ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN MAI HƢƠNG
NÂNG CAO NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG NGHỆ THUẬT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ
NỘI
Chuyên ngành
: CNDVBC & CNDVLS
Mã số
: 60. 22. 80
Người hướng dẫn khoa học: PGS- TIẾN SỸ PHẠM DUY ĐỨC
HÀ NỘI - NĂM 2011
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mở đầu Báo cáo phát triển con người thuộc Chương trình phát triển
của Liên Hợp Quốc công bố lần đầu tiên năm 1990 đã viết: “Của cải đích
thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục đích của sự phát
triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người được hưởng
cuộc sống dài lâu, mạnh khoẻ và sáng tạo. Chân lý đơn giản nhưng đầy sức
mạnh này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải vật chất và
tài chính” [88, tr.24].
Trong sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta hiện nay, chúng ta nhận thức
đây không chỉ là một quá trình nâng cao năng suất lao động, đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế, mà còn là một quá trình biến đổi xã hội và cuộc sống con
người một cách sâu sắc, đem lại cho con người một chất lượng sống mới
trong một xã hội phát triển cao. Trong sự nghiệp đó, con người không chỉ
được coi là chủ thể, là động lực, mà còn là mục đích cuối cùng cần hướng tới.
Những yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng CNH - HĐH là phải xây
dựng được con người mới có đầy đủ phẩm chất tinh thần và năng lực lực thực
tiễn tương ứng để đảm bảo thành công của sự nghiệp ấy. Như vậy, vấn đề
nâng cao năng lực sáng tạo cho con người được đặt lên hàng đầu trong tiến
trình CNH - HĐH.
Con người có lúc được nhìn nhận đơn thuần là là một nhân tố sản xuất,
góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội thì nay được đưa trở về đúng vị trí trung
tâm, nó vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Luật Giáo dục năm
2005 cũng đã nhấn mạnh: Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và quan tâm đầy
2
đủ đến giáo dục phẩm chất, đạo đức, ý thức công dân, giáo dục sức khoẻ và
thẩm mỹ cho học sinh là yêu cầu chiến lược phát triển giáo dục trong giai
đoạn mới ở nước ta. Có thể nói cùng với đức, trí, thể, giáo dục để nâng cao
năng lực thẩm mỹ là một trong những con đường hình thành nhân cách con
người Việt Nam hiện đại.
Trên bình diện mỹ học, nâng cao năng lực sáng tạo của con người cũng
có nghĩa là nâng cao năng lực thẩm mỹ của họ, xét về nghĩa rộng, tức là năng
lực hoạt động theo quy luật của cái đẹp.
Đảng ta luôn xác định sự nghiệp đổi mới đất nước là do thế hệ trẻ hiện
nay quyết định, trong đó sinh viên là lực lượng có vai trò quan trọng. Chính vì
vậy, sinh viên Việt Nam, bộ phận trí tuệ và ưu tú trong thanh niên, là nơi kết
tinh nhiều tài năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu
ngày càng được xã hội quan tâm và coi trọng. Đặc biệt, sinh viên các trường
nghệ thuật là những chủ thể hoạt động sáng tạo nghệ thuật tương lai của xã
hội, có một vị trí rất quan trọng trong quá trình xây dựng con người mới của
xã hội.
Sinh viên các trường nghệ thuật là những sinh viên đó được tuyển chọn
trên cơ sở năng khiếu bẩm sinh phù hợp với loại hình nghệ thuật được đào
tạo. Trình độ phát triển năng lực thẩm mỹ của họ phụ thuộc vào hai yếu tố
chính: năng khiếu bẩm sinh và quá trình được giáo dục, rèn luyện trong thực
tiễn. Nâng cao năng lực thẩm mỹ cho sinh viên nghệ thuật chính là làm cho
thế giới tinh thần của họ ngày càng phong phú, làm cho họ có khả năng đánh
giá nhanh, nhạy với cái đẹp. Trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
với việc nâng cao năng lực thẩm mỹ, sinh viên nghệ thuật không chỉ có khả
năng học tập để sáng tạo theo quy luật của cái đẹp trong điều kiện nhu cầu về
cái đẹp ngày càng gia tăng, mà còn có khả năng phản ứng mạnh mẽ trước mọi
biểu hiện của cái xấu, cái lạc hậu, phản tiến bộ.
3
Đứng trước nhu cầu hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, tốc động
chuyển biến của nền kinh tế thị trường; hiện tượng xa rời, phai nhạt lý tưởng
cách mạng, sa sút về phẩm chất đạo đức, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội,
thực dụng có chiều hướng phát triển. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi và đang là vấn đề xã hội bức xúc. Điều đáng lo ngại
nhất ở một bộ phận sinh viên có những biểu hiện của lối sống thực dụng, từ
đó dẫn đến tình trạng đối phó, gian lận, thiếu trung thực trước hết trong hoạt
động học tập. Từ những biểu hiện suy thoái về đạo đức, theo đó, cảm xúc
thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ của sinh viên đang có những
chuyển biến khó kiểm soát.
Do vậy, giáo dục thẩm mỹ nhằm mục đích nâng cao năng lực thẩm mỹ
cho sinh viên các trường nghệ thuật cần được xem là nhiệm vụ chiến lược
trong hoạt động giáo dục của nhà trường, góp phần giải quyết mối quan hệ
giữa đạo đức - trí tuệ - thể chất và thẩm mỹ trong sự phát triển con người ở
các mục tiêu giáo dục. Trong đó nhấn mạnh giáo dục về quan niệm cái đẹp nhất là cái đẹp con người Việt Nam, xã hội Việt Nam và các hình thức biểu
hiện trong giá trị truyền thống đậm đà trong bản sắc dân tộc và trong giá trị
hiện đại; biết đối sánh, phân biệt được cái đẹp và cái xấu, cái ác, cái giả tạo,
cái phù phiếm và cái thời thượng; biết bảo vệ và khẳng định cái mới, cái độc
đáo và cái hiện đại. Quan trọng hơn nữa cần khuyến khích sinh viên tự bộc lộ
cảm xúc, tự bộc lộ tình cảm thẩm mỹ cá nhân một cách sáng tạo mà không
theo khuôn mẫu, không theo công thức sẵn có hoặc định kiến của đám đông
và đặc biệt lưu tâm đến năng lực sáng tạo của chủ thể.
Trong các nhà trường nghệ thuật, hoạt động giáo dục thẩm mỹ thường
được nhấn mạnh trong các hoạt động giảng dạy các bộ môn chuyên ngành
nghệ thuật chứ chưa được chú trọng trên bình diện hoạt động giáo dục chung
của nhà trường, do đó mặc dù là những chủ thể sáng tạo nghệ thuật tương lai,
4
song vẫn còn tồn tại những biểu hiện yếu kém về mặt thẩm mỹ trong cuộc
sống, trong học tập và sáng tác những tác phẩm nghệ thuật.
