Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.77 KB, 17 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Thông tin về tuổi của người được bảo hiểm (người có tuổi thọ, tính mạng,
sức khỏe được doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm theo quy định
của Luật kinh doanh bảo hiểm). khi giao kết hợp đồng bảo hiểm con người
đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến việc đánh giá rủi ro và ra quyết định chấp nhận bảo hiểm, trì
hoãn chấp nhận bảo hiểm hay từ chối chấp nhận bảo hiểm.
Bảo hiểm nhân thọ có thể được hiểu trên 2 phương diện: kỹ thuật và pháp
lý.
Trên phương diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là loại bảo hiểm bao hàm
những cam kết mà sự thực hiện những cam kết đó phụ thuộc vào tuổi thọ
của con người.
Có hai loại cam kết chủ yếu trong bảo hiểm nhân thọ, đó là cam kết đóng phí
bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và cam kết trả tiền bảo hiểm hoặc trả
trợ cấp định kỳ của doanh nghiệp bảo hiểm.
Do thời hạn hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ kéo dài nhiều năm
nên người tham gia bảo hiểm thường cam kết đóng phí làm nhiều lần. Thông
thường, nếu người tham gia bảo hiểm bị chết trước khi hoàn thành nghĩa vụ
đóng phí cho cả hợp đồng thì cam kết đóng phí những lần còn lại sẽ chấm
dứt, nghĩa là không có ai trong phía bên mua bảo hiểm phải đóng thay họ.
Khi người được bảo hiểm bị chết hoặc còn sống đến một thời điểm nhất định
đã chỉ rõ trong hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện
cam kết của mình, trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng một khoản tiền
nhất định hoặc những khoản trợ cấp.
1


Trên phương diện pháp lý, bảo hiểm nhân thọ bao gồm các hợp đồng bảo
hiểm được ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm,
theo đó, để nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo


hiểm một khoản tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp định kì trong
trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời điểm nhất định hoặc tử
vong trước một thời điểm nhất định đã được ghi rõ trên hợp đồng bảo hiểm.
Ngoài ra, theo Luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ Nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ 01/04/2001 thì “Bảo
hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo
hiểm sống hoặc chết”.

B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) bắt nguồn từ chế độ bảo hiểm nói chung. Chế
độ BHNT cứu tế cho những hội viên của tổ chức này bị bệnh hoặc chết. Sau
đó, những tổ chức hữu ái lập ra ở Anh nêu ra trọng tâm công tác là cứu tế về
tiền bạc cho những thành viên của tổ chức đó bị chết khi về già hoặc ốm
đau. Nguyên tắc hoạt động ban đầu của BHNT rất đơn giản: những người
tham gia bảo hiểm đều nộp phí như nhau và được hưởng quyền lợi như
nhau. Năm 1639, E.Halley- người Anh đã lập ra bảng thống kê tử vong đầu
tiên, lý thuyết xác suất của B.pascal năm 1659 và luật về số đông của
J.Bernoully thế kỷ 18 đã đặt nền móng lý thuyết tính toán khoa học cho
2


BHNT.
Trong những năm 50 của thế kỷ18, T.Simpon đã dựa vào bảng thống kê tử
vong do E.Halley lập ra để lập thành bảng tỷ lệ phí bảo hiểm nhân thọ. Tỷ lệ
chết của con người ngày càng tăng theo lứa tuổi, số tiền phí bảo hiểm của
người tham gia BHNT phải trả cũng tăng dần theo từng năm. Nhưng tỷ lệ
chết của người trên 50 tuổi tăng lên rất nhanh, người tham gia bảo hiểm rất
có thể không còn cách nào khác để tiếp tục tham gia bảo hiểm nữa, vì khoản

