Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.75 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--------------***--------------

ĐÀO THU HIỀN

PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN
TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI
CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

60 22 80

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THẾ KIỆT

Hà Nội - 2008

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--------------***--------------


ĐÀO THU HIỀN

PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI
CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2008

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn
đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 1 2

tháng 4 năm 2008.

Tác giả luận văn

Đào Thu Hiền

3



MỤC LỤC
Mở đầu ........................................................................................................... 3
Chương 1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và vai trò của nó trong việc
xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ....... 8

1.1. Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh niên sinh viên
Việt Nam hiện nay ................................................................................... 8
1.1.1. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam
hiện nay ................................................................................................... 8
1.1.2. Yêu cầu của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt Nam hiện
nay ......................................................................................................... 22
1.2. Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo
đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay............................ . 24
1.2.1. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và giá trị đạo đức truyền
thống của thanh niên sinh viên Việt Nam ......................................................... 24
1.2.2. Tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo
đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay ............................ 38
Chương 2. Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng
đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay - Thực trạng
và nguyên nhân (qua một số trường đại học ở Hà Nội) .......................... 42

2.1. Thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Hà Nội hiện nay ... 42
2.1.1. Thực trạng giáo dục ý thức đạo đức (đặc biệt là ý thức đạo đức truyền
thống dân tộc) trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay ................... 42
2.1.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống thông qua các phong
trào chính trị - xã hội - thực tiễn ............................................................. 51
2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên .............................................................. 55
2.2.1. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được...................................... 55

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................................ 57
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho
thanh niên sinh viên hiện nay .............................................................. 62

3.1. Phương hướng .......................................................................................... 62

4


3.1.1. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện phát huy giá trị
đạo đức truyền thống trong giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh
viên hiện nay .......................................................................................... 62
3.1.2. Bảo đảm sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới trong việc phát huy các
giá trị đạo đức truyền thống ở các trường đại học hiện nay .................... 67
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt
Nam hiện nay ......................................................................................... 74
3.2.1. Xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà trường, xã
hội .......................................................................................................... 74
3.2.2. Đổi mới công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên
sinh viên Việt Nam hiện nay .................................................................. 79
3.2.3. Tăng cường vai trò của pháp luật trong việc gìn giữ và phát huy các giá
trị đạo dức truyền thống dân tộc ............................................................. 81
3.2.4. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu các giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.......... 86
Kết luận ........................................................................................................... 89
Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 91
Phụ lục ............................................................................................................ 96


5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu,
“ngôi nhà” thế giới dường như trở nên “nhỏ bé” hơn. “Toàn cầu hoá kinh tế
tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng,
gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển” [13, tr.73]. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về phương diện
kinh tế. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách bị
động vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế thì văn hóa dân tộc đều phải tiếp
xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc từng dân
tộc suy nghĩ xem phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào. Mỗi nước,
mỗi dân tộc phải biết lựa chọn, giữ gìn và phát huy những thế mạnh của
mình để hoà nhập vào xu thế chung của thời đại, để phát triển bền vững đất
nước.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về nhiều mặt, trước hết là chất lượng
nguồn nhân lực. Con người cần có sự phát triển toàn diện cả về thể lực, trí
lực và tâm lực, nhất là đối với thế hệ trẻ.
Thanh niên sinh viên là lực lượng quan trọng, đóng vai trò to lớn đối
với thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là lớp
người năng động, dễ tiếp thu cái mới trong xã hội, họ cũng là tầng lớp chịu
ảnh hưởng lớn những điều kiện kinh tế - xã hội mới, của cơ chế thị trường,
của việc mở rộng giao lưu quốc tế. Song thực tế hiện nay, giới trẻ ít quan
tâm đến truyền thống dân tộc mà có xu hướng thích chạy theo lối sống hiện

đại kiểu phương Tây. Trong điều kiện kinh tế thị trường, thực trạng những

6


biểu hiện đạo đức của lớp trẻ đang đặt ra hàng loạt các vấn đề bức xúc cần
phải giải quyết.
Vì thế, vấn đề đạo đức, lối sống của thanh niên sinh viên Việt Nam
hiện nay không chỉ riêng với ngành giáo dục mà nhiều cấp, nhiều ngành đều
hết sức quan tâm. Đại hội X của Đảng đã chỉ ra việc phải kế thừa, phát huy
và phát triển giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: “Xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học
sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ, đạo đức
và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [13, tr.106]. Ở đây, những giá trị
truyền thống, đặc biệt là giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc sẽ là nền
tảng vững chắc cho sự hình thành và phát triển toàn diện con người Việt
Nam.
Chính vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Phát huy giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên
Việt Nam hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Mảng đề tài về vấn đề đạo đức truyền thống đã thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học. Một số công trình tiêu biểu của một số tác giả
như: Nguyễn Trọng Chuẩn (1995), “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến
đổi của giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí
Triết học, số 1. Nguyễn Thế Kiệt (1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế
thị trường trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí
Triết học số 6. Nguyễn Văn Phúc (1998), “Về một số giải pháp xây dựng