Đó là những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục đào tạo ở các trường
nghệ thuật trong địa bàn Hà Nội. Do đó, đề tài "Nâng cao năng lực thẩm mỹ
cho sinh viên các trường nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội" có ý nghĩa to lớn
trong hoạt động giáo dục của nhà trường, góp phần đào tạo những sinh viên
nghệ thuật trở thành những người nghệ sỹ chân chính, đem lại lợi ích cho xã
hội, cho đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
* Trên bình diện tâm lý học:
- Vấn đề năng lực của con người đã được các nhà tâm lý học Liên Xô
như Ph.N.Golobolon, P.A. Ruđích, A.G. Covaliốp và một số nhà tâm lý học
đã xây dựng lý luận khoa học về năng lực.
- Các nhà tâm lý học Việt Nam như Phạm Minh Hạc, Nguyễn Ngọc
Bích, Đức Minh, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân có nhiều công trình nghiên cứu về
năng lực của con người.
* Trên bình diện mỹ học
Vấn đề về năng lực thẩm mỹ được nhắc đến trong các thành tựu nghiên
cứu về thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ, và vai trò của giáo dục thẩm mỹ.
+ Các công trình nước ngoài tiêu biểu như sau:
- Các công trình “Nguyên lý Mỹ học Mác-Lênin” của đồng tác giả I. U.
Lukin và V.C.Xcacherơsicốp đã khảo sát bản chất của giáo dục thẩm mỹ, coi
giáo dục thẩm mỹ là một phương diện quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển nhân cách con người, khẳng định vai trò to lớn của nghệ thuật đối với
giáo dục thẩm mỹ, nâng cao năng lực thẩm mỹ cho con người.
+ Các công trình nghiên cứu trong nước về giáo dục thẩm mỹ để nâng
cao năng lực thẩm mỹ cho nhân dân rất đa dạng và phong như:
5
- Trong cuốn “Giáo trình mỹ học Mác-Lênin” của PGS Đỗ Văn Khang
và GS Đỗ Huy trình bày một cách hệ thống cấu trúc của chủ thể thẩm mỹ và
giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật.
- Các công trình “Giáo dục thẩm mỹ - Một số vấn đề về lý luận và thực
tiễn của giáo sư Đỗ Huy (1987).
- “Văn hoá thẩm mỹ với sự hình thành nhân cách của con người Việt
nam hiện nay” luận án tiến sĩ của Lương Thị Quỳnh Khuê (1995).
- “Vai trò của văn học trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay” luận
án tiến sỹ của Lê Quang Vinh (1996).
- “Giáo dục thẩm mỹ, món nợ lớn đối với thế hệ trẻ” của GS, TSKH Đỗ
Thanh Hà (1997).
- “Văn hoá thẩm mỹ và việc xây dựng lối sống cho thanh niên đô thị ở
nước ta hiện nay” luận án thạc sỹ của Hồ Thị Tuyết Dung (1998).
- “Sự biến đổi những chuẩn mức đánh giá thẩm mỹ trong thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam” luận án tiến sỹ của Vũ Thị Kim Dung (2001).
- “Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta
hiện nay” luận án tiến sỹ của Trần Ngọc Tăng (2001).
- “Văn hoá thẩm mỹ và và sự phát triển năng lực sáng tạo của con
người” của tiến sỹ Nguyễn Ngọ Thu (2003).
- “Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ” của tiến sỹ Trần Tuý
(2005)...
Các công trình trên có tính chất chuyên sâu. Trên cơ sở lý luận mỹ học,
triết học, giáo dục học, các tác giả đã phân tích các giá trị thẩm mỹ, giáo dục
thẩm mỹ, vai trò của nghệ thuật, của các giá trị văn hoá truyền thống và giáo
dục văn hoá thẩm mỹ trong việc phát triển nhân cách nhằm xây dựng con
người mới, phát triển toàn diện con người, đặc biệt đối với thế hệ trẻ hiện nay.
Nhìn tổng thể những tài liệu trên đây, vấn đề năng lực và vấn đề năng
lực thẩm mỹ được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau như triết học, mỹ
6
học, tâm lý học, giáo dục học. Thực tế và kết quả của các hoạt động nghiên
cứu đó đề xuất mở nhiều hướng suy nghĩ, nhiều hướng triển khai cả về lý luận
và thực tiễn cho việc nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực này. Tuy nhiên, chính
những kết quả nghiên cứu trên gợi mở một hướng nghiên cứu còn đang bỏ
ngỏ là: Nghiên cứu năng lực thẩm mỹ trên bình diện mỹ học với khách thể là
sinh viên các trường nghệ thuật - một chủ thể hoạt động sáng tạo nghệ thuật
tương lai của xã hội.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: "Nâng cao năng lực thẩm
mỹ của sinh viên các trường nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ khái niệm năng lực thẩm mỹ, đề tài nghiên cứu đặc
điểm của năng lực thẩm mỹ của sinh viên các trường nghệ thuật trong địa bàn
Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính định hướng nhằm
nâng cao năng lực thẩm mỹ của sinh viên các trường nghệ thuật trên địa bàn
Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống một số vấn đề lý luận về năng lực, năng lực thẩm mỹ.
- Phân tích đặc điểm năng lực thẩm mỹ của sinh viên các trường nghệ
thuật trên địa bàn Hà Nội.
- Trình bày một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực thẩm mỹ của sinh
viên các trường nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu
7
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về năng lực thẩm mỹ nói
chung, những biểu hiện của năng lực thẩm mỹ của sinh viên trong các trường
nghệ thuật trên địa bàn Hà nội.
*Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những biểu hiện năng lực thẩm mỹ của
sinh viên trong các trường nghệ thuật công lập trên địa bàn Hà Nội trong khóa
học 2006 – 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và dựa theo các định hướng
quan điểm của Đảng về bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với phương châm:
văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu, đồng thời là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc phương pháp luận căn bản để giải quyết vấn đề đặt ra là
nguyên tắc thực tiễn và phát triển. Từ nguyên tắc căn bản đó, đề tài phối hợp
sử dụng các phương pháp tiếp cận và nghiên cứu hệ thống, phương pháp phân
tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh...
6. Đóng góp của luận văn
- Đề tài góp phần làm rõ khái niệm năng lực thẩm mỹ.
- Đề tài cố gắng phân tích đặc điểm năng lực thẩm mỹ của sinh viên các
trường nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội. Từ đó góp phần đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao năng lực thẩm mỹ của sinh viên các trường nghệ thuật
trong địa bàn Hà Nội.
- Những kết quả của đề tài là tư liệu tham khảo tin cậy, góp phần đổi
mới công tác đào tạo, giáo dục toàn diện trong các trường nghệ thuật trong địa
bàn Hà Nội, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng
dạy và nghiên cứu hiện nay.
8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, … tiết:
Chƣơng 1: Năng lực thẩm mỹ của sinh viên các trường nghệ thuật Một số vấn đề lý luận.
Chƣơng 2: Thực trạng năng lực thẩm mỹ sinh viên các trường nghệ
thuật trên địa bàn Hà Nội.
Chƣơng 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao năng
lực thẩm mỹ của sinh viên các trường nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội.
