Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Thực tiễn áp dụng quy định chia tài sản của vợ chồng và một số kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.07 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Trang
A.LỜI MỞ ĐẦU
B.NỘI DUNG
I.Khái niệm chung về chế độ tài sản chung của vợ chồng
II.Các trường hợp chia tài sản giữa vợ và chồng
1.Căn cứ chia tài sản của vợ chồng
1.1.Điều kiện để chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân
1.2.Điều kiện chia tài sản khi ly hôn
1.3.Điều kiện để chia tài sản khi một bên chết

2
2
2
3
4
4
4
5

2. Nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng
2.1. Trong thời kỳ hôn nhân
2.2. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn
2.3. Khi một bên chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản
3.1. Trong thời kỳ hôn nhân
3.2. Trường hợp vợ chồng ly hôn
3.3. Khi một bên chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
III. Thực tiễn áp dụng quy định chia tài sản của vợ chồng và một

5


5
5
6
6
6
7
9
9

số kiến nghị
C. KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo

11
12

A.LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và phát triển lành mạnh của gia
đình sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Trong quan hệ vợ
chồng, bên cạnh đời sống tình cảm, tình yêu thương lẫn nhau không thể không
quan tâm tới đời sống vật chất. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng là một vấn đề hết
sức quan trọng. Xuất phát từ bản chất của quan hệ hôn nhân và gia đình là các
yếu tố nhân thân và tài sản gắn liền với các chủ thể nhất định, không thể tách rời
và không có tính đền bù ngang giá. Chính sự ràng buộc này làm nảy sinh các
1


quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau mà chia tài sản của vợ chồng là một
vấn đề không thể thiếu trong pháp luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, để tìm hiểu
rõ hơn về vấn đề này,trong bài tiểu luận dưới đây em xin đi vào phân tích “ Các

trường hợp chia tài sản của vợ chồng – những nét tương đồng và khác biệt”.
B.NỘI DUNG
I.Khái niệm chung về chế độ tài sản của vợ chồng.
1.Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm các quy định về vấn đề sở hữu tài sản
của vợ chồng; căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên
tắc chia tài sản chung của vợ chồng... được quy định cụ thể trong Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 ( điều 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33 ).
2.Nội dung xác định chế độ tài sản của vợ chồng.
2.1. Căn cứ xác định tài sản của vợ chồng .
Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ chồng được quy định cụ thể trong khoản
1, Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết
hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1
Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
Còn tài sản chung của vợ chồng thì được quy định tại khoản 1, Điều 27 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000:
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài
sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn,
được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2


2.2.Nội dung quyền sở hữu.
Tài sản riêng của bên nào thì thuộc sở hữu của bên đó,tài sản chung được
quy định tại Điều 223 Bộ luật Dân sự quy định về sở hữu chung của vợ chồng:
Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất; vợ chồng cùng tạo lập,
phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vợ chồng cùng
bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung.
II.Các trường hợp chia tài sản giữa vợ chồng – những nét tương đồng và
khác biệt.
Có 3 trường chia tài sản giữa vợ chồng: chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân,
chia tài sản khi ly hôn và chia tài sản khi một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố
là đã chết.
* Giống nhau:
Để thực hiện chia tài đều dựa vào ý chí của các bên và do các bên vợ hoặc
chồng thực hiện. Vì quan hệ hôn nhân là quan hệ gắn liền với chủ thể không thể
chuyển giao cho người khác.
* Khác nhau: Dưới đây em đi phân tích cụ thể các nội dung để làm rõ điểm
khác biệt giữa các trường hợp chia tài sản của vợ chồng.
1.Căn cứ chia tài sản của vợ chồng.
1.1. Trong thời kỳ hôn nhân.
Vấn đề chia tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân được quy định tại Điều
29 trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
Điều 29. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có

thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn
bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
về tài sản không được pháp luật công nhận.
Theo định trên thì chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được
tiến hành trong các trường hợp sau:
- Trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng: xuất phát từ việc tôn
trọng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng đầu tư
3