nhân cách đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4. Huỳnh Thái Vinh
(1998), “Bồi dưỡng đạo đức sinh viên trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí
Thông tin những vấn đề lý luận, số 16. Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sỹ
Phán (1999) “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân

7


cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Luận văn thạc sĩ của
Bạch Quốc Trám (1999), “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt
Nam trong sinh viên thời kinh tế thị trường”. Luận án tiến sĩ Triết học của
Nguyễn Văn Lý (2000), “Kế thừa và đổi mới các giá trị truyền thống trong
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”. Huỳnh
Thái Vinh (2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luận án tiến sĩ triết học của Trần
Minh Đoàn (2002), “Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay”. Luận án tiến sĩ Triết học của Lê
Thị Hoài Thanh (2003), “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay”. Nguyễn Thế
Kiệt (2006) “ Một số giá trị đạo đức Việt Nam từ truyền thống đến Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7.
Như vậy, vấn đề về đạo đức truyền thống đã được nhiều người, nhất
là các nhà khoa học quan tâm . Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, các giá trị đạo
đức truyền thống trong điều kiện kinh tế thị trường đang biến đổi, diễn biến
phức tạp, sự tác động của nó đối với việc xây dựng đạo đức mới cho thanh
niên sinh viên là vấn đề mới mẻ, cần phải tiếp tục đi sâu tìm hiểu và nghiên
cứu sâu sắc hơn. Đề tài “ Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay” sẽ
góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ này.
3. Mục đích, nhiệm vụ

* Mục đích:
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số
trường cao đẳng, đại học ở Hà Nội hiện nay, từ đó đưa ra phương hướng và
một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
trong việc giáo dục đạo đức mới cho đội ngũ này ở Việt Nam hiện nay.

8


* Nhiệm vụ:
- Phân tích tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh
niên sinh viên hiện nay.
- Làm rõ vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng
đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong một số
trường đại học ở Hà Nội hiện nay
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho
thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên
Việt Nam hiện nay đang học tại một số trường cao đẳng và đại học ở Hà
Nội, tính trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đạo
đức, phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, vấn đề xây dựng đạo đức

mới cho thanh niên sinh viên.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp để thực hiện luận văn là tổng hợp các nguyên tắc
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng
hợp,...Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Góp phần luận chứng về mặt lý luận vấn đề phát huy giá trị đạo đức

9


truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt
Nam hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy triết học, đạo đức học ở các trường cao
đẳng và đại học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 3 chương với 6 tiết.

10


Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI
CHO THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Tầm quan trọng và yêu cầu đạo đức mới của người thanh

niên sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1.1. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh
viên Việt Nam hiện nay
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức:
Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội,
điều chỉnh hành vi của con người, là sản phẩm của qúa trình phát triển lịch
sử của xã hội và góp phần phản ánh sự tồn tại của đời sống tinh thần. Ph.
Ăngghen cho rằng: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”
[38, tr.137]. Cùng với pháp luật, tôn giáo, phong tục, tập quán,... đạo đức là
một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Sự đánh giá hành vi của
con người theo khuôn phép, chuẩn mực và qui tắc đạo đức, biểu hiện thành
các khái niệm về: thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, vinh và nhục, hạnh
phúc và đau khổ,...Tuy nhiên, các khái niệm cùng các khuôn phép, chuẩn
mực hành vi của con người thường thay đổi theo từng thời đại, với từng giai
cấp, từng dân tộc.
Ngày nay, đạo đức có thể được xem xét từ nhiều phương diện khác
nhau. Có ba phương diện cần chú ý:
- Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - là toàn bộ
những quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm
đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng.