phí bảo hiểm đóng quá cao. Sau đó, J.Dodson đã điều chỉnh mức phí bảo
hiểm tăng lên hàng năm thành phí bảo hiểm bình quân. Năm1762, hãng bảo
hiểm công bằng được thành lập ở London và BHNT được xây dựng trên cở
sở kỹ thuật bảo hiểm. Có thể nói rằng, hãng bảo hiểm công bằng là một
doanh nghiệp bảo hiểm con người hiện đại đầu tiên và đã mở ra một cục
diện mới phát triển sự nghiệp bảo hiểm con người nói chung và BHNT nói
riêng.
Ở nước ta, BHNT được định nghĩa tại khoản 12 điều 3 Luật KDBH 2000
nhu sau : Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp
người được bảo hiểm sống hoặc chết.
Đây còn là một vấn đề rất mới mẻ nhưng lại có vai trò rất lớn trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo hiểm nhân thọ trong nền
kinh tế thị trường được xem là hình thức đầu tư có lợi và hữu ích đối với các
cá nhân, đồng thời cũng là một hình thức kinh doanh rất hiệu quả đối với các
công ty bảo hiểm.Vậy BHNT là gì?
Theo từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm: “BHNT là sự bảo vệ trường
hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho người thụ hưởngthường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hay tổ chức, bằng cách đổi
một loạt các khoản chi phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo hiểm một lần
3


khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số tiền bổ sung
nào được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay chưa trả theo hợp đồng
bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ được trả cho người thụ hưởng. Những
khoản trợ cấp trả khi còn sống cho người được bảo hiểm dưới hình thức giá
trị giải ước hoặc các khoản trợ cấp thu thập”.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm tại khoản 2 điều 13 “BHNT là loại nghiệp
vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết”.
Theo cách hiểu chung “BHNT là bảo hiểm cho tuổi thọ con người”.
Như vậy, BHNT chính là sự cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm với người

tham gia bảo hiểm trong đó doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm trả số
tiền bảo hiểm khi có sự kiện định trước liên quan đến cuộc sống của con
người trên cơ sở nộp phí của người tham gia bảo hiểm theo thoả thuận.
Với nhiều quan điểm như trên về BHNT, có thể nhận thấy một số đặc trưng
cơ bản của BHNT như sau:
Thứ nhất, BHNT là hình thức bảo hiểm kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với bảo
hiểm phi nhân thọ.
Tính chất bảo hiểm thể hiện ở chỗ trong thời gian bảo hiểm nếu có sự kiện
bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm
phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
Tính chất tiết kiệm trong BHNT thể hiện ở chỗ: người mua bảo hiểm sẽ định
kỳ nộp một khoản tiền (gọi là phí bảo hiểm) cho doanh nghiệp bảo hiểm,
ngược lại doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm trả toàn bộ số tiền bảo
hiểm cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng trong
trường hợp không có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nếu người mua bảo hiểm đã
đóng phí bảo hiểm trên hai năm và không có sự kiện bảo hiểm xảy ra mà

4


hợp đồng BHNT chấm dứt thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải trả cho bên
mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng.
Thứ hai, BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham
gia bảo hiểm.
Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục
đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự
cố, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người tham gia thì BHNT đã đáp
ứng được nhiều mục đích. Mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng
loại hợp đồng. Chẳng hạn, hợp đồng bảo hiểm hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu

của người tham gia những khoản trợ cấp hàng tháng, từ đó góp phần ổn định
cuộc sống của họ khi già yếu. Hợp đồng bảo hiểm tử vong sẽ giúp người
được bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền bảo hiểm khi họ bị tử vong.
Số tiền này đáp ứng được rất nhiều mục đích của người quá cố như trang trải
nợ nần, phụng dưỡng bố mẹ già
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường có thời hạn dài.
Xuất phát từ tính chất và mục đích của BHNT là bảo hiểm kết hợp với tiết
kiệm dài hạn để thực hiện mục đích trong tương lai, nên thời hạn của hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ thường dài, có thể 5 năm, 10 năm, 20 năm thậm chí
cả cuộc đời của người được bảo hiểm .
Khác với BHNT, thời hạn trong hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ thường
ngắn hạn, một năm, thậm chí bằng thời gian hành trình của một chuyến tàu .
Thứ tư, phí bảo hiểm chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy quá
trình định phí khá phức tạp.
Sản phẩm BHNT không gì hơn chính là kết quả của một tiến trình đầy đủ để
đưa sản phẩm đến công chúng)). Trong tiến trình này, người bảo hiểm phải
bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo nên sản phẩm, như : chi phí khai thác, chi phí
quản lý hợp đồng
5


