”
Như vậy với Luật NCN 2010 cùng một số văn bản khác chức năng quyền
hạn của các tổ chức trong việc quản lý việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam đã được phân chia cụ thể và rạch ròi, hạn chế được tối đa sự chồng chéo
về quyền lực giữa các ban ngành. Nhờ đó mà các vấn đề liên quan đã được giải
12


quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn, khắc phục được một loạt hạn chế
tồn đọng bấy lâu nay.
II/ Một số vấn đề thực tiễn về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1. Thực trạng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
Bảng 1.Số trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài giai đoạn 1990-2003
Năm
Số trẻ em VN làm con

1990

1995

1998

2000

2001

2003


60
1584
1860
1229
1127
807
nuôi người nước ngoài
- Trước năm 1993 công tác quản lý người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm
con nuôi do Bộ lao động thương binh xã hội thực hiện trên cơ sở quyết định tạm
thời số 145-HĐBT ngày 2/4/1992 nên số lượng trẻ em Việt Nam làm con nuôi
người nước ngoài không nhiều. Từ khi có Nghị định 184/1994/NĐ-CP ngày
30/11/1994 của Chính phủ công tác quản lý việc người nước ngoài nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi chính thức được giao cho Bộ Tư pháp thì số lượng trẻ em
Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài tăng lên nhanh. Tuy nhiên trong thời
gian từ năm 2000 trở lại đây thì số lượng trẻ em làm con nuôi người nước ngoài lại
có xu hướng giảm từ 1229 trẻ em năm 2000 xuống chỉ còn 654 trẻ em năm 2010,
giảm 575 trẻ em.
Bảng 2.Số trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở các nước giai đoạn 1998 – 2003
Năm
1998
1999
2000
2001
2003
Bỉ
5
15
155
150
111

Pháp
1343
731
5
44
235
Đan Mạch
58
50
46
65
19
Tây Ban Nha
9
5
Thụy Điển
182
171
127
51
17
Thụy Sỹ
24
19
30
33
9
- Trẻ em Việt Nam làm con nuôi của rất nhiều nước trên thế giới trong đó có thể
thấy do ảnh hưởng của lịch sử nên các nước có người nhận trẻ em Việt nam làm
con nuôi chủ yếu ở Châu Âu. Càng ngày thì càng có nhiều nước nhận trẻ em Việt

Nam làm con nuôi. Ví dụ như tới năm 2001 ở Tây Ban Nha mới bắt đầu có người
13


nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Điều đó chứng tỏ sự mở rộng quan hệ ngoại
giao của nước ta cũng như cho thấy suy nghĩ của người dân Việt Nam cũng đã
“thoáng” hơn trong vấn đề này.
Bảng 3.Các tỉnh, thành phố cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài nhiều nhất
giai đoạn 1994 – 2007
Tỉnh/thành phố

Tp.Hồ

Chí Minh
Số trẻ em làm con nuôi 3484



Hòa



Rịa- Đà

Nội
538

Bình
425


Vũng Tàu
368

Nẵng
337

Thái
Nguyên
624

người nước ngoài
- Số trẻ em làm con nuôi người nước ngoài có sự chênh lệch nhau khá lớn, tập
trung chủ yếu ở các thành phố lớn như: Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nó cho thấy
tâm lý của những người dân ở các đô thị “thoải mái” hơn trong vấn đề này. Đồng
thời cũng cho thấy công tác hoạt động của các tổ chức nuôi con nuôi ở các đổ thị
hoạt động tốt hơn do có điều kiện kinh tế - xã hội cũng như cơ sở hạ tầng tốt hơn.
Nhìn chung việc thi hành pháp luật trong việc giải quyết cho trẻ em Việt
Nam làm con nuôi người nước ngoài trong thời gian qua đã được các cấp, các
ngành, các cơ quan trung ương và địa phương nhận thức đúng đắn coi là biện pháp
tích cực, nhân đạo đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em. Tuyệt đại đa số trẻ em
Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài đều có cuộc sống ổn định, được nuôi dưỡng,
chăm sóc tốt có điều kiện để phát triển. Định kì 6 tháng và hàng năm cha mẹ nuôi
thường gửi báo cáo (kèm theo ảnh) về tình hình phát triển của trẻ em. Cho đến nay,
Bộ Tư pháp chưa nhận được thông tin nào về việc trẻ em Việt Nam được nhận làm
con nuôi ở nước ngoài bị sử dụng vào các mục đích trái nhân đạo của việc nuôi
con nuôi.
2. Những bất cập trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
Thứ nhất, vì không có quy định hạn chế nên bất cứ người nước ngoài nào
cũng có thể đến Việt Nam xin trẻ em làm con nuôi. Mặt khác, trẻ em làm con nuôi