11


Xét về mặt nội dung, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Chế độ kinh tế xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con người. Các quan điểm
này thay đổi theo cơ sở đã sinh ra nó. Những thời đại khác nhau, những cộng
đồng khác nhau có những hệ thống đạo đức khác nhau, chúng phản ánh
những tồn tại xã hội khác nhau. Ví dụ: thích ứng với chế độ phong kiến, dựa

trên cơ sở bóc lột những người nông nô bị cột chặt vào ruộng đất là đạo đức
xã hội nông nô; thích ứng với chế độ tư bản, dựa trên cơ sở bóc lột người
công nhân làm thuê là đạo đức tư sản; Chế độ XHCN tạo ra nền đạo đức
biểu hiện mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ lẫn
nhau của người lao động đã được giải phóng khỏi ách bóc lột.
- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài
người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh mối quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội: phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo
đức,... Những chuẩn mực (khuôn phép) và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả
xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra nhằm điều chỉnh hành vi của
mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với Tổ
quốc, Nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối địch...) và đối với người khác.
Những chuẩn mực và quy tắc nhất định được công luận của xã hội, hay của
một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Công luận xã hội hướng dẫn các cá nhân
hoạt động trong khuôn khổ được phép và tránh những hành vi không được
phép. Sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo
đức là sự tự do lựa chọn của con người.
- Đạo đức là một hệ thống các giá trị.
Giá trị là đối tượng của giá trị học. Giá trị học phân loại các hiện
tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng nên một cách truyền thống
về các lĩnh vực của đời sống xã hội; các giá trị vật chất và tinh thần; các giá
trị sản xuất và tiêu dùng (các giá trị xã hội); các giá trị xã hội - chính trị,

12


nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo. Đạo đức là một hiện tượng xã hội
mang tính chuẩn mực, mệnh lệnh - đánh giá rõ rệt.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin , đạo đức được định nghĩa
như sau:

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của
con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm đạo đức mới:
Đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là đạo đức
cộng sản. Xã hội loài người vận động và phát triển như một quá trình lịch sử
- tự nhiên, từ thấp đến cao. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau trên
cơ sở của cái tất yếu kinh tế. Phản ánh cái lôgic kinh tế - xã hội đó, đạo đức
cũng có lôgic tương ứng, đạo đức xã hội cũng vận động phát triển, đỉnh cao
là đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
Đấu tranh xoá bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, thủ tiêu
hoàn toàn sự áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
- đó là sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản. Đạo đức cộng sản
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp này trong cách mạng vô sản, nó
cũng là thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ của giai cấp công nhân sử dụng để xoá
bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là lần đầu tiên và là lần cuối cùng
đạo đức của một giai cấp lao động trở thành đạo đức cách mạng và chiếm
địa vị thống trị trong đời sống đạo đức của xã hội. Nó thực hiện bước phủ
định của phủ định, hình thành một vòng khâu phát triển làm nên bước tiến
bộ toàn diện của đạo đức. Lênin cho rằng: “Đạo đức, đó là những gì góp
phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những
người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của
những người cộng sản” [33]

13


So với các nền đạo đức trước đây, đạo đức mới là một bước phát triển
về chất. Nó chứa đựng và kế thừa tất cả những nội dung tốt đẹp nhất của các

nền đạo đức trong các thời đại trước. Vì thế, đạo đức mới bao hàm rất nhiều
yếu tố đạo đức chung của cả nhân loại, là nền đạo đức sẽ được xây dựng lên
trong tương lai trên toàn thế giới cùng với sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng
sản.
Như vậy, khái niệm đạo đức cộng sản là hoàn toàn mới trong lịch sử
xã hội. Nó đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột
khác. Nó cũng khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ, xét về bản
chất. Sự khác biệt của đạo đức mới so với các kiểu đạo đức trước đây, trước
hết thể hiện ở tính cách mạng và khoa học của nó. Tính cách mạng và khoa
học ấy không chỉ biểu hiện ở sự phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà còn biểu hiện ở sự kế thừa có
phê phán và chọn lọc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và
những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hơn nữa, sự khác biệt ấy còn được
biểu hiện ở những nguyên tắc đạo đức mới:
Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới.
Tính tập thể, tính cộng đồng của con người xuất hiện rất sớm, do nhu
cầu lao động sản xuất tạo ra vật phẩm nuôi sống con người. Xét cho cùng,
mọi giá trị vật chất tinh thần đạo đức được bắt nguồn từ hoạt động lao động
của con người. Tính tập thể của con người không chỉ biểu hiện ở những hoạt
động cộng đồng có tính xã hội trực tiếp, mà ở ngay cả những hoạt động độc
lập, có tính chất cá nhân. Tinh thần tập thể một khi được thừa nhận là một
giá trị cao đẹp, được coi như một triết lý sống, một nguyên tắc sống thì phát
triển thành chủ nghĩa tập thể.
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác giữa các cá nhân vì những
lý tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tình đồng chí, tinh