9
Chƣơng 1
NĂNG LỰC THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN
CÁC TRƢỜNG NGHỆ THUẬT - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm năng lực thẩm mỹ
1.1.1. Định nghĩa năng lực thẩm mỹ
Trong tiến trình lịch sử, năng lực người (lực lượng bản chất người)
không ngừng được đổi mới trên cơ sở hoạt động lao động sáng tạo. Sự phân
công và chuyên môn hóa của lao động đã dẫn đến sự chuyên môn hóa những
năng lực của con người. Mác viết: “Sự phân hóa tài năng tự nhiên ở những cá
nhân không chỉ là nguyên nhân mà còn là kết quả của sự phân công lao
động”. Năng lực người của các thế hệ trước được kết tinh lại trên các sản
phẩm (vật chất và tinh thần) do họ làm ra. Muốn trở thành người, bằng hoạt
động của mình, thế hệ sau phải lấy lại những năng lực ấy và biến nó thành
năng lực riêng của mỗi người. Như vậy, năng lực của mỗi người bao giờ cũng
gắn liền với sản phẩm của chính hoạt động ấy. Năng lực chỉ được hình thành
và phát triển trong hoạt động. Đến lượt nó, kết quả của hoạt động lại tùy
thuộc vào trình độ phát triển của năng lực được hình thành trong hoạt động
này. Vì thế, khi nói đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói đến năng lực về
một hoạt động nào đó (năng lực về hoạt động chính trị - xã hội, năng lực về
hoạt động khoa học - kỹ thuật, năng lực về hoạt động nghệ thuật…). A.G.
Côvaliốp trong Tâm lý học cá nhân đưa ra định nghĩa về năng lực như sau:
Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính tâm lý của cá
nhân con người, đáp ứng những nhu cầu của hoạt động và bảo đảm cho
hoạt động có kết quả cao [4, tr.90].
Như vậy, năng lực là khả năng con người thực hiện có kết quả tốt một
loại hoạt động nào đó. Năng lực thẩm mỹ của con người cũng chỉ được hình
thành và phát triển khi con người tham gia vào các hoạt động thẩm mỹ của xã
10
hội. Hoạt động thẩm mỹ là một hoạt động thuộc về hình thái ý thức xã hội.
Hoạt động thẩm mỹ là hoạt động của con người nhằm nhận thức, khám phá,
sáng tạo các giá trị thẩm mỹ, đưa yếu tố thẩm mỹ vào các lĩnh vực của đời
sống, làm phong phú, sâu sắc, nhuần nhụy thêm thế giới tinh thần của con
người và xã hội. Theo cách nói của Mác, hoạt động thẩm mỹ là phương thức
con người "chiếm lĩnh", "đồng hóa" thế giới một cách thẩm mỹ. Trong tất cả
các dạng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nhằm
"đồng hóa thế giới" (tức nhằm hiểu biết, cải tạo hiện thực và xác lập mối quan
hệ hài hòa giữa con người - xã hội - tự nhiên), thì cách thức con người "đồng
hóa thế giới" một cách thẩm mỹ là hoạt động cao cấp nhất. Con người, xã hội
chỉ có khả năng đạt tới trình độ của hoạt động này khi có sự phát triển cao về
văn hóa.
Xét về nguồn gốc, hoạt động thẩm mỹ thuộc lĩnh vực hoạt động "sản
xuất tinh thần" được hình thành gắn liền với quá trình lao động sản xuất vật
chất của xã hội. Chính nhờ quá trình lao động này, năng lực thẩm mỹ cùng hệ
thống nhu cầu, lợi ích và mục đích thẩm mỹ của con người được sản sinh ra
và ngày càng phát triển. Lao động làm hoàn thiện con người về mặt thể chất,
làm “phong phú về tính cảm giác chủ quan” trên cơ sở hoàn thiện các giác
quan, tạo cho con người “khả năng về sự hưởng thụ có tính chất người và sự
khẳng định mình như những lực lượng bản chất người”. Mác coi hoạt động
sản xuất của cải vật chất là dạng hoạt động cơ bản nhất, tạo cơ sở cho các
“hoạt động sản xuất tinh thần”, xem đó như là tiền đề đầu tiên của sự tồn tại
và sáng tạo. Như vậy, “những lực lượng bản chất của con người” trước hết
phải kể đến lao động, cùng với lao động là sự phát triển của tư duy, ngôn ngữ;
thống nhất với quá trình ấy là từng bước hoàn thiện dần của tổ chức thể xác
với dáng đứng thẳng, đôi bàn tay trở nên khéo léo, các giác quan trở nên có
tính người, đặc biệt là tai và mắt ngày càng trở nên tinh tế trong việc cảm
nhận cái đẹp.
11
Tính sáng tạo là một đặc điểm nổi bật của hoạt động thẩm mỹ. Sáng tạo
thẩm mỹ là một hoạt động tinh thần thể hiện rõ nét sự tinh tế, đa dạng, phong
phú, độc đáo, đầy cá tính của năng lực thẩm mỹ của mỗi cá nhân. Nó đòi hỏi
sự phát huy tới mức cao độ những phẩm chất của tư duy như khả năng tưởng
tượng, khái quát hóa, trừu tượng hóa, khả năng liên tưởng, so sánh, tư duy
hình tượng v.v... nhằm xây dựng thế giới các biểu tượng vừa phản ánh được
đúng đắn, chân thực thực tại, vừa đạt tới hình thái lý tưởng, hoàn thiện, hoàn
mỹ trong xu hướng vươn tới của hiện thực, giúp định hướng cho mọi hoạt
động thực tiễn của con người. Sáng tạo thẩm mỹ đòi hỏi ở con người với tư
cách chủ thể thẩm mỹ không chỉ những năng khiếu bẩm sinh thuộc tư chất cá
nhân mà cả một quá trình không ngừng học tập, trau dồi tri thức, khả năng
nghề nghiệp một cách thực sự nghiêm túc và với niềm say mê vô hạn với
công việc trong phạm vi hoạt động thực tiễn của mình. Hoạt động thẩm mỹ,
do vậy, chính là dạng hoạt động mang tính tự do. Tham gia vào lĩnh vực hoạt
động này, con người không còn bị ràng buộc bởi những nhu cầu vật chất trực
tiếp, không còn bị “giới hạn” trong những hạn chế của điều kiện, hoàn cảnh
khách quan mà hoàn toàn do sự thôi thúc bởi khát khao sáng tạo và mục tiêu
vươn tới sự hài hòa, hoàn thiện bản thân mình và xã hội. Tính tự do của hoạt
động thẩm mỹ thể hiện ở tình yêu “vô tư không vụ lợi”; ở sự chủ động, tích
cực, tự giác với một khoái cảm tinh thần và sự thôi thúc mãnh liệt của chủ thể
tự nâng mình lên với tư cách chủ thể thẩm mỹ, tự đặt mình vào thế giới của
cái đẹp để nhận thức, khám phá và sáng tạo. Biết bao phát kiến khoa học thiên
tài, bao kiệt tác nghệ thuật ra đời, tạo nên bề dầy của kho tàng văn hóa nhân
loại chính là sản phẩm của "tính tự do" và "tính sáng tạo" trong hoạt động sản
xuất tinh thần của con người đã đạt tới trình độ của hoạt động thẩm mỹ.
Hoạt động thẩm mỹ là biểu hiện đặc thù của quá trình “nhào nặn vật
chất theo quy luật của cái đẹp”, một phẩm chất văn hóa của hoạt động người.
Nhào nặn vật chất, sáng tạo theo quy luật của cái đẹp có nghĩa là sự phát hiện
12
ra “độ” vốn có của sự vật và tính tới nó trong quá trình cải tạo hiện thực.
Trong sáng tạo thẩm mỹ, việc phát hiện ra cái “độ” của sự vật, hiện tượng,
tức là tìm được một hình thức biểu hiện tốt nhất những thuộc tính bản chất
của một sự vật, hiện tượng mà ở đó đạt tới sự hài hòa tuyệt vời giữa hình thức
và nội dung. Trong phạm vi các sự vật, hiện tượng của “tự nhiên thứ hai”, sự
thể hiện của “độ” được xem như sự thể hiện của ý đồ thẩm mỹ trong quá
trình sáng tạo nhằm tạo ra những sản phẩm vừa thỏa mãn nhu cầu thực dụng,
vừa đem lại những cảm xúc thẩm mỹ cho con người. Điều này liên quan chặt
chẽ tới năng lực thẩm mỹ, tới sự nhạy cảm của con người đã phát triển, khi sự
nhạy cảm của con người đã phát triển. Như vậy, ở những sản phẩm do con
người làm ra vừa thể hiện được cái độ vốn có của từng loại sự vật hiện tượng
vừa thể hiện trình độ phát triển của con người, trong đó có sự nhạy cảm thẩm
mỹ. Sáng tạo “theo quy luật của cái đẹp” là phẩm chất cao của con người, thể
hiện trình độ nhân tính của con người đã phát triển.
Năng lực thẩm mỹ là tổng thể các thuộc tính tâm lý, sinh lý cùng
những phẩm chất đặc biệt về thể chất và tinh thần mà con người có được
trong suốt quá trình hình thành, phát triển nhân cách, giúp con người tự khẳng
định mình với tư cách là chủ thể thẩm mỹ có khả năng cảm thụ, đánh giá,
sáng tạo các giá trị thẩm mỹ trong đời sống thực tại. Năng lực thẩm mỹ biểu
hiện trước hết ở trình độ phát triển của ý thức thẩm mỹ. Đồng thời, năng lực
thẩm mỹ về cơ bản là một năng lực thực tiễn chỉ có ở con người đã phát triển.
Theo Mác, nhân loại đã phải tiến một bước dài để thực hiện sự cải biến mình
từ tư cách chủ thể người thành chủ thể thẩm mỹ. Chỉ khi có sự xuất hiện “khả
năng về sự hưởng thụ có tính chất người” và sự khẳng định mình như những
“lực lượng bản chất người”, thì khi đó con người mới xuất hiện và tự biểu
hiện mình với tư cách chủ thể thẩm mỹ. Nhờ năng lực thẩm mỹ phát triển,
con người mới có khả năng thực hiện các hoạt động sản xuất vật chất và tinh
thần đạt tới tính sáng tạo cao nhất, để con người có thể “đối diện một cách tự
13
do với sản phẩm của mình” (tức thế giới các giá trị do chính mình tạo ra) với
tư cách chủ thể sáng tạo. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu và khát vọng của
con người vươn tới cái đẹp ngày càng tăng, năng lực khám phá, thưởng thức,
sáng tạo cái đẹp trong mọi lĩnh vực của cuộc sống ngày càng phát triển. Do
đó, trình độ của năng lực thẩm mỹ ngày càng trở thành một trong những
thước đo quan trọng để đánh giá về chất lượng cuộc sống, về mục tiêu và mức
độ vươn tới sự hài hòa, hoàn thiện của cá nhân và xã hội. Mác đã chỉ rõ:
Súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình, còn con người thì tái
sản xuất ra toàn bộ tự nhiên; sản phẩm của súc vật trực tiếp gắn với cơ
thể vật chất của nó, còn con người thì đối lập một cách tự do với sản
phẩm của mình. Súc vật chỉ biết nhào nặn vật chất theo thước đo và
nhu cầu giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước
đo của bất cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích
dụng cho đối tượng; do đó, con người cũng nhào nặn vật chất theo quy
luật của cái đẹp [62, tr.93-94].
Với quan điểm về “lực lượng bản chất của con người” như trên, có thể
nói rằng, năng lực thẩm mỹ là một phẩm chất bậc cao của lực lượng bản chất
ấy. Với năng lực này, con người không chỉ là chủ thể người, mà còn là một
chủ thể thẩm mỹ. Khi xét con người như một chủ thể của lịch sử thì trong quá
trình tự khẳng định mình, chủ thể người có trước chủ thể thẩm mỹ. Nhân loại
phải đi một bước khá dài mới từ chủ thể người tiến tới chủ thể thẩm mỹ. Chủ
thể thẩm mỹ là một chủ thể xã hội có ý thức thẩm mỹ phát triển và có năng
lực thẩm mỹ sáng tạo với sự hoàn thiện của các giác quan, đặc biệt là tai và
mắt cùng với sự khéo léo của đôi bàn tay đã được rèn luyện nhờ quá trình lao
động và đồng hóa thế giới về mặt thẩm mỹ.
Sự hình thành năng lực thẩm mỹ là yếu tố quyết định cho bước chuyển
từ chủ thể người tới chủ thể thẩm mỹ mà trước hết cần nói đến sự hoàn thiện
của các giác quan thẩm mỹ, trong đó sự hoàn thiện của tai và mắt có ý nghĩa
14
bản chất nhất, bởi chúng là những giác quan có tính người cao nhất và là cửa
ngõ của sự cảm thụ cái đẹp. Không chỉ trong tư duy mà còn bằng tất cả các
giác quan, con người đã tự khẳng định sự tồn tại của mình trong thế giới
khách quan. Trên cơ sở của một chủ thể người (có tư duy, ngôn ngữ, lao
động), sự nhạy cảm của các giác quan thẩm mỹ đã làm chỗ dựa cho sự phát
triển tư duy hình tượng, khả năng liên tưởng, so sánh và ngôn ngữ giàu sắc
thái biểu cảm. Đó là những thuộc tính chủ đạo của năng lực thẩm mỹ, thuộc
tính quyết định nhất để có một chủ thể thẩm mỹ. Mác đã viết rằng:
Chỉ có thông qua sự phong phú đã được phát triển về mặt vật
chất của bản thân con người thì sự phong phú của tính cảm giác chủ
quan của con người mới phát triển và một phần, thậm chí lần đầu tiên
mới được sản sinh ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp
của hình thức [62, tr.56].
Năng lực thẩm mỹ về cơ bản là một năng lực thực tiễn. So với các năng
lực khác của con người thì sự hình thành, phát triển năng lực thẩm mỹ đòi hỏi
một quá trình giáo dục, rèn luyện công phu, nghiêm ngặt hơn nhiều. Trình độ
phát triển của năng lực lực thẩm mỹ ở mỗi người phụ thuộc vào hai yếu tố
chính: năng khiếu bẩm sinh và quá trình được giáo dục, rèn luyện trong thực
tiễn. Năng lực thẩm mỹ là năng lực được hình thành ở con người đã phát
triển, tuy có yếu tố bẩm sinh nhưng điều kiện quyết định nhất cho sự hình
thành và phát triển của nó là hoạt động thực tiễn.
Mỗi con người có thể tích hợp trong mình nhiều năng lực tiềm ẩn,
nhưng dạng năng lực tiểm ẩn đó có được bộc lộ ra hay không, điều đó còn tùy
thuộc vào hàng loạt những điều kiện chủ quan và khách quan. Đối với nhiều
người có tài năng đặc biệt, năng lực của họ đạt đến mức kỳ diệu, khiến họ đạt
tới đỉnh cao ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tác phẩm Văn hóa thẩm mỹ và
nhân cách, Lương Quỳnh Khuê định nghĩa:
15
Năng lực thẩm mỹ là một tập hợp các thuộc tính tâm, sinh lý
cùng với những phẩm chất đặc biệt về thể chất và tinh thần giúp cho cá
nhân có khả năng cảm thụ, nhận thức, đánh giá và sáng tạo các giá trị
thẩm mỹ trong cuộc sống [50, tr.14].
Khoa học ngày nay đã chứng minh rằng những khả năng thẩm mỹ ở
dạng năng khiếu ban đầu như vậy nếu không xã hội hóa liên tục thì không đủ
sức cải tạo các quan hệ thực tiễn. Những khả năng ấy chủ yếu gắn liền với các
hoạt động sống ở những thời kỳ còn rất nhỏ tuổi và chưa tham gia nhiều vào
các hoạt động thẩm mỹ. Về cơ bản, năng lực thẩm mỹ không phải là năng lực
bẩm sinh mà nó được xây trên và được biểu hiện qua thực tiễn, có nghĩa là
thực tiễn chi phối mọi cấp độ của năng lực thẩm mỹ. Cấp độ mạnh yếu của
xúc cảm thẩm mỹ, cấp độ nông sâu của tình cảm thẩm mỹ, cấp độ đúng sai
của thị hiếu thẩm mỹ, sức mạnh của lý tưởng thẩm mỹ đều được năng lực
thực tiễn chi phối. Hoạt động thẩm mỹ với tư cách là hoạt động nhằm thông
qua các giá trị thẩm mỹ mà cải tạo đời sống và cải tạo bản thân mình có ý
nghĩa thực tiễn to lớn. Trong quá trình đó con người đã trở thành nghệ sỹ và
cuộc sống đã được con người thẩm mỹ hóa. Đó là những con người đã được
rèn luyện về mặt thẩm mỹ và đã hình thành những năng lực thẩm mỹ trong
thực tiễn.
1.1.2. Cơ cấu của năng lực thẩm mỹ
Mỗi con người đều có một năng lực thẩm mỹ nhất định và phát triển ở
những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào năng khiếu bẩm sinh và điều quyết
định hơn là trong quá trình tu dưỡng rèn luyện, học tập trong hoạt động thực
tiễn của mỗi người. Mỗi loại năng lực đều có một cấu trúc riêng dù đó là năng
lực sư phạm, năng lực khoa học hay năng lực thẩm mỹ. Xét ở góc độ mỹ học,
nói đến năng lực thẩm mỹ là nói đến trình độ của tình cảm thẩm mỹ, đặc biệt
là nhu cầu thẩm mỹ, xúc cảm thẩm mỹ, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ.
16
1.1.2.1. Nhu cầu thẩm mỹ
Nhu cầu thẩm mỹ của con người là một mặt quan trọng của năng lực
thẩm mỹ, là cơ sở để phát triển năng lực thẩm mỹ. Nhu cầu thẩm mỹ là khát
vọng của con người về cái đẹp và xóa bỏ cái xấu. Đây là lĩnh vực khá tinh tế
của chủ thể. Nhu cầu thẩm mỹ của con người, tuy là nhu cầu của một chủ thể,
nhưng nó lại tham gia vào biểu hiện tiềm năng văn hóa, tiềm năng sáng tạo
của xã hội.
Gorơki nói: “Con người, về bản chất là một nghệ sỹ, ở đâu con người
cũng mong muốn mang cái đẹp vào cuộc sống của mình”, có nghĩa là nhu cầu
thẩm mỹ tượng trưng cho lẽ sống, điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi chủ
thể thẩm mỹ. Theo tác giả Đỗ Huy:
Nhu cầu thẩm mỹ là trạng thái cần thiết đòi hỏi thỏa mãn các thiếu hụt
về mặt thẩm mỹ mà trung tâm là thỏa mãn về cái đẹp [39, tr.245].
Với định nghĩa này tác giả đã làm rõ nội dung của khái niệm nhu cầu
thẩm mỹ đó là trạng thái thiếu hụt về mặt thẩm mỹ, đòi hỏi được thỏa mãn
những thiếu hụt về mặt thẩm mỹ, đặc biệt là sự thiếu hụt về cái đẹp trong đời
sống tinh thần của con người.
Cảm thụ và sáng tạo cái đẹp là nhu cầu tinh thần - cảm tính đặc biệt của
con người. Loại nhu cầu này chỉ xuất hiện khi loài người đạt tới một trình độ
phát triển nhất định. Chiều hướng phát triển của hoạt động thẩm mỹ và toàn
bộ năng lực thẩm mỹ, trước hết phụ thuộc vào nhu cầu thẩm mỹ.
Người ta thường chia khát vọng về cái đẹp của con người thành hai
loại: các nhu cầu chính và nhu cầu giả tạo, xa xỉ. Những nhu cầu chính đáng
thường được biểu hiện ở các chủ thể có ý thức đúng, có tình cảm mạnh, có
thái độ tốt. Còn những nhu cầu giả tạo thường có ở những chủ thể ít rèn luyện
trong thực tế, xa lao động, nhiều ảo tưởng, lười biếng và ích kỷ. Càng khát
khao vươn tới cái đẹp, con người càng rời xa khỏi điểm xuất phát của những
nhu cầu thực dụng thô thiển và trực tiếp, những đòi hỏi bản năng. Cả hai loại
17
nhu cầu này đều tham gia hình thành năng lực thẩm mỹ của chủ thể và đều có
khả năng tồn tại trong một chủ thể thẩm mỹ. Vấn đề chính là ở mối liên hệ
của chủ thể ấy với thực tiễn cuộc sống như thế nào để phát triển những nhu
cầu lành mạnh, tạo một sức sống, một sắc thái cho năng lực thẩm mỹ.
Trong quá trình tìm kiếm sự thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của mình, con
người vừa tìm cách tiếp xúc, hòa nhập với cái chung, cái phổ biến mang tính
nhân loại, lại vừa tách mình ra để nhận thức, tự khẳng định cá tính độc đáo
của mình. Chính vì thế, nhu cầu thẩm mỹ là một loại năng lực phản ánh cảm
tính mang dấu ấn tình cảm cá nhân về những gì cần thiết, phổ biến trong xã
hội. Bản chất sâu xa của loại nhu cầu này là vừa cố gắng vật chất hóa “những
lực lượng bản chất” của con người trong đối tượng tương ứng, vừa tự điều
tiết và tổ chức lại toàn bộ trạng thái tính thần của cá nhân trong hưởng thụ và
sáng tạo thẩm mỹ.
Nhu cầu thẩm mỹ là loại nhu cầu tinh thần những chỉ có thể được thỏa
mãn bằng vật chất, bằng những sự vật hiện tượng có hàm chứa giá trị thẩm
mỹ. Kết cấu hình thức - nội dung của sự vật cụ thể - toàn vẹn chính là yếu tố
tác động trực tiếp đến con người, làm thỏa mãn hoặc không thỏa mãn nhu cầu
thẩm mỹ của họ. Mặt khác, bản chất xã hội khách quan rộng lớn của giá trị
thẩm mỹ đã khiến cho vật thể chứa đựng nó có khả năng thỏa mãn nhu cầu,
vừa đóng vai trò định hướng sự phát triển của nhu cầu. Thực ra, sau khi nảy
sinh, nhu cầu thẩm mỹ luôn đòi hỏi được thỏa mãn bằng mọi cách, dù nhu cầu
đó có hợp lý hay không, chính đáng hay giả tạo. Nếu chính đáng hợp lý, khi
được thỏa mãn, nhu cầu không những được phát triển mà còn góp phần thúc
đẩy sự phát triển nhân cách của người có nhu cầu. Một nhân cách đẹp trước
hết phải là con người không ngừng vươn tới sự hoàn thiện - hoàn mỹ. Một xã
hội văn minh phải là một xã hội có được những điều kiện vật chất và tinh thần
cần thiết để thỏa mãn nhu cầu nhiều mặt của mỗi thành viên trong xã hội.
18
Nhu cầu thẩm mỹ của con người, tuy là nhu cầu của một chủ thể,
nhưng nó lại tham gia vào biểu hiện tiềm năng văn hóa, tiềm năng sáng tạo
của xã hội. Là công cụ, là phương tiện của cá nhân tự liên hệ với xã hội của
mình, nhu cầu thẩm mỹ biểu hiện năng lực thẩm mỹ, trình độ thụ cảm và sáng
tạo của cá nhân. Nhưng cá nhân ấy nằm trong cơ chế với môi trường xã hội.
Vì thế, năng lực thẩm mỹ của các nhân có quan hệ mật thiết với sự phát triển
xã hội.
Mối quan hệ giữa nhu cầu thẩm mỹ, trình độ thẩm mỹ, năng lực thẩm
mỹ ở cá nhân đối với xã hội được biểu hiện ở chỗ xã hội là điều kiện để nhu
cầu phát triển và khi những nhu cầu tốt đẹp ra đời càng chứng minh, càng
thúc đẩy tính ưu việt của xã hội. Vì thế, để phát triển các năng lực thẩm mỹ cả
cá nhân và xã hội đều có trách nhiệm.
Có thể nói nhu cầu thẩm mỹ của con người như thế nào thì năng lực
thẩm mỹ của con người như thế ấy. Vì thế việc phấn đấu lành mạnh hóa nhu
cầu cũng là phấn đấu nâng cao năng lực thẩm mỹ ở chủ thể con người.
1.1.2.2. Tình cảm thẩm mỹ
Những tình cảm thẩm mỹ và nhu cầu thẩm mỹ gắn bó hữu cơ với nhau.
Sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ đã làm nảy sinh tình cảm
thẩm mỹ ở con người. Đó là loại tình cảm đặc thù xuất hiện trong quá trình
cảm thụ và sáng tạo các hiện tượng thẩm mỹ trong cuộc sống cũng như trong
tác phẩm nghệ thuật. Là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan, tình cảm
thẩm mỹ chỉ hình thành khi con người tiếp xúc, tri giác các khách thể đặc biệt
- các tác phẩm nghệ thuật, sản phẩm đẹp của lao động, vẻ đẹp của tự nhiên.
Những tình cảm đó kích thích tích cực về mặt xã hội của con người, điều tiết
hành vi của họ và tác động đến sự hình thành những lý tưởng chính trị - xã
hội, thẩm mỹ, đạo đức của cá nhân M.F.Ốpxiannhicốp viết:
Tình yêu đối với cái đẹp là tình yêu cuộc sống, sự sáng tạo, việc
đấu tranh vì những lý tưởng cao cả. Tình yêu đối với cái đẹp chắp cánh
19
cho con người, làm cho cuộc sống của họ trở nên có hồn, làm nó đầy ý
nghĩa và nội dung sâu sắc. Trong cái đẹp thể hiện khát vọng vươn tới
hạnh phúc, tự do, điều thiện, sự thông tuệ, sự lớn lao về đạo đức. Người
nào có khả năng hiểu và đánh giá đúng cái đẹp, sẽ trở thành phong phú
hơn về mặt tinh thần, trong sáng hơn về đạo đức, họ cảm nhận và thể
nghiệm sâu sắc hơn, hào phóng hiến mình cho những người khác. Con
người là người đổi mới, nghệ sỹ lớn, người sáng tạo thì đồng thời cũng
là mẫu mực của sự phát triển thẩm mỹ cao [71, tr.809].
Là bộ phận quan trọng của tình cảm, cũng như các tình cảm khác, tình
cảm thẩm mỹ phản ánh các đặc điểm, quá trình vận động của các hiện tượng
thẩm mỹ khách quan. Thế giới phong phú của tình cảm thẩm mỹ đều phản
ánh sự phong phú của thế giới thẩm mỹ thực tại. Tình cảm đẹp là tình cảm
phản ánh những giá trị của các tác động sống sinh động vươn tới cái hoàn
thiện. Tình cảm hài hước là phản ánh cái thiếu hài hòa của cuộc sống, cái
trống rỗng về nội dung và khoa trương về hình thức nhưng lại núp dưới danh
nghĩa cái tốt cái đẹp. Tình cảm về cái bi phản ánh nỗi thương xót, đồng cảm
với cái đẹp bị mất mát một cách tạm thời. Còn tình cảm kính mến, mong
muốn noi gương, thúc giục con người hành động là phản ánh các hành động
trác tuyệt ở ngoài đời sống. Sự phong phú thực sự của thế giới tình cảm thẩm
mỹ được biểu hiện ở quá trình chủ thể tiến sâu vào đối tượng.
Tình cảm thẩm mỹ cũng như các loại tình cảm khác, vốn là một thuộc
tính tâm lý tương đối ổn định, nó được hình thành khi con người tiến hành tri
giác thẩm mỹ đối với đối tượng và bộc lộ ra bằng cảm xúc. Nếu tình cảm thẩm
mỹ thường lắng đọng sâu kín, thì cảm xúc thẩm mỹ thường được phơi bày
trong các sắc thái diễn cảm của nét mặt, điệu bộ, trong ngữ điệu lời nói… Nhờ
các biểu hiện cảm xúc, tình cảm của người này được lan truyền tới người khác.
Cảm xúc thẩm mỹ là những cảm giác đem lại sự rung động cho con
người, làm biến động thế giới bên trong. Đó là những cảm nhận đầu tiên của
20
con người bằng trực giác và cảm giác mang tính người. Chỉ có con người mới
có khả năng rung động và cảm nhận hết sự xao động tinh tế của cái đẹp quanh
ta. Trong quá trình tiến hoá của nhân loại, con người đã từng bước biến năm
giác quan bản năng thành giác quan của con người rồi tiếp tục biến các giác
quan đó có khả năng tiếp nhận nghệ thuật. Nghệ thuật đi qua hai cửa ngõ tâm
hồn, hai giác quan phong phú nhất là: thị giác và thính giác. Đó là hai giác
quan thẩm mỹ cao cấp của con người. Cảm xúc thẩm mỹ là khâu đầu tiên có
vai trò rất quan trọng đối với hoạt động thẩm mỹ. Tsecnưxepxki đã nói về vấn
đề này như sau:
Gây được cảm xúc vui thú trong sáng, một cảm xúc say sưa hình
như là vô tư, được mệnh danh là cảm xúc đặc biệt của sự thưởng thức
nghệ thuật thì trong điều kiện đó, sự hiểu biết nghệ thuật và sự sáng tạo
nghệ thuật mới có thể trở thành một hoạt động thẩm mỹ được. Giá trị
thẩm mỹ của đối tượng được đánh giá qua hai mức độ cảm xúc mà nó
gây được ở chủ thể thẩm mỹ. Không có cảm xúc, quan hệ con người và
thế giới chỉ là quan hệ nhận thức lạnh lùng khô cứng. Cảm xúc thẩm
mỹ được nảy sinh trên cơ sở tính tập trung, tính cường độ và tính thẩm
mỹ luôn gắn với sự rung động bên trong của con người, đem lại sự
thích thú thưởng ngoạn của con người [79, tr.120].
Những xúc động thẩm mỹ vốn là những xúc động thường đến đột ngột.
Ta vui tươi sảng khoái trước những hiện tượng đẹp nào đó thường là phản ứng
tức thời. Cũng như thế nếu ta cười nhạo những thói xấu đứng trên tư thế của kẻ
mạnh thì tiếng cười ấy cũng hồn nhiên mau lẹ. Một cảnh đẹp của thiên nhiên
như hoa nở rực ngày xuân, biển thanh bình, mênh mông vô tân, núi mùa thu in
đáy nước đã gây cho ta niềm xúc động, tạo cho ta trạng thái tâm lý thoải mái
ngay từ những quan sát đầu tiên chưa kịp suy nghĩ, chưa tính toán cá nhân,
chưa theo đuổi mục đích. Nhiều người lầm tưởng cảm giác đột nhiên này là vô
mục đích và vô tư. Sự thực thì sự hân hoan nhanh nhạy với các cảnh vật là do
21
sự thích ứng của bản thân con người với hoàn cảnh xung quanh đã là sự phản
ứng có tích luỹ của các kinh nghiệm thẩm mỹ từ đời này qua đời khác và các
kinh nghiệm thẩm mỹ của cá nhân ở xã hội này hay xã hội khác. Sự dễ chịu,
hồn nhiên đến kịp thời trước một hiện tượng nào đó thức tỉnh trong tiềm năng
chủ thể những xúc cảm về cái hoàn thiện. Người ta có thể đứng hàng giờ chiêm
ngưỡng bức tượng “thần vệ nữ”. Sự thích thú của người ta không phải là sự
thích thú đơn thuần trước tảng đá được tạo thành người. Thích thú đã nảy sinh
ở chúng ta chính vì bức tượng “thần vệ nữ” đã khêu gợi chúng ta đến vẻ đẹp
hoàn mỹ phù hợp với ước mơ mà người ta có thể có được về con người.
Có sự khác nhau rất lớn giữa những tình cảm thẩm mỹ hàng ngày do
hình tượng đưa lại và những tình cảm thẩm mỹ trong sáng tạo nghệ thuật.
Hàng ngày có rất nhiều các hình tượng đã diễn biến trong đầu óc của chủ thể
thẩm mỹ, nhưng chỉ có rất ít các hình tượng được chọn lọc để đưa vào tác
phẩm và càng ít hơn nữa những hình tượng có giá trị thẩm mỹ cao. Giá trị của
hình tượng trước hết phụ thuộc vào trình độ sâu sắc của tình cảm thẩm mỹ.
Tình cảm thẩm mỹ giúp người ta gạn đục, khơi trong, gạt bỏ những hình
tượng nhạt nhẽo và tập trung vào những hình tượng bản chất của cuộc sống.
Khi quan sát và thâm nhập vào cuộc sống, chủ thể thẩm mỹ nhờ có tình cảm
thẩm mỹ mà phát hiện được những hình tượng biểu hiện đúng chiều hướng tất
yếu của cuộc sống.
Tình cảm thẩm mỹ của cá nhân hay của xã hội đều có tính hoàn chỉnh
của nó. Tình cảm thẩm mỹ của mỗi cá nhân bắt đầu từ xúc cảm thẩm mỹ,
thông qua khoái cảm thẩm mỹ, được ổn định ở thị hiếu và hoàn chỉnh ở lý
tưởng thẩm mỹ.
1.1.2.3. Thị hiếu thẩm mỹ
Là một biểu hiện quan trọng của năng lực thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ
giúp con người tiến sâu hơn vào thế giới thẩm mỹ bằng những mẫn cảm đặc
biệt và đạt được những thói quen trong thưởng thức và sáng tạo. Không có thị
22
hiếu thẩm mỹ thì không có cuộc sống đẹp, vì vậy thị hiếu thẩm mỹ được coi
là một phần của tiềm năng sáng tạo của con người và cũng là thước đo của
một phẩm cách văn hoá.
Thị hiếu là một khái niệm bao hàm những nội dung trong cuộc sống rất
đa dạng. Thị hiếu hiểu theo đúng nghĩa của từ này là là khả năng lựa chọn phổ
biến của con người, là sở thích trong mọi lĩnh vực của cá nhân và tập thể. Thị
hiếu, nói chung là sở thích. Sở thích đó rất phong phú bao trùm trong toàn bộ
lãnh vực đời sống, đạo đức, tâm hồn và nghệ thuật. Sở thích này gần như là
thói quen của từng người trong sinh hoạt cá nhân, gia đình và xã hội. Thị hiếu
là sự nhạy cảm về cái đẹp, là khả năng nhận biết và phản ứng tức thời của chủ
thể trong việc đánh giá tiếp nhận và sáng tạo thẩm mỹ. Thị hiếu bộc lộ thành
thái độ, hành vi trong ứng xử hàng ngày của chủ thể, đó là cách đánh giá đối
với các hiện tượng thẩm mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ là sở thích của con người về
phương diện thẩm mỹ. Đó là thái độ tình cảm của con người trước cái đẹp, cái
xấu, cái bi, cái hài, cái trác tuyệt trong cuộc sống và nghệ thuật. Vì vậy, thị
hiếu thẩm mỹ còn được coi là một năng lực đánh giá thẩm mỹ cá nhân của
con người. Tính chất cá nhân còn thể hiện đặc biệt rõ trong sự khác biệt về
năng lực cảm thụ, chiếm lĩnh các giá trị thẩm mỹ của đối tượng. Trước cùng
một đối tượng, nhưng chủ thể này có khả năng bao quát nhanh nhạy, chính
xác các giá trị, nhờ vậy có thế bộc lộ thái độ cảm xúc một cách mau lẹ, đúng
đắn, còn chủ thể khác thì ngược lại. Hoặc cũng là đối tượng ấy, có chủ thể
chiếm lĩnh được các giá trị thẩm mỹ ở mức trọn vẹn, sâu sắc, đạt đến tầng sâu
triết - mỹ của nó, nhưng chủ thể khác lại mới chỉ dừng ở mức cảm xúc được
cái vẻ bề ngoài của đối tượng, thậm chí có chủ thể còn cảm nhận sai lạc, méo
mó các giá trị đích thực vốn có. Nguyên nhân của sự khác biệt về mức độ
chiếm lĩnh các giá trị thẩm mỹ của đối tượng giữa chủ thể này so với chủ thế
khác là do chỗ, năng lực, trình độ, hay "khiếu" thẩm mỹ của họ phát triển
không như nhau. Thường thì chủ thể cảm thụ nào có "khiếu” thẩm mỹ tốt, tức
23
là các giác quan thẩm mỹ có độ nhạy cảm cao, có trí tưởng tượng sáng tạo
phong phú, tư duy hình tượng phát triển mạnh, có óc liên tưởng nhanh và độc
đáo, cộng với một tâm hồn giàu cảm xúc và một vốn tri thức thấm mỹ, nghệ
thuật sâu rộng... thì chủ thể đó sẽ có khả năng cảm thụ nhanh nhạy, trọn vẹn,
chính xác và sâu sắc giá trị thẩm mỹ của đối tượng, và ngược lại. Thậm chí,
ngay cả khi cùng một trình độ cảm thụ thẩm mỹ nhưng sắc thái biểu hiện cảm
xúc trước cùng một đối tượng thẩm mỹ cũng không ai giống ai, bởi thế giới
tinh thần, tình cảm của mỗi người là riêng tư, cá biệt, không lặp lại. Nói
chung, xét ở cấp độ cá nhân, thị hiếu thẩm mỹ của mỗi người mỗi vẻ, không
ai giống ai. Chính sự muôn màu muôn vẻ của thị hiếu cá nhân đã tạo nên tính
đa dạng, phong phú và sinh động của thị hiếu xã hội. Cuộc sống sẽ nghèo nàn,
đơn điệu biết chừng nào nếu mọi người đều thích như nhau về một kiểu quần
áo, giày dép, hoặc chỉ cùng yêu thích một loại hình nghệ thuật. Bởi vậy, một
xã hội có đời sống văn hóa thẩm mỹ phát triển chỉ khi những sở thích, thị hiếu
cá nhân được tôn trọng và phát triển phong phú, đa dạng. Điều này không chỉ
đúng về quyền con người mà còn là một nhân tố, một điều kiện tích cực để
phát huy, phát triển các tài năng cá nhân và làm cho đời sống văn hóa nghệ
thuật nói riêng và đời sống thẩm mỹ nói chung của xã hội không bị nhàm
chán, buồn tẻ.
Thị hiếu thẩm mỹ mang tính chất ổn định tương đối trong hệ thống tình
cảm. Do tính chất ổn định tương đối này mà năng lực thẩm mỹ của con người
mới có khả năng phản ứng hết sức mau lẹ. Vì thế nhà mỹ học Stôlovích (Nga)
đã coi thị hiếu thẩm mỹ là giá trị thẩm mỹ của cá nhân, là năng lực tập trung
của sự đánh giá, là năng lực phân biệt giữa giá trị thẩm mỹ chân chính và giá
trị thẩm mỹ giả hiệu, là năng lực phát hiện nhanh nhạy cái giá trị thẩm mỹ
trong các sắc thái của nó.
Sự phản ứng mau lẹ gần như là bản năng của chủ thể thẩm mỹ trước
các hiện tượng đẹp, xấu, bi,hài chính là đặc trưng đầu tiên của thị hiếu thẩm
24
mỹ. Do tình cảm thẩm mỹ tinh luyện, những kinh nghiệm, tích luỹ những giá
trị thẩm mỹ mà tạo thành mức ổn định của tình cảm. Tính ổn định này được
hình thành từ hàng ngàn mối quan hệ hình thành trong cuộc sống của chủ thể.
Do những mối quan hệ tốt, do được huấn luyện kiên trì, các kinh nghiệm
thẩm mỹ trở thành giá trị thẩm mỹ mà từ đó chi phối sự đánh giá tức thời của
chủ thể. Sự ổn định của tình cảm thẩm mỹ có thể tạo cho chủ thể phản ứng
mau lẹ, phán đoán đúng và cũng có thể phán đoán không đúng trước đối
tượng. Vì thế các kinh nghiệm thẩm mỹ phong phú và sâu sắc càng được tích
luỹ một cách đúng đắn bao nhiêu thì thị hiếu càng phản ứng mau lẹ và càng
đúng bấy nhiêu. Có người nhận thấy, phát hiện và xúc cảm ngay tức khắc
trước những hiện tượng thẩm mỹ mới và lành mạnh xuất hiện trong đời sống.
Ngược lại có người không thể phát hiện và không nhận thấy cái mới ấy ra đời
có hợp quy luật không hoặc có lành mạnh không. Sở dĩ có hiện tượng ấy vì sự
ổn định, tích luỹ các kinh nghiệm thẩm mỹ của các cá nhân này rất nghèo nàn
và thiếu sâu sắc.
Nét độc đáo của thị hiếu thẩm mỹ là ở chỗ nó bao chứa trong mình sự
thống nhất của mặt tình cảm thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ. Một mặt, thị hiếu
thẩm mỹ biểu thị khả năng đánh giá giá trị thẩm mỹ ở đối tượng, mặt khác nó
bộc lộ nhân tố chủ quan, sự độc đáo cá thể của họ.
Thực ra, thị hiếu thẩm mỹ là sự thống nhất hài hòa giữa tình cảm và lý
trí. Điều đó khiến cho nó vừa mang bản chất xã hội lại vừa in đậm dấu ấn cá
nhân. Yếu tố lý trí trong thị hiếu do lý tưởng thẩm mỹ quy định. Một thị hiếu
thẩm mỹ phát triển ở một mức độ nhất định bao giờ cũng thấm nhuần một lý
tưởng thẩm mỹ cụ thể. Lý tưởng thẩm mỹ còn đóng vai trò tiêu chuẩn trong
đánh giá thẩm mỹ, đóng vai trò định hướng thị hiếu thẩm mỹ theo những
chuẩn mực xã hội. Thị hiếu thẩm mỹ vừa biểu hiện năng lực tình cảm vừa
biểu hiện trình độ trí tuệ.
25