kinh doanh thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ
chồng có tài sản riêng làm vốn kinh doanh.
- Trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng: Nếu vợ, chồng
phải thực hiện nghĩa vụ dân sự mà họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng
không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì vợ, chồng có thể chia tài sản chung để giúp
người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Trường hợp có lý do chính đáng khác: Việc xác định có lý do chính đáng
khác để chia tài sản chung của vợ, chồng khi hôn nhân tồn tại là xuất phát từ lợi
ích của gia đình, lợi ích của vợ chồng hoặc của người thứ ba. Vì vậy, lý do chính
đáng khác để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại tùy từng
trường hợp có khác nhau.
1.2. Căn cứ chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Để chia tài sản khi ly hôn thì phải có sự kiện ly hôn giữa vợ và chồng, đó là
khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn ( ly hôn do một bên yêu cầu ), hoặc cả hai vợ
chồng đều có yêu cầu ly hôn ( thuận tình ly hôn ).
Điều 89. Căn cứ cho ly hôn
1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án
quyết định cho ly hôn.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin
ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Vậy căn cứ để chia tài sản khi ly hôn không phải vì mục đích đầu tư kinh
doanh, thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc có lý do chính đáng khác, mà là khi quan
hệ hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể tiếp diễn như quy định
trên.
1.3. Điều kiện để chia tài sản khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án
tuyên bố là đã chết.
Trong cả hai trường hợp trên việc chia tài sản diễn ra do ý chí của cả hai bên vợ
chồng, khi cả hai đều còn sống, còn trong trường hợp này việc chia tài sản diễn
ra khi một bên vợ hoặc chồng chết.
2.Nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng.
2.1. Nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000,
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có thể chia toàn bộ hoặc chia một

4


phần tài sản chung, tùy theo sự thỏa thuận của vợ chồng. Nếu vợ chồng không
thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2.2. Nguyên tắc chia tài sản khi vợ chồng ly hôn.
Việc chia tài sản của vợ chồng dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng. Nếu
vợ chồng thỏa thuận được thì Tòa án công nhận bằng văn bản. Trường hợp nếu
vợ chồng không tự thỏa thuận được thì căn cứ Điều 95 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000: Trong trường hợp vợ chồng khi ly hôn thì việc chia tài sản khi
ly hôn theo các nguyên tắc sau:
1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thỏa thuận
được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền
sở hữu của bên đó.

2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét
hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào
việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia
đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành
niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên
nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng
thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa
thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn phải theo đúng nguyên tắc được quy
định tại Điều 95. Ngoài ra, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà áp dụng các quy
định tại Điều 96, 97, 98 Luật Hôn nhân và gia đình.
2.3. Nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng khi một bên chết hoặc bị Tòa án
tuyên bố là đã chết.
Theo quy định tại Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 676 Bộ luật
Dân sự năm 2005 quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ, chồng khi một bên
chết được quy định như sau:
Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống
quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định
người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác
quản lý di sản. ( khoản 2, điều 31 ).
Như vậy, khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, người còn sống sẽ được thừa kế
tài sản của vợ chồng mình đã chết. Vợ, chồng thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo
5



luật cùng với cha, mẹ và các con của người chết. Trong trường hợp cần chia di
sản của vợ chồng đã chết theo yêu cầu của những người thừa kế thì tài sản
chung của vợ chồng sẽ được chia đôi; phần tài sản của người vợ, chồng đã chết
được chia cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3.Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản.
3.1. Trong thời kỳ hôn nhân.
3.1.1. Hậu quả pháp lý về nhân thân.
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ
vợ chồng trước pháp luật, do đó giữa vợ chồng vẫn tồn tại nghĩa vụ vợ chồng
như nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, nghĩa vụ chung thủy,… Vì vậy, việc
chia tài sản này không có nghĩa là quy định về ly thân. Đa số trường hợp sau khi
chia tài sản chung vợ chồng vẫn chung sống bình thường. Do đó, quan hệ hôn
nhân vẫn tồn tại, khối tài sản phát sinh sau khi đã chia về nguyên tắc vẫn là sở
hữu chung hợp nhất. Đây cũng là điển khác biệt cơ bản so với các trường hợp
chia tài sản khác.
3.1.2. Hậu quả pháp lý về tài sản.
a, Quyền sở hữu riêng của vợ chồng đối với phần tài sản được chia.
Theo quy định tại Điều 29, 30 Luật Hôn nhân và gia đình thì vợ, chồng có
quyền sở hữu riêng đối với tài sản đã được chia. Khoản 1, Điều 8, Nghị định số
70/ ND-CP cũng quy định: “Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia
thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận
khác”.
b,Quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với phần tài sản chung.
Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “… phần tài sản còn lại không
chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”, Điều 8 Nghị định 70/ ND-CP quy
định rõ thêm: “Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở
hữu chung của vợ chồng”. Đối với phần tài sản chung này, quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng không tuyệt đối. Chế độ sở hữu chung của vợ chồng chưa chấm

dứt, nó vẫn đương nhiên tồn tại và là sở hữu chung hợp nhất. Sở hữu chung hợp
nhất của vợ chồng sau khi chia một phần tài sản chung sẽ gồm:
- Phần tài sản chung của vợ chồng chưa chia
- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ những tài sản này