14


thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau, nhằm bảo đảm cho

các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ lợi ích xã hội.
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và là trung tâm của
đạo đức mới. Ở đây, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà
còn vì người khác, có tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc
lẫn nhau. Tập thể ở đây vừa là mục đích, vừa là phương tiện, là hình thức để
cho các cá nhân phát triển.
Dưới CNXH, chủ nghĩa tập thể trở thành quan hệ phổ biến, thể hiện
trong mọi quan hệ xã hội và trong mọi hình thức của đời sống xã hội. Con
người không chỉ nghĩ vì mình mà còn vì người khác với một tinh thần trách
nhiệm, chăm sóc lẫn nhau, thực hiện mục tiêu chung phù hợp với sự tiến bộ
xã hội, vì thế nó là cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo cao nhất. Điều này được
thể hiện ở những tình cảm đạo đức thông thường trong quan hệ người với
người được nâng lên thành những tình cảm thiêng liêng, cao quí: đó là tình
bạn, tình đồng chí, đồng đội, tình hữu ái giai cấp, mỗi người vì mọi người,
mọi người vì mỗi người...
Chủ nghĩa tập thể đối lập với chủ nghĩa cá nhân nhưng không thủ tiêu
lợi ích cá nhân. Chúng ta phải tạo ra được một môi trường mà như Mác nói:
Tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng: “Không có chế độ nào tôn trọng
con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó thoả
mãn bằng chế độ XHCN” [42, tr.291]. Người nói: “Đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân không phải là “giầy xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều
có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia
đình mình”. [42]. Chống chủ nghĩa cá nhân là một cuộc đấu tranh lâu dài,
phức tạp, phải hết sức kiên quyết, thực hiện điều này không đơn giản chút
nào. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh lợi ích cá nhân, con người dễ sa vào chủ
nghĩa cá nhân, ngược lại chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ xâm

15



hại lợi ích chính đáng của cá nhân. Cả hai khuynh hướng này đều dẫn tới
kết quả là cản trở mục tiêu giải phóng con người thực sự.
Thứ hai, lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới.
Lao động là hoạt động đặc trưng cơ bản đầu tiên của con người, để cải
biến tự nhiên, xã hội và chính mình phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con
người, vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Trong cuộc sống, con người có nhiều chuẩn mực để đo phẩm giá của
mình. Tuy nhiên, thái độ đối với lao động được coi là một trong những chuẩn
mực quan trọng nhất. Người có thái độ lao động tự giác, có kỷ luật, chăm chỉ
cần cù, sáng tạo, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, chăm lo thực hành
tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, yêu lao động của mình, biết coi trọng cả lao
động trí óc và lao động chân tay,...sẽ là người được xã hội kính trọng và tôn
vinh.
Theo Lênin, CNXH bắt đầu từ chỗ nào mà những công nhân bình
thường biết quan tâm với một tinh thần hy sinh và không quản nặng nhọc đến
việc nâng cao năng suất lao động. Đây là vấn đề căn bản nhất cho thắng lợi
của chế độ mới.

Đạo đức mới hoàn toàn xa lạ với kiểu lao động hình thức,

vô trách nhiệm, kém hiệu quả và vụ lợi. Thái độ lao động tự giác, có kỷ luật,
sáng tạo thể hiện bản chất con người, lao động cho mình, cho xã hội mà mình
làm chủ.
Thứ ba, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế.
Lòng yêu nước là tình cảm xã hội tự nhiên của con người với đất nước
mình. Lòng yêu nước không phải là đặc trưng riêng của một dân tộc nào.
Mỗi con người sinh ra đều có cội nguồn, quê hương, đất nước. Mọi người
đều yêu quê hương, đất nước mình. Đây là một thuộc tính tự nhiên có ý
nghĩa phổ biến.