Nhưng những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá sản phẩm
BHNT (tính phí BHNT ), một phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người được bảo hiểm.
+ Tuổi thọ bình quân của con người.
+ Số tiền bảo hiểm.
+ Thời hạn tham gia bảo hiểm.
+ Phương thức thanh toán
Khi định giá phí BHNT, một số yếu tố trên phải giả định, như : tỷ lệ chết, tỷ
lệ huỷ bỏ hợp đồng, lãi suất đầu tư Vì thế, quá trình định phí ở đây rất phức

tạp, đòi hỏi phải nắm vững đặc trưng của mỗi loại sản phẩm,phân tích được
chiều

hướng

phát

triển

của

mỗi

sản

phẩm

trên

thị

trường.

Thứ năm, là loại hình bảo hiểm duy nhất luôn có thể chi trả dù rủi ro có xảy
ra hay không.
Đối với các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ trả
tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng.
Trong BHNT, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho bên
mua bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra và khi hợp đồng đáo hạn (đây
là trường hợp không có rủi ro xảy ra )

Thứ sáu, BHNT là hợp đồng thanh toán có định mức.
Tại điều 7 luật Kinh doanh Bảo Hiểm năm 2000, Bảo Hiểm Nhân Thọ bao
gồm :
Điều 7. Các loại nghiệp vụ bảo hiểm
1. Bảo hiểm nhân thọ bao gồm:
A) Bảo hiểm trọn đời;
B) Bảo hiểm sinh kỳ;
C) Bảo hiểm tử kỳ;
6


D) Bảo hiểm hỗn hợp;
Đ) Bảo hiểm trả tiền định kỳ;
E) Các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ khác do Chính phủ quy định.
2. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm:
A) Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người;
B) Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại;
C) Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông,
đường sắt và đường không;
D) Bảo hiểm hàng không;
Đ) Bảo hiểm xe cơ giới;
E) Bảo hiểm cháy, nổ;
G) Bảo hiểm thân tầu và trách nhiệm dân sự của chủ tầu;
H) Bảo hiểm trách nhiệm chung;
I) Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính;
K) Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh;
L) Bảo hiểm nông nghiệp;
M) Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác do Chính phủ quy định.
3. Bộ Tài chính quy định danh mục chi tiết các sản phẩm bảo hiểm.
II. Tìm hiểu vấn đề tuổi trong giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm

nhân thọ

7


Có thể thấy rẳng, vấn đề xác định tuổi trong giao kết và thực hiện hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ là rất quan trọng.
Việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, bao gồm các hợp
đồng bảo hiểm được ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia
bảo hiểm.
Về phía doanh nghiệp bảo hiểm, điều 5 LKDBH 2000 quy định như
sau: Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và
hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
Về phía người tham gia bảo hiểm, luật quy định bao gồm các điều:
6. Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm
với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể
đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
7. Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân
sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo
hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng.
8. Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ
định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
Với bên mua bảo hiểm, ví dụ như hãng kinh doanh bảo hiểm Prudential
quy định đối với cá nhân phải đủ 18 tuổi trở lên hiện đang cư trú tại Việt
Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, là người kê khai và ký tên trên Hồ
sơ yêu cầu bảo hiểm và là người đóng phí bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi có thể bảo hiểm đối với Người
được bảo hiểm như sau:
1. Bên mua bảo hiểm