14


được cho chủ yếu từ ba nguồn là gia đình, cơ sở nuôi dưỡng và cơ sở y tế nên thực
tế đã phát sinh những đường dây môi giới, trung gian, cò mồi trong lĩnh vực này,
gây phức tạp cho công tác quản lý, kể cả ở trung ương và địa phương.
Thứ hai, vì không được phép hoạt động công khai nên nhiều tổ chức con
nuôi nước ngoài đã vào Việt Nam hoạt động (theo giấy phép của FACOM) dưới
các hình thức khác nhau liên quan đến lĩnh vực nuôi con nuôi, càng gây khó khăn
cho công tác quản lý.
Thứ ba, công tác báo cáo của các Sở Tư pháp cho Bộ Tư pháp không được
thực hiện nghiêm túc, gây khó khăn cho thống kê, cũng như hoạch định chính sách
của Bộ trong lĩnh vực này.
Thứ tư, công tác kiểm tra, đánh giá của Bộ Tư pháp cũng chưa được tiến
hành thường xuyên và triển khai trên diện rộng nên việc phát triển, uốn nắn, xử lý
những sai phạm của địa phương trong lĩnh vực này còn hạn chế.
3. Giải pháp để khắc phục những bất cập trong việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam
Thứ nhất, Nhà nước cần tăng thêm thẩm quyền cho Cục con nuôi quốc tế để
cơ quan này có đủ thẩm quyền cần thiết để thực hiện một cách có hiệu quả chức
năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tổ nước ngoài.
Thứ hai, cần có những quy định cụ thể về sự đồng ý của người mẹ trong việc
cho đứa trẻ làm con nuôi, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà chức trách Việt Nam
trong quá trình thực hiện thủ tục nuôi con nuôi giữa các nước.
Thứ ba, cần phải có những quy định rõ ràng về thời gian thử thách cho việc
nuôi con nuôi để trong những trường hợp cần thiết phải áp dụng biện pháp cho trẻ
hồi hương.
Thứ tư, phải có quy định cụ thể hơn điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa
cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi với con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được tạo lập cho
phù hợp với quy định của Công ước.

15


Thứ năm, pháp luật đã cho phép tổ chức nuôi con nuôi hoạt động ở Việt
Nam nhưng quy chế hoạt động chưa được xác định rõ nét. Vì vậy, nhà nước cần đề
ra quy chế hoạt động chung cho các tổ chức này để thống nhất quản lý và hướng
các tổ chức này hoạt động theo đúng pháp luật.
Và thứ sáu,cần phải xem xét và phải có những quy định cụ thể cho việc
thành lập tổ chức nuôi con nuôi trong nước để giúp cơ quan trung ương về nuôi
con nuôi quốc tế thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ của công ước.

C/ KẾT BÀI
Nhận nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi là quyền tự do của cá nhân,
nhằm đáp ứng những nhu cầu tự nhiên thiết yếu của con người. Việc nuôi con nuôi
thể hiện bản chất nhân ái của con người, những giá trị nhân văn mà con người
muốn hướng tới để đạt được. Việc nuôi con nuôi chịu sự chi phối của các điều kiện
kinh tế, xã hội, biểu hiện qua hệ tư tưởng, lợi ích giai cấp, tôn giáo, phong tục tập
quán, đạo đức. Ảnh hưởng của những điều kiện đó tới việc nuôi con nuôi trong
mỗi thời kì lịch sử có đặc điểm riêng. Song việc nuôi con nuôi luôn biểu hiện sự
kết hợp lợi ích của các bên đồng thời ảnh hưởng tới lợi ích chung của nhà nước và
xã hội. Chính vì vậy mà Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã có một loạt các quy định
mới nhằm điều chỉnh tốt hơn quan hệ này đặc biệt là quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài. Hi vọng với bài viết trên đã phần nào giúp chúng ta có được một cái
nhìn toàn diện hơn trong vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
– Nxb. Công an nhân dân Hà Nội

16



2. Trung tâm đào tạo từ xa, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam –
Nxb. Công an nhân dân Hà Nội
3. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
4. Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số SL/97
ngày 22 tháng 5 năm 1959
5. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Luật HNGĐ 2000
6. Nghị quyết của Quốc hội số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 về việc thi
hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
7. Nghị định của Chính phủ số 70/2001/NĐ – CP ngày 03/10/2001 quy định
chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
8. Chính trị quốc gia – Luật hôn nhân và gia đình 175 câu hỏi
9. Nguyễn Văn Cừ, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học luật Hà Nội, Sự
phát triển của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và những vấn đề cần sửa
đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
10.Website:

17



×