Một khi lòng yêu nước phát triển thành một triết lý nhân sinh, triết lý
xã hội, một lối sống, một trình độ nhận thức sâu sắc và có hệ thống, chi phối
16


một cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người thì trở thành chủ
nghĩa yêu nước. Nó bao hàm cả tư tưởng và tình cảm yêu nước, nó vừa là
nguyên tắc đạo đức, vừa là nguyên tắc chính trị.
Theo Lênin, chủ nghĩa yêu nước “là một trong những tình cảm sâu sắc
nhất, đã được củng cố qua hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”
[32, tr.226]. Yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành và khát
vọng phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân khác hẳn về chất với
quan niệm của giai cấp bóc lột. Nội dung của nó thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:
- Yêu nước là yêu CNXH, yêu nhân dân lao động. Quan niệm yêu
nước của đạo đức mới là lòng tự hào dân tộc, tự hào về những gương anh
hùng bất khuất trong chiến đấu và trong lao động sản xuất,...Chủ nghĩa yêu
nước của giai cấp công nhân luôn gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động,
gắn liền với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột,
phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, làm cho người lao động làm chủ đất
nước thực sự.
- Yêu nước trên lập trường quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân biểu hiện bản chất tốt đẹp của giai cấp công
nhân nhằm đoàn kết giúp đỡ và giải phóng nhân dân lao động toàn thế giới
khỏi mọi áp bức bóc lột. Thực tế, vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc
tế quan hệ biện chứng với nhau. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế trở thành một nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức mới.
Thứ tư, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là tổng hợp những

quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá, bảo vệ sự tự do và sự phát triển toàn diện,
bảo vệ tính người của các quan hệ xã hội.

17


Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản khác xa về chất so với chủ nghĩa nhân
đạo tư sản, tư tưởng nhân đạo Kitô giáo, Phật giáo. Chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản là sự kế thừa và phát triển trên quan điểm biện chứng những tính
hoa lý tưởng nhân đạo trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản
có nội dung toàn diện, triệt để và sâu sắc, nó thủ tiêu tất cả mọi áp bức bóc
lột trong xã hội, mọi người đều được tự do, thực hiện đầy đủ quyền làm
người. Đây là chủ nghĩa nhân đạo tự do và đầy đủ nhất đối với nhân loại, là
chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị nhất trong lịch sử. Trên nghĩa đó, chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản là nội dung cơ bản của đạo đức mới, vì “cái gốc của đạo
đức, của luân lý là lòng nhân ái”.
1.1.1.3. Tầm quan trọng của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên

s Sinh viên và đặc điểm của thanh niên sinh viên:
“Sinh viên” là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập ở các
trường đại học và cao đẳng. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm sinh viên
được mở rộng hơn. Chẳng hạn, ở Pháp, thuật ngữ “sinh viên” không chỉ dùng
để gọi những người đang học trong các trường đại học và cao đẳng, mà còn
dùng cho cả những người đang học trong các trường trung học và trường dạy
nghề.
Nói đến thanh niên sinh viên là nói đến đội ngũ trí thức trong tương
lai, là lực lượng trẻ, có sức khoẻ dồi dào, có trình độ văn hoá, nhạy cảm với
cái mới, năng động, sáng tạo, ham học hỏi, ưa tìm tòi, khám phá, giàu ước
mơ, thích giao tiếp, thích tham gia các hoạt động xã hội,...Với những đặc
điểm tâm sinh lý ấy, thanh niên sinh viên trở thành nhóm xã hội hết sức đặc

biệt. Họ là những chủ nhân tương lai của đất nước, là tầng lớp xã hội được
gia đình, nhà trường, xã hội hết sức quan tâm. Trong cuộc sống xã hội, sinh
viên giữ nhiều vị trí: là sinh viên, là người con, là người anh, người chị,
người em, người bạn,...Tuy vậy, về vị trí thực trong xã hội chưa được xác
định, bởi vì họ chưa có nghề nghiệp ổn định. Hoạt động chính của họ là học