8


2. Vợ, chồng, con, cha, mẹ hợp pháp
3. Anh chị em ruột, người có quan hệ nuôi dưỡng, giám hộ hợp pháp
4. Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể bảo hiểm
theo quy định của pháp luật.
Nếu người được bảo hiểm từ 18 tuổi trở lên thì bên mua bảo hiểm phải được
sự đồng ý bằng văn bản của người được bảo hiểm. Trong trường hợp người
bảo hiểm dưới 18 tuổi, thì bên mua bảo hiểm phải được sự đồng ý bằng văn
bản của người đại diện theo pháp luật/người giám hộ hợp pháp của người
được bảo hiểm.
Đối với người được bảo hiểm, Prudential cũng có những quy định cụ thể về
độ tuổi như sau.
Người được bảo hiểm phải nằm trong độ tuổi từ 0 đến 64. Ngoài ra giới hạn
tuổi khi kết thúc hợp đồng bảo hiểm là 70 tuổi đối với hợp đồng bảo hiểm
thời hạn 10 năm hặc 15 năm và 99 tuổi đối với hợp đồng có thời hạn từ 35
đến 99 năm.
Tại điều 34 về Thông báo tuổi trong hợp đồng bảo hiểm có nêu rõ :
Điều 34. Thông báo tuổi trong bảo hiểm nhân thọ
1. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ thông báo chính xác tuổi của người
được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm để làm cơ sở tính
phí bảo hiểm.
2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người
được bảo hiểm, nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc
nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền huỷ bỏ
hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí bảo hiểm đã đóng cho bên mua bảo
hiểm sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp hợp
9



đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên thì doanh nghiệp bảo hiểm
phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm.
3. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người
được bảo hiểm làm giảm số phí bảo hiểm phải đóng, nhưng tuổi đúng của
người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh
nghiệp bảo hiểm có quyền:
A) Yêu cầu bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm bổ sung tương ứng
với số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp đồng;
B) Giảm số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm
tương ứng với số phí bảo hiểm đã đóng.
4. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người
được bảo hiểm dẫn đến tăng số phí bảo hiểm phải đóng, nhưng tuổi đúng
của người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì
doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn trả cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm
vượt trội đã đóng hoặc tăng số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp đồng
bảo hiểm tương ứng với số phí bảo hiểm đã đóng.
Tại khoản 1 điều 34 có quy định Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ thông
báo chính xác tuổi của người được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp
đồng bảo hiểm để làm cơ sở tính phí bảo hiểm.
Ví dụ như trong trường hợp sau đây của Hãng Bảo Hiểm Prudential áp dụng
với người được bảo hiểm tử vong hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trước
khi tròn 4 tuổi:
Tuổi tại thời điểm tử vong hoặc Quyền lợi bảo hiểm
thương tật vĩnh viễn
Dưới 1 tuổi

Hoàn lại toàn bộ chi phí bảo hiểm đã
10



Dưới 2 tuổi

đóng không tính lãi
Giá trị nào lớn hơn giữa
. 25% số tiền bảo hiểm của sản phẩm
chính . hoặc
. giá trị tài khoản hợp đồng tại thời
điểm tử vong hoặc bị thương tật toàn

Dưới 3 tuổi

bộ vĩnh viễn
Giá trị nào lớn hơn giữa
. 50% số tiền bảo hiểm của sản phẩm
chính. Hoặc
. giá trị tài khoản hợp đồng tại thời
điểm tử vong hoặc bị thương tật toàn

Dưới 4 tuổi

bộ vĩnh viễn
Giá trị nào lớn hơn giữa
. 75% số tiền bảo hiểm của sản phẩm
chính. Hoặc
giá trị tài khoản hợp đồng tại thời
điểm tử vong hoặc bị thương tật toàn
bộ vĩnh viễn

Qua những ví dụ trên, có thể thấy rằng vì : Bảo hiểm nhân thọ là loại

nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết.
Nên vấn đề tuổi của bên mua bảo hiểm, được bảo hiểm và thụ hưởng là rất
quan trọng và luôn được các công ty BH quan tâm., chú trọngvà có những
quy định rõ ràng trong giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