6


- Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung sau khi
chia tài sản chung. Vì quan hệ Hôn nhân vẫn đang tồn tại nên tài sản
mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung là tài sản thuộc
sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung.
- Quyền sử dung đất mà mỗi bên vợ hoặc chồng có được sau khi chia tài
sản chung do được nhà nước giao, giao khoán, hoặc được thuê của nhà
nước… Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình và các
Điều 24, 25 Nghị định số 70/ND-CP thì đây là tài sản chung của vợ
chồng. Tuy nhiên, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì
quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ chồng có được chỉ là tài sản chung
của vợ chồng nếu nó không liên quan đến ly do chia tài sản chung của
vợ chồng.
- Vấn đề tài sản mà vợ chồng làm ra sau khi chia tài sản chung được quy
định tại khoản 2, Điều5 Nghị định 70/ND-CP: “Thu nhập lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ chồng, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”. Theo em quy định này là
chưa hợp lý, mâu thuẫn với quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia
đình 2000.
Việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt ra khi vợ chồng đã chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc khôi phục chế độ tài sản chung phải

theo thuận bằng văn bản của vợ chồng.
3.2. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản khi ly hôn.
3.2.1. Hậu quả pháp lý về nhân thân.
Theo nguyên tắc chung, kể từ khi bản án ly hôn hoặc quyết định công nhận
thuận tình ly hôn của Tòa án có hiệu, quan hệ hôn nhân chấm dứt về mặt pháp
lý, các đương sự không còn phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa
vợ và chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
3.2.2. Hậu quả pháp lý về tài sản.
a, Quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ chồng.
Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc sở hữu của bên đó. Sau khi ly hôn
vợ , chồng có tài sản riêng thì có quyền lấy về, tuy nhiên phải chứng minh được
đó là tài sản riêng của mình, nếu không chứng minh được thì tài sản đó là tài sản
7


chung. Trong trường hợp vợ chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản
chung mà tài sản đó đã chi dùng cho gia đình không còn nữa thì không được đòi
lại hoặc đền bù. Đối với những đồ trang sức mà vợ, chồng được cha mẹ vợ hoặc
cha mẹ chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng.
b, Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung được chia theo nguyên tắc quy định tại khoản 2, Điều 95 Luật
Hôn nhân và gia đình.Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
do vợ chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình thì thực hiện theo quy
định tại Điều 96 Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
Trong trường hợp nhà thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia thì chia
theo quy định tại Điều 95, nếu không thể chia thì bên sử dụng phải thanh toán
cho bên kia phần giá trị mà người đó được hưởng. Trường hợp nhà thuộc sở hữu
riêng của một bên đã đưa vào sử dụng chung khi ly hôn nhà đó vẫn thuộc sở hữu
riêng nhưng phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị nhà dựa vào công sức

bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà ( Điều 99 ).
Vấn đề chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, bên cạnh Luật Đất
đai, Bộ luật Dân sự năm 2005 của Nhà nước ta từ Điều 679 đến Điều 732 đã quy
định về chuyển quyền sử dụng đất. Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình đã quy
định việc chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.
c, Giải quyết vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.
Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Khi ly hôn, nếu bên
khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia
có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Theo đó, nghĩa vụ cấp dưỡng
đặt ra đối với cả hai vợ chồng nếu đảm bảo các quy định về điều kiện cấp
dưỡng.
d, Hậu quả pháp lý về con cái.
Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Việc trông nom, chăm sóc, giáo
dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn:
1.Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo
dục,nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng
lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án
8


quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt
của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên
không có thỏa thuận khác.
3.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản khi một bên chết trước hoặc
bị Tòa án tuyên bố là đã chết.