18


tập và bước đầu tham gia vào nghiên cứu khoa học, tham gia vào các hoạt
động xã hội.
Thanh niên sinh viên là tầng lớp trẻ tuổi. Phần lớn thanh niên sinh
viên chưa được rèn luyện trong sản xuất và chiến đấu. Những hiểu biết của
họ về quốc gia, dân tộc, về giai cấp, về truyền thống,....chỉ qua sách vở nên
rất hạn chế, thậm chí rất ít biết. Khi tập trung về trường đại học ở các thành
phố - nơi có đủ mọi tầng lớp xã hội, mọi kiểu quan hệ xã hội, diễn ra mọi
hiện tượng sinh hoạt vật chất và tinh thần,...thanh niên sinh viên, đặc biệt là
thanh niên sinh viên xuất phát từ nông thôn có sự xáo trộn, thay đổi lớn. Họ
phải tự làm chủ bản thân để hoà nhập vào môi trường mới, làm chủ nguồn
kinh tế thường là eo hẹp của mình để đảm bảo cuộc sống, làm chủ các mối
quan hệ giao tiếp, làm chủ về sinh hoạt hàng ngày. Bấy nhiêu đặc điểm và
nhân tố làm cho nhân cách, lối sống thanh niên sinh viên chưa ổn định, có
nhiều dao động.
Sinh viên Việt Nam trong những năm gần đây không ngừng tăng lên
cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu xã hội. Nếu như
năm 1997-1998 cả nước có 126 trường cao đẳng và đại học (không kể các
trường thuộc khối an ninh, quốc phòng) thì đến năm học 2002-2003 số
lượng các trường đại học đã lên tới 202 trường. Năm học 1997-1998, cả
nước có 671.120 sinh viên, đến năm học 2002-2003 đã lên tới 1.020.667
sinh viên. Sinh viên nước ta hiện nay chiếm 0,96% dân số và chiếm 4% lực

lượng thanh niên, đạt 188 sinh viên trên một vạn dân. Số sinh viên trong các
trường ngoài công lập ngày càng tăng (chiếm 11%) [57, tr.10].
Trong sự phát triển đất nước, sinh viên giữ một vị trí quan trọng. Sau
khi rời ghế nhà trường, họ có thể giữ những vai trò, những trọng trách ở
nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Họ có thể sẽ là những nhà chính trị,
nhà ngoại giao, nhà khoa học, kỹ sư, bác sỹ, nghệ sỹ, hay nhà doanh

19


nghiệp,... Lúc đó, họ có một vị trí đích thực và đóng một vai trò quan trọng
trong sự phát triển xã hội.
Thật vậy, sinh viên là nguồn dự trữ, là tài sản quý báu của quốc gia.
Ngay từ khi đất nước còn chiến tranh, đội ngũ sinh viên đã từng gắn bó và
có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đội ngũ sinh
viên Việt Nam càng nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình trước nhân dân,
trước dân tộc.
Tại Đại hội sinh viên toàn quốc lần thứ V, nguyên Tổng bí thư Đỗ
Mười đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng CNXH có
thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng
trong cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay
quyết định, trong đó sinh viên là một bộ phận có vai trò hết sức quan trọng”.
Theo các kết quả điều tra xã hội học gần đây của Viện Nghiên cứu
Thanh niên, Trung tâm Nghiên cứu dư luận xã hội – Ban Tư tưởng Văn hoá
Trung ương cho thấy, nhận thức về các vấn đề xã hội của thanh niên, sinh
viên hiện nay ngày càng được mở rộng, phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn
[57, tr.23-24]. Họ không chỉ chú ý đến việc nâng cao trình độ khoa học –
công nghệ mà còn có ý thức nâng cao sự hiểu biết của mình về lịch sử,
truyền thống văn hoá dân tộc, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

và kiến thức về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của công dân trong quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu
điểm, đội ngũ sinh viên cũng có những hạn chế như: tính bồng bột, dễ phiêu
lưu, liều lĩnh, dễ vô kỷ luật, vô chính phủ, thích cái lạ nhưng lại thiếu kinh
nghiệm, khi gặp thất bại lại dễ hoang mang, nản chí và trượt dài. Do vậy, để
hiểu rõ đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi sinh viên là một vấn đề hết sức quan
trọng, để có phương pháp giáo dục, vận động sinh viên một cách khoa học,
thiết thực, phù hợp.

20


Chỉ có trên cơ sở hiểu và đánh giá đúng những đặc điểm của thanh
niên sinh viên với những biểu hiện hết sức phức tạp dưới tác động của kinh
tế thị trường đến đặc điểm của họ, chúng ta mới có những quan điểm phù
hợp trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên, từ đó góp
phần làm cho sự nghiệp “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” của
Đảng thành công tốt đẹp.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thấy rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí và tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ
trong sự nghiệp phát triển của cách mạng, của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: muốn thức tỉnh dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên, bởi vì
tương lai, tiền đồ của dân tộc, sự thắng lợi của cách mạng hoàn toàn tuỳ
thuộc vào việc hiểu thanh niên, tin thanh niên, chăm lo giáo dục, dìu dắt và
dám trao cho họ những trách nhiệm xứng đáng. “Thanh niên là người chủ
tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh,
một phần lớn là do các thanh niên” [41, tr.134]. Người luôn đánh giá cao vai
trò quan trọng, tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ. Người khẳng định thế hệ trẻ
là “bộ phận quan trọng”, “tốt đẹp nhất”, “to lớn nhất” và “hy vọng nhất” của
dân tộc. Đồng thời, Người thường theo dõi nhắc nhở thế hệ trẻ đấu tranh