11


C. KẾT LUẬN
1. Thực trạng và thách thức
a. Thực trạng
- Về sản phẩm: Giống như quá trình phát triển của các thị trường khác trên
thế giới, đến nay sản phẩm chủ yếu của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam vẫn là các sản phẩm hỗn hợp truyền thống với 73% doanh thu khai
khác mới và 87% số lượng hợp đồng chính có hiệu lực tại cuối năm 2007.
Tỷ trọng này đã giảm trong thời gian qua với sự gia tăng của các sản phẩm
mang tính bảo vệ và sản phẩm phi truyền thống. Sản phẩm liên kết chung
(universal life) đã được đưa ra thị trường trong thời gian gần đây và thu
được những kết quả đáng chú ý. Từ đầu năm 2008 sản phẩm liên kết đơn vị
(unit linked) cũng đã được đưa ra thị trường. Các sản phẩm bancassurance
cũng đã lần lượt được đưa ra thị trường trong mấy năm gần đây.
- Về kênh phân phối: Kênh phân phối qua đại lý đến nay đây vẫn là kênh
phân phối chính, đóng góp khoảng 99% doanh thu khai thác mới. Đáng chú
ý, sau một giai đoạn phát triển “nóng" về số lượng đại lý với hệ quả là “vào
nhanh, ra nhanh”, trong thời gian gần đây các doanh nghiệp đã chú trọng đến
chất lượng và tính chuyên nghiệp của nghề đại lý bảo hiểm. Tại cuối năm
2004, toàn thị trường có gần 100.000 đại lý hoạt động thì đến cuối năm 2007
con số này chỉ là gần 70.000 đại lý hoạt động. Bên cạnh kênh phân phối qua
đại lý, các doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng thêm kênh bancassurance nhưng
đến nay kết quả của kênh phân phối này vẫn còn rất khiêm tốn (với dưới 1%

doanh thu khai thác mới).

12


b). Những thách thức
- Thứ nhất, lạm phát. Trong năm 2007 tỷ lệ lạm phát của Việt Nam là 12,6%
và dự báo trong năm 2008 tỷ lệ này còn cao hơn, làm cho chúng ta nhớ đến
tình trạng lạm phát trong những năm đầu bảo hiểm nhân thọ được triển khai.
Lạm phát cao kéo theo hệ quả là làm giảm niềm tin của công chúng đối với
các khoản đầu tư dài hạn, các hợp đồng bảo hiểm dài hạn đồng thời làm cho
lãi suất ngắn hạn tăng lên cao (như lãi suất tiết kiệm ngân hàng), tạo ra sự
cạnh tranh lớn đối với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
- Thứ hai, sự cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính (như ngân hàng, chứng
khoán và các tổ chức tài chính) và các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
trong việc thu hút tiền vốn nhàn rỗi trong dân chúng ngày càng gay gắt. Các
ngân hàng đã đưa ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao đối với các sản
phẩm bảo hiểm như tiết kiệm gửi định kỳ, tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết
kiệm với thời hạn dài kèm theo các hình thức khuyến mại như tặng bảo
hiểm, rút thăm trúng thưởng và nhiều ưu đãi liên quan khác. Theo đánh giá
chung, sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính là một trong những nguyên
nhân chính gây ra sự suy giảm của thị trường bảo hiểm nhân thọ trong giai
đoạn 2004-2006.
- Thứ ba, môi trường luật pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm
mặc dù đã được quan tâm xây dựng nhưng đến nay vẫn chưa theo kịp sự
phát triển của ngành, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu hơn vào
nền kinh tế thế giới. Điều vui mừng là việc sửa đổi Luật kinh doanh bảo
hiểm đã được đưa vào chương trình nghị sự của Quốc hội trong năm 2010.