3.3.1. Quan hệ nhân thân.
Khi một bên vợ chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì quan
hệ hôn nhân giữa vợ chồng đương nhiên chấm dứt. Các quyền và nghĩa vụ giữa
vợ và chồng phát sinh từ khi kết hôn sẽ chấm dứt. Người vợ chồng còn sống vẫn
được hưởng các quyền lợi phát sinh từ hôn nhân với người vợ chồng đã chết.
Một trong số các quyền đó không phụ thuộc vào việc người đó có lấy vợ, chồng
khác hay không. Khác với trường hợp khi ly hôn, trong trường hợp này nghĩa vụ
sau khi ly hôn như cấp dưỡng cũng không được thực hiện, vì quan hệ hôn nhân
gắn liền với chủ thể và không thể chuyển giao cho người khác.
3.3.2. Quan hệ tài sản.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 31 Luật HN&GD năm 2000: “Khi vợ hoặc
chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản
chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản
lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản”.
Như vậy, vợ chồng còn sống có quyền quản lý tài sản chung của vợ, chồng đã
chết. Điều này còn được quy định tại Điều 673 Bộ luật Dân sự năm 2005.
III. Thực tiễn áp dụng quy định chia tài sản của vợ chồng và một số kiến
nghị.
1.Chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Hiện nay, thực tế áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình trong trường hợp này
vẫn còn nhiều mâu thuẫn và thiếu sót. Chưa qui định cụ thể nguyên tắc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó
thuộc thẩm quyền của Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó
khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh.Qui
định trong thời kỳ hôn nhân, nếu có lý do chính đáng vợ chồng có thể thỏa thuận
chia tài sản chung bằng văn bản mà không qui định trách nhiệm của họ đối với
gia đình sau khi chia tài sản chung là một qui định quá “mở”. Luật Hôn nhân
không qui định ai là người có thể yêu cầu Toà án hủy bỏ thoả thuận chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thoả thuận này vi phạm các điều
kiện được qui định tại Điều 29 của bộ luật này hoặc gây ảnh hưởng nghiêm

trọng đến đời sống gia đình, đến việc trông nom, nuôi dưõng, chăm sóc, giáo

9


dục con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân
sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2.Chia tài sản khi vợ chồng ly hôn.
Vấn đề chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn đã được quy định
trong Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định về chuyển quyền sử
dụng đất. Tuy nhiên Tòa án chưa có những hướng dẫn cụ thể, nên các trường
hợp vợ chồng ly hôn liên quan đến giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất còn
phải xử nhiều lần. Cấp dưỡng là vấn đề đặc biệt khi quan hệ hôn nhân đã chấm
dứt nên pháp luật cần có những quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền yêu cầu
cấp dưỡng, thời điểm yêu cầu cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng,… Qua đó sễ tạo
cơ sở pháp lý trong việc giải quyết yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn
một cách hợp tình hợp lý.
3.Chia tài sản khi một bên vợ chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã
chết.
Thực tế áp dụng cac quy định của pháp luật về chia tài sản trong trường
chưa có nhiều quy định cụ thể mà, các Nghị định, văn bản pháp luật khác
cũng chứa ít quy định cụ thể. Vậy các nhà làm luật nên quy định cụ thể và
đầy đủ hơn về trường hợp này để việc giải quyết được dễ dàng hơn, tránh
những tranh chấp xảy ra.

10


C. KẾT LUẬN
Trước tình hình thực tế về chia tài sản giữa vợ chồng trong những năm

qua đã đạt được những kết quả tốt đẹp, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng
và đảm bảo quyền lợi cho cả đôi bên thì còn có không ít những trường hợp
xảy ra mâu thuẫn, bất đồng giữa vợ chồng sau khi chia tài sản. Vì vậy pháp
luật cần có những quy định cụ thể, đầy đủ và hợp lý hơn để giải quyết triệt để
các vấn đề về chia tài sản giữa vợ và chồng.
Trên đây, em đã đi tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt giữa các
trường hợp chia tài sản của vợ chồng. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng
bài làm không tránh khỏi những sai sót, mong các thầy cô thông cảm. Cuối
cùng em xin cảm ơn các thầy cô đã nhiệt tình giảng bài trong các tiết học để
em có thể hoàn thành bài tập này.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp 1992 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản
Lao động, 2011.
2. Bộ luật Dân sự năm 2005, nhà xuất bản Lao động, 2012.
3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nhà xuất bản Lao động, 2011.
4. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình. Trường Đại học Luật Hà Nội, năm
2006.
5. Một số Tạp chí:
Tạp chí Luật học số 06/2002.
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp số 03/2012.
Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án dân chủ tối cao số 06/2012.
6. Một số website:
.
.
.
……………………………………….


12



×