khắc phục những nhược điểm của họ như: thiêú thực tế, chủ quan, chuộng
hình thức,...
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, yêu cầu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đã đặt thế hệ trẻ vào vị trí quan trọng hàng đầu. Điều này
đã được Đảng ta nhấn mạnh: “Thanh niên phải là lực lượng xung kích trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công
hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng
đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con
đường XHCN hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào
việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề

21


sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng. Vì vậy, vấn đề thanh niên và công tác thanh niên phải đặt ở
vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố con người” [6, tr.2].
Thực tế của công cuộc đổi mới đòi hỏi chúng ta phải có những chủ
trương, biện pháp tốt để phát huy tiềm năng to lớn của thanh niên sinh viên,
đồng thời hạn chế tối đa những biểu hiện tiêu cực trong tư tưởng đạo đức
của họ. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của toàn Đảng, toàn dân ta.
Tầm quan trọng của đạo đức mới ở thanh niên sinh viên Việt Nam
hiện nay:
Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã được đặt
ra từ lâu, tuy nhiên, hiện nay nó mang tính thời sự cấp bách hơn cả. Trong
công cuộc đổi mới đất nước, đạo đức mới có tầm quan trọng đặc biệt, thể
hiện là:
- Đạo đức mới góp phần định hướng vững chắc mục tiêu CNXH. Mục
tiêu định hướng XHCN của cách mạng nước ta đồng nhất với mục tiêu của
chủ nghĩa nhân đạo là làm cho mọi người đều có “cơm ăn, áo mặc, ai cũng

được học hành”, xã hội công bằng, văn minh như Bác Hồ đã dạy.
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngay từ trong bản chất
của nó đã chứa đựng yếu tố luân lý, đạo đức.
- Các tiêu chuẩn đạo đức và quan niệm giá trị biểu hiện hình thái ý
thức cấu thành tiền đề nhân văn trong hoạt động của chủ thể kinh tế.
- Đạo đức mới góp phần điều tiết các quan hệ lợi ích trong kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Như vậy, đạo đức XHCN là cơ sở để xây dựng nền văn minh vật chất
và văn minh tinh thần. Thấy rõ sức mạnh to lớn mà đạo đức mới đem lại đối
với công cuộc xây dựng CNXH và cho người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã rất coi trọng vấn đề giáo dục, bồi dưỡng đạo đức mới, đặc biệt là
cho thế hệ trẻ. Tại Đại hội sinh viên lần thứ 2, Người nói: “Thanh niên phải
22


có “đức”, có “tài”, có “tài” mà không có “đức” ví như một anh làm kinh tế
tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt kém thì chẳng những không làm được
gì ích lợi cho xã hội mà còn hại cho xã hội nữa. Nếu có “đức” mà không có
“tài” ví như ông Bụt không làm hại ai nhưng cũng không lợi gì cho loài
người...” [42, tr.172]. Ngày nay, việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên
sinh viên càng trở nên quan trọng và cấp bách, bởi vì:
Thứ nhất, thời đại mới với xu thế hội nhập toàn cầu hoá đang đặt thế
hệ thanh niên sinh viên trước những thách thức mới. Trong thời đại hiện
nay, thanh niên sinh viên có nhiều điều kiện, cơ hội vô cùng quý giá để phát
triển, những điều kiện mà trước đây các thế hệ cha anh không thể có. Đó là
thành quả to lớn của cách mạng, là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối
với họ, là môi trường thuận lợi cho việc tích luỹ và nâng cao trình độ tri thức
do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đem lại.
Tuy nhiên, hiện nay cũng là lúc thế giới đang có nhiều biến động phức tạp
về chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ,...Hàng loạt vấn đề to lớn

đặt ra trước mắt: làm thế nào để thanh niên sinh viên có thể đủ sức đáp ứng
các yêu cầu nặng nề nhưng vẻ vang mà đất nước đặt lên vai họ? Làm thế nào
để họ có thể tự định hướng đúng đắn trong nền kinh tế thị trường? Làm thế
nào để họ nhận thức rõ vai trò của mình trong việc góp phần phát triển đất
nước?...Chắc chắn, sự nghiệp giáo dục và rèn luyện thanh niên sinh viên về
các mặt: chính trị, tư tưởng, đạo đức,... là hết sức quan trọng. Vì vậy, xây
dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên là một việc vô cùng cần thiết, từ
đó giúp họ có niềm tin vào CNXH, vào lý tưởng cách mạng, vào sự định
hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đồng thời có quan điểm và hành
động đúng trong việc hiện thực hoá lý tưởng.
Thứ hai, trong tình hình thế giới hiện nay, các thế lực thù địch vẫn có
âm mưu thôn tính và phá hoại sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Với chiến
lược “diễn biến hoà bình”, kẻ thù tấn công chúng ta chủ yếu trên các lĩnh

23


vực văn hoá để làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp của Đảng,
làm băng hoại đạo đức, lối sống của nhân dân. Đối tượng trực tiếp của
chúng là lớp trẻ, trong đó có thanh niên sinh viên - những chủ nhân tương lai
của đất nước. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi sinh viên, lợi dụng
những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật hiện đại (mạng Internet, sách báo
nhiều loại, phim ảnh, băng đĩa,...), kẻ thù dùng mọi thủ đoạn hòng lôi kéo
sinh viên xa rời cội nguồn, sống quay lưng lại với chế độ, với nhân dân, với
dân tộc, “nguội lạnh” tinh thần cách mạng. Từ đó, họ rất dễ dàng trở thành
những con người “hư vô” về truyền thống, “mất gốc”, lai căng, thực dụng,
đề cao chủ nghĩa cá nhân,...Với những thủ đoạn tinh vi, kẻ thù cho rằng có
thể thủ tiêu được chế độ XHCN của chúng ta một cách nhanh chóng mà
không cần tới súng đạn. Tình hình ấy càng cho chúng ta thâý tính cấp thiết
của việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, thực tế có một bộ phận không nhỏ những thanh niên sinh viên
chưa ý thức được vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp cách mạng của toàn
Đảng, toàn dân, có thái độ trông chờ, ỷ lại, đòi hỏi sự ưu ái của người khác
và của xã hội mà không nỗ lực phấn đấu bản thân. Không ít thanh niên thờ ơ
với đời sống chính trị, ngại tham gia các hoạt động đoàn thể xã hội. Mặt
khác, những hiện tượng tiêu cực trong thanh niên cũng ngày càng có xu
hướng gia tăng một cách đáng lo ngại, thể hiện lối sống ăn chơi, đua đòi,
buông thả, chỉ thích hưởng thụ,... dẫn đến vi phạm pháp luật và các chuẩn
mực xã hội. Một số nơi đã xảy ra hiện tượng sinh viên giết người, cướp của,
tự tử, nghiện hút... Trên địa bàn Hà Nội năm 2003 có khoảng gần 1000 sinh
viên nghiện ma tuý. Con số ấy cho đến nay còn tăng thêm. Vì vậy, việc xây
dựng đạo đức mới, lối sống mới cho thanh niên sinh viên là hết sức cấp
bách.

24


1.1.2. Yêu cầu của đạo đức mới ở người thanh niên sinh viên Việt
Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Muốn xây dựng CNXH, trước hết
phải có con người XHCN”. Ngay từ những năm 1925-1927, trong cuốn
“Đường cách mệnh”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên phẩm chất đạo đức
cách mạng là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong phác thảo năm
điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc, ở điểm thứ hai, Người hết sức quan
tâm đến vấn đề xây dựng các quan hệ đạo đức mới khác hẳn với các quan hệ
đạo đức cũ. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rằng phải “xây dựng luận lý: biết hi
sinh mình làm lợi cho quần chúng” [40, tr.431]. Trong tiến trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và đổi
mới toàn bộ các quan niệm đạo đức của Nho giáo về các quan hệ: giới tính,
dân tộc, thế hệ, giai cấp và xác lập lại các phạm trù: nhân, nghĩa, trí, dũng,

liêm cho phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới của nhân dân ta. Người
viết: “a) Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào.
Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng,
đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh
phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không
sợ oai quyền. b) Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy,
không có việc gì giấu Đảng...c) Trí...d) Dũng...e) Liêm... Đó là đạo đức cách
mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại” [41, tr.479]
Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của cuộc chạy đua “ai
thắng ai” trên bình diện “chất xám”. Tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc
một phần lớn vào thế hệ trẻ, vào tầng lớp thanh niên sinh viên. Để đáp ứng
nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội
của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh và

25


×