13



- Thứ tư, nhận thức và hiểu biết của thị trường cũng như của các cơ quan
nhà nước nói chung về bảo hiểm nhân thọ vẫn chưa cao, gây khó khăn cho
hoạt động của ngành. Đặc biệt, đến nay đại lý bảo hiểm nhân thọ chưa nhận
được sự đánh giá cao của công chúng và chưa được chính thức thừa nhận
như một nghề nghiệp chuyên nghiệp.
- Thứ năm, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ gặp
không ít khó khăn do thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển đầy
đủ. Hiện có tới 90% nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
chỉ dành đầu tư vào trái phiếu chính phủ và gửi ngân hàng thương mại. Vì
thế hiệu quả đầu tư thấp và bảo tức cho người tham gia bảo hiểm vẫn chưa
cao.
2. Triển vọng phát triển
Mặc dù có những khó khăn, thách thức như nêu trên, nhưng thị trường bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam cũng đứng trước những cơ hội phát triển rất lớn.
Các cơ sở cho nhận định này là:
- Về dân số và nhu cầu đào tạo: Hiện nay dân số Việt Nam là 85 triệu ngườiđứng hàng thứ 13 trên thế giới, với mức tăng hàng năm khoảng 1 triệu
người. Điểm đáng chú ý, Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ với 52 triệu người
trong độ tuổi lao động, chiếm hơn 60% tổng dân số; tuổi thọ trung bình
không ngừng được cải thiện (từ 50 tuổi trong những năm 1960 tăng lên 72
tuổi vào năm 2005). Với dân số trẻ cùng với truyền thống hiếu học cộng với
yêu cầu rất lớn về nguồn nhân lực có trình độ cao sau khi Việt Nam hội nhập
vào kinh tế thế giới, dẫn đến nhu cầu đào tạo của Việt Nam ngày càng cao,

14


đặc biệt là nhu cầu đào tạo chất lượng cao cả ở trong và ngoài nước kéo theo
yêu cầu tài chính cho đào tạo ngày càng lớn.

- Phát triển kinh tế: Từ khi thực hiện chính sách “đổi mới”, nền kinh tế Việt
Nam đã có sự tiến bộ vượt bậc và theo dự đoán Việt Nam tiếp tục đạt được
tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trong thời gian tới (dự báo trên 7%/năm);
đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Theo dự báo của Ngân hàng Thế
giới năm 2010 GDP/người sẽ đạt 1.000 USD, và hơn thế nữa, người Việt
Nam có truyền thống tiết kiệm và có mức tiết kiệm/thu nhập vào hàng cao
nhất thế giới. Đáng chú ý, sự phát triển kinh tế đã làm cho tầng lớp trung lưu
ngày càng đông đảo, tạo ra nhu cầu cao về bảo hiểm nhân thọ. Xin nhắc lại,
tỷ trọng người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ hiện nay ở Việt Nam mới chỉ
chiếm 4,5% dân số (trong khi ở Nhật Bản tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm
nhân thọ là 90%, Singapore 50%, và ngay tại Indonesia tỷ lệ này cũng trên
10%) và số tiền tiết kiệm được người dân dùng mua bảo hiểm nhân thọ mới
chiếm 3,45% tổng số tiền tiết kiệm trong khu vực dân cư.
3. Định hướng phát triển
- Thực hiện hiện đại hoá doanh nghiệp thông qua việc tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa và công nghệ quản lý, công nghệ kinh doanh tiên tiến nhất
trên thế giới. Tổ chức lại hoạt động, chuẩn hoá các quy trình theo hướng lấy
khách hàng làm trung tâm, nâng cao giá trị cho khách hàng và nâng cao hiệu
quả hoạt động. Đồng thời tăng cường áp dụng công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động kinh doanh.
- Thực hiện đa dạng hoá kênh phân phối, đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở
phân đoạn thị trường, nguồn lực và những điểm mạnh của doanh nghiệp.
15


- Lấy chính sách phát triển con người làm trọng tâm, đặc biệt khuyến khích
nhân tài qua các biện pháp như tiền lương, tiền thưởng, thăng tiến, đánh giá,
đào tạo…

16



MỤC LỤC
Phần

Trang

A. Lời mở đầu
1
B. Nội dung

2

I. Những vấn đề cơ bản về luật bảo hiểm nhân thọ và pháp luật
về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

2

II. Tìm hiểu vấn đề tuổi trong giao kết và thực hiện hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ

7

C. Kết luận

11

1. Thực trạng và thách thức

11


2. Triển vọng phát triển

14

3. Định hướng phát triển

15

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sủa đổi bổ xung năm 2010
2. http//www.baoviet.com.vn
3.
4. http//www.tailieu.com.vn
5.

18



×