Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Xây dựng khu phố văn hóa trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 2025

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

NGUYỄN QUANG DIỆN

XÂY DỰNG KHU PHỐ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GIAI ĐOẠN 2015 - 2025

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

NGUYỄN QUANG DIỆN

XÂY DỰNG KHU PHỐ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GIAI ĐOẠN 2015 – 2025

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60310102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN MINH TUẤN

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung, số liệu,
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Tác giả luận văn

NGUYỄN QUANG DIỆN
Học viên cao học Kinh tế - K21
Khoa Lý luận Chính trị
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG KHU PHỐ VĂN HÓA………...7
1.1. Các khái niệm cơ bản……………………………………………………………..7
1.1.1. Khái niệm văn hóa và khu phố văn hóa………………………………………...7
1.1.2. Khái niệm văn minh, đô thị……………………………………………………...7
1.1.3. Khái niệm văn hóa đô thị, môi trường văn hóa………………………………...8

1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng đời sống văn
hóa, nếp sống văn minh……………………………………………………………....10
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng khu phố văn hóa…………...12
1.4. Các tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Khu phố văn hóa trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh……………………………………………………………………..17
1.5. Kinh nghiệm xây dựng khu phố văn hóa của một số quận, huyện trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh và bài học kinh nghiệm cho quận 1…………………….19
1.5.1. Kinh nghiệm của một số quận, huyện…………………………………………19
1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho quận 1…………...……………………………….....25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1…………………………………………………………….27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG KHU PHỐ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN 1 GIAI ĐOẠN 2000 – 2014……………………………………………28
2.1. Tổng quan về tình hình xây dựng khu phố văn hóa tại Thành phố Hồ Chí
Minh………………………………………………………………..………………….28
2.1.1. Tình hình xây dựng khu phố văn hóa trên địa bàn TP Hồ Chí Minh…...…...28


2.1.2. Kết quả đạt được và hạn chế của quá trình xây dựng khu phố văn hóa tại
Thành phố Hồ Chí Minh……………………………………………………………..30
2.2. Thực trạng việc xây dựng khu phố văn hóa trên địa bàn Quận 1 giai đoạn
2000 - 2014…………………………………………………………………………….38
2.2.1. Đặc điểm tình hình chung…………………………………………………..…38
2.2.2. Xây dựng gia đình văn hóa…………………………………………………….42
2.2.3. Xây dựng khu phố văn hóa…………………………………………………….44
2.2.4. Khảo sát ý kiến của người dân về việc xây dựng khu phố văn hóa, phường văn
minh đô thị tại địa bàn quận 1………………………………………………………..57
2.2.5. Kết quả đạt được, những vấn đề hạn chế và nguyên nhân……………….…..58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2…………………………………………………………….65
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG KHU PHỐ VĂN
HÓA TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1 GIAI ĐOẠN 2015 – 2025……………………….66

3.1. Quan điểm và định hướng xây dựng khu phố văn hóa trên địa bàn quận 1 giai
đoạn 2015 – 2025……………………………………………………………………..66
3.1.1. Quan điểm……………………………………………………………………....66
3.1.2. Định hướng…………………………………………………………………….68
3.2. Những giải pháp xây dựng khu phố văn hóa trên địa bàn quận 1, Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2025………………………………………………....71
3.2.1. Giải pháp về chủ trương, chính sách………………………………………….71
3.2.2. Giải pháp về quản lý nhà nước………………………………………………...74
3.2.3. Giải pháp về con người………………………………………………………...76
3.3. Một số kiến nghị…………………………………………………………………79
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3…………………………………………………………….82
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………………...83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu cơ bản của 10 phường thuộc địa bàn quận 1 ................................ 38
Bảng 2.2. Thu ngân sách của 10 phường trong 4 năm 2012 - 2014 (tỷ đồng ........... 39
Bảng 2.3. Số liệu xây dựng gia đình văn hóa từ 2000 – 2014 .................................. 43
Bảng 2.4. Số liệu xây dựng khu phố văn hóa từ 2000 – 2014 .................................. 44
Bảng 2.5. Kết quả xây dựng gia đình văn hóa năm 2014 của 10 phường ................ 48
Bảng 2.6. Số liệu xử phạt về trật tự đô thị, vệ sinh môi trường năm 2014 ............... 52


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam

hiện nay, quá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra ngày càng mạnh trên quy mô cả
nước nói chung và đặc biệt ở hai thành phố lớn nhất là Thủ đô Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh. Một trong những vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lược là vấn
đề xây dựng và phát triển văn hóa đô thị, môi trường văn hóa đô thị được định hình
và ổn định là điều kiện hình thành nếp sống văn hóa có giá trị và bản sắc riêng tại
các vùng đô thị lớn.
Ngay từ đầu năm 1943, khi chưa giành được chính quyền, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã có “Đề cương văn hóa Việt Nam” và xác định rằng văn hóa một trong
ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) của cách mạng Việt Nam. Ngày 03/9/1945
trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình
bày 6 nhiệm vụ cấp bách của nước Việt Nam mới trong đó có 2 nhiệm vụ thuộc văn
hóa, đó là “Cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt”, “Giáo dục lại nhân dân, làm
cho dân ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động”.
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị trung tâm, tiên phong về nhiều mặt
trên cả nước, là nơi hội tụ và giao thoa các vùng văn hóa trong nước và cả quốc tế,
là một thành phố đông dân với gần 10 triệu dân và hơn 2 triệu người nhập cư sinh
sống và làm việc trên địa bàn. Thành phố hiện có 24 quận - huyện, 322 phường - xã
- thị trấn và 1.975 ấp - khu phố. Từ khi Thông tư 04/TT-MTTW ngày 03 tháng 5
năm 1995 của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” mà tên gọi đầu tiên là “Toàn dân đoàn
kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”. Sau gần 20 năm thực hiện cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, đã có nhiều
phường đạt chuẩn phường văn minh đô thị, nhiều khu phố đạt danh hiệu khu phố
văn hóa, môi trường ở các khu dân cư có bước phát triển mới, văn minh, sạch đẹp,
an toàn, hạn chế thấp nhất tệ nạn xã hội, tình làng nghĩa xóm ngày một gắn kết và


2


phát huy, vai trò và ý thức của người dân ở các khu dân cư ngày một nâng cao. Tính
đến thời điểm hiện nay, áp dụng các tiêu chuẩn mới nhất của Thành phố ban hành
năm 2012, Ban Chỉ đạo các cấp đã tích cực theo dõi, phối hợp kiểm tra việc tổ chức
công nhận khu phố, ấp văn hóa, phường đạt chuẩn văn minh đô thị, xã đạt chuẩn
văn hóa nông thôn mới, trong năm 2014 vừa qua đã có 127/322 phường xã được ghi
nhận, trong đó có 40 phường xã được công nhận.
Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” ở một số quận – huyện chưa đi vào chiều sâu, chưa có các giải
pháp chỉ đạo mang tính đột phá để thúc đẩy phong trào, tình hình trật tự đô thị, vệ
sinh môi trường từng lúc, từng nơi, từng địa bàn dân cư chưa được cải thiện đáng
kể; Chất lượng một số khu phố văn hóa, ấp văn hóa mặc dù đạt danh hiệu nhưng
chưa thực sự nổi bật, ý thức giữ gìn vệ sinh trong cộng đồng dân cư chưa cao, vẫn
còn hiện tượng xả rác trên đường phố, nơi công cộng, ven sông rạch và các khu
chợ, bến xe, nơi công cộng… bên cạnh đó thực hiện quy trình bình chọn các danh
hiệu văn hóa chưa được chặt chẽ, có biểu hiện hình thức, bình chọn chiếu lệ… do
vậy đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của phong trào.
Báo cáo chính trị Ban chấp hành Đảng bộ quận 1 nhiệm kỳ 2010 - 2015 có
nêu rõ trong phần hạn chế: “Việc xây dựng các danh hiệu văn hóa ở một số nơi còn
hình thức; sự chuyển biến về nếp sống văn minh đô thị trên một số mặt chưa rõ nét;
công tác quản lý trật tự đô thị đảm bảo cảnh quan, vệ sinh môi trường chưa đạt yêu
cầu đối với quận trung tâm, tình trạng hàng rong vẫn còn tại một số khu vực xung
quanh trường học, công viên, bệnh viện”; “xây dựng văn hóa, văn minh đô thị chưa
như mong muốn, đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, điều kiện vươn
lên còn hạn chế”. Vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề xây dựng khu phố văn hóa tại
địa bàn trung tâm thành phố một cách thực chất và nghiêm túc là yêu cầu cấp thiết,
có ý nghĩa quan trọng, không chỉ có tính thời sự đối với Thành phố Hồ Chí Minh
mà đối với cả nước, không chỉ có ý nghĩa đối với hiện tại mà cả trong tương lai.
Chính vì lý do đó tôi chọn đề tài “Xây dựng khu phố văn hóa trên địa bàn quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2015 – 2025”.



3

2. Tổng quan nghiên cứu.
Đề cập đến vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói
chung và xây dựng các danh hiệu văn hóa như gia đình văn hóa, khu phố văn hóa
nói riêng đã có những chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, thể hiện qua
một số văn bản quan trọng, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó nêu rõ việc phát động một cách thực
chất phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là một trong những
giải pháp quan trọng nhất. Gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,
trong đó xác định mục tiêu chung là “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ
chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con
người về nhân cách, lối sống; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn
hóa, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa".
Có một số tác giả có đề tài nghiên cứu về môi trường văn hóa của Thành
phố, hoặc ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, văn hóa đô thị… có đề cập đến vấn
đề xây dựng các danh hiệu văn hóa như gia đình văn hóa, khu phố văn hóa và cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Có thể liệt
kê một số công trình:
- Thạc sĩ Hoàng Hương, Phân viện trưởng Phân viện Văn hóa Nghệ thuật
Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh và nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh là đồng
chủ nhiệm kiêm chủ biên đề tài “Những thay đổi trong đời sống văn hóa ở Thành
phố Hồ Chí Minh thời gian 1986 – 2006”, do Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ phát
hành năm 2015.



4

- Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu, Phó Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam với đề tài “Xây dựng môi trường văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh văn minh
hiện đại”, Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ, năm 2014.
- Tiến sĩ Tôn Nữ Quỳnh Trân với đề tài “Những giá trị văn hóa đô thị Sài
Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2010.
Nội dung được các tác giả tập trung nghiên cứu bao gồm đời sống văn hóa ở
Thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng môi trường văn hóa, giá trị văn hóa đô thị của
thành phố, những thực trạng và tồn tại cùng với giải pháp được đưa ra theo nhiều
góc độ khác nhau nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong vấn đề xây dựng
nếp sống văn minh đô thị, vấn đề môi trường, vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị
truyền thống của văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh…
Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã có những đóng góp to lớn
trong việc hình thành cơ sở lý luận về xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng con
người văn hóa văn minh, hiện đại… cũng là cơ sở để nghiên cứu về phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", khu phố văn hóa, gia đình văn
hóa. Cho đến nay, đối với địa bàn các quận trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh,
chưa có công trình nào phân tích những khía cạnh đặc thù của khu vực trung tâm
thành phố, nghiên cứu những vấn đề thực trạng, khó khăn đặc thù của địa bàn quận
1 trong việc xây dựng các danh hiệu văn hóa đúng thực chất và xứng tầm với vai
trò, vị trí của địa phương.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, văn minh đô thị, môi trường văn
hóa đô thị. Nghiên cứu cụ thể vấn đề xây dựng khu phố văn hóa gắn với cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trên địa bàn

thành phố và quận 1, phân tích, đánh giá thực trạng, nhận định những kết quả đạt
được cùng những tồn tại hạn chế đặc thù của địa bàn trung tâm, từ đó đề ra các giải
pháp để vấn đề xây dựng khu phố văn hóa, các danh hiệu văn hóa nói chung và


5

phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ở quận 1 phải có những
kết quả thực chất, giữ gìn giá trị cho các danh hiệu được công nhận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng việc xây dựng gia đình văn hóa, khu
phố văn hóa hơn 15 năm qua trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và
Quận 1 nói riêng, nhằm nghiên cứu những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay để
thực hiện tốt hơn cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư” tại địa bàn trung tâm thành phố.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị nên các phương pháp
chủ yếu là: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp thống kê thu thập số liệu
thực tế và đang diễn ra của Thành phố Hồ Chí Minh, của quận 1 giai đoạn 2000 –
2014 làm cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp cho giai đoạn
2015 – 2025. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã nghiên cứu,
tham khảo và sử dụng nhiều tài liệu của các đề tài có liên quan, các báo cáo tổng kết
và niên giám thống kê của Ủy ban nhân dân quận 1.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu và thực hiện đề tài về xây dựng khu phố văn hóa tại quận 1,
địa bàn trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng, giúp cho các cấp chính quyền có cái nhìn xuyên suốt và khách quan đối với
quá trình xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng khu phố văn hóa thông qua phong
trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" trên toàn địa bàn.

Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận cơ bản về văn hóa, văn minh đô thị, môi
trường văn hóa đô thị, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng đời sống mới, xây dựng con người có ý thức văn minh, có
lối sống lành mạnh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước của cộng đồng… hướng đến mục tiêu về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước


6

Từ các số liệu, dữ liệu thu thập được qua quá trình nghiên cứu, luận văn góp
phần phân tích, đánh giá thực trạng việc xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng khu
phố văn hóa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Quận 1 nói riêng
trong thời gian qua, từ đó đúc kết những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế,
đặc biệt là những vấn đề hiện hữu đặc thù của khu vực trung tâm thành phố. Luận
văn có giá trị thực tiễn, đảm bảo tính kế thừa, duy trì và phát huy các kết quả đạt
được trong giai đoạn trước, đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm xây dựng, hoàn
thiện các chính sách phù hợp với tình hình mới tại địa bàn quận 1, giai đoạn 2015 –
2025; từ đó có thể ứng dụng đối với các địa bàn lân cận như quận 3, quận 10...

7. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm có các phần như sau:
- Phần mở đầu.
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng khu phố văn hóa.
- Chương 2: Thực trạng việc xây dựng khu phố văn hóa trên địa bàn Quận 1
trong giai đoạn 15 năm 2000 - 2014.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp xây dựng khu phố văn hóa trên địa bàn
Quận 1 giai đoạn 2015 - 2025.
- Phần kết luận.



7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG KHU PHỐ VĂN HÓA
1.1. Các khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm văn hóa và khu phố văn hóa.
Khái niệm văn hóa: hiện nay có rất nhiều định nghĩa về văn hóa, chúng ta
xem xét một định nghĩa mang tính hệ thống của Giáo sư – Tiến sĩ khoa học Trần
Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.” (Trần Ngọc Thêm,
2001, trang 25).
Khái niệm khu phố văn hóa: theo Tiến sĩ Huỳnh Quốc Thắng “Ấp văn hóa
hay khu phố văn hóa không có gì khác hơn là một mô hình nông thôn mới hoặc một
đô thị mới được xây dựng trên nền tảng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với quá
trình đô thị hóa và quá trình thực hiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, góp phần giữ gìn, phát huy mọi bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc,
của địa phương” (Huỳnh Quốc Thắng, 2003, trang 37 tạp chí Văn hóa Nghệ thuật).
Theo bà Tô Thị Bích Châu - Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội, Hội đồng Nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh - xây dựng khu phố văn hóa là cả một quá trình tích
cực tham gia, vận động, hoạt động vì lợi ích chung của cộng đồng như giúp đỡ các
hoàn cảnh khó khăn, xây nhà tình nghĩa, nhà tình thương, bài trừ tệ nạn xã hội, xóa
mù chữ, giảm hộ đói nghèo… với sự hưởng ứng của nhiều ban ngành, đoàn thể,
doanh nghiệp, các chợ, trường học…; ngoài ra cũng bao gồm nhiều hoạt động như
tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, cải tạo, mở rộng các tuyến đường, tuyến hẻm, hình
thành những tuyến đường mới làm thay đổi lớn về mỹ quan đô thị, các mảng xanh
ngày càng phát triển nhiều hơn, tình hình vệ sinh môi trường, trật tự lòng lề đường
phải có chuyển biến, góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
1.1.2. Khái niệm văn minh, đô thị.

Khái niệm văn minh: theo Giáo sư Trần Quốc Vượng “Văn minh là trình độ
phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng cho một khu


8

vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại” (Trần Quốc Vượng, 1998, trang 19).
Viện sĩ người Nga D. Likhachov từng nhận xét, “Văn hóa và văn minh là những
khái niệm gần gũi, có liên quan mật thiết với nhau, song không đồng nhất. Văn hóa
giàu tính nhân bản, nó hướng tới những giá trị muôn thuở; trong khi đó thì văn minh
hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc sống sao cho tiện lợi”.
Khái niệm đô thị: theo Tiến sĩ Tôn Nữ Quỳnh Trân, đô thị là một thực thể đã
xuất hiện trong lịch sử loài người từ xa xưa, từ khi mà ở nơi này, nơi khác bắt đầu
hình thành một nếp sinh hoạt khác biệt với nếp sinh hoạt vẫn hằng tồn tại ở thôn
quê với nền sản xuất nông nghiệp. Trong tiếng Việt có nhiều từ để chỉ khái niệm đô
thị như đô thị, thành phố, thị xã, thị trấn… trong đó các từ “đô, thành, trấn, xã” có
chức năng thành chính và “thị, phố” có nghĩa là chợ, nơi buôn bán; như vậy đô thị
là nơi vừa có chức năng hành chính lẫn kinh tế. Trong The America Encyclopedia,
đô thị được trình bày với một quan niệm như sau: “Như thông thường vẫn sử dụng,
thành phố (city) chỉ là một tập hợp dân cư có một quy mô đáng kể, ở đó điều kiện
sống được xem là theo kiểu đô thị, trái ngược với đời sống nông thôn ở miền thôn
dã… Theo nghĩa đó, thành phố là một hiện tượng chung của xã hội văn minh”.
- Theo quan niệm chung, đô thị bao giờ cũng gắn liền với văn minh, là nơi có
điều kiện tốt nhất để tổ chức xây dựng một xã hội văn minh. Một đô thị mà không
văn minh thì không thể là một đô thị được. Trong tất cả các thời đại và các khu vực,
từ cổ đại đến hiện đại thì đô thị là nơi phát triển cao nhất của trí lực, sáng kiến và
thành tựu. Chừng nào mà con người còn ở trong giai đoạn chăn nuôi và nông
nghiệp thì vẫn còn có ít chất kích thích để phân chia chức năng kinh tế; toàn bộ
năng lực của con người bị thu hút vào công việc lo cung cấp lương thực, nhưng ở
đô thị thì có sự phân công lao động và những khả năng tạo ra thặng dư kinh tế, do

đó mà đưa đến sự tiến bộ về của cải, thời gian rảnh rỗi, giáo dục trí óc và sự phát
triển của nghệ thuật và khoa học. (Tôn Nữ Quỳnh Trân, 2010)
1.1.3. Khái niệm văn hóa đô thị, môi trường văn hóa.
Khái niệm văn hóa đô thị: Tiến sĩ Tôn Nữ Quỳnh Trân phân tích, văn minh
là bản chất cơ bản tạo nên sự khác nhau giữa thành thị và nông thôn, và những tính


9

chất của đô thị cùng nền văn hóa của đô thị cũng xuất phát từ bản chất này. Văn hóa
và văn minh có nhiều điểm khác nhau, nhưng tại đô thị, văn hóa và văn minh kết
hợp vào nhau để tạo nên một bản sắc văn hóa của đô thị, vì vậy văn hóa đô thị là
điểm trùng nhau giữa văn minh và văn hóa. Xét trong phạm trù văn hóa, văn hóa đô
thị thường xuất hiện như là một vùng văn hóa, đồng hành với các vùng văn hóa
khác như văn hóa làng xã, văn hóa biển… và là một nội dung trong vô số nội dung
vô cùng phong phú của văn hóa. (Tôn Nữ Quỳnh Trân, 2010)
Tiến sĩ Lê Như Hoa tiếp cận đến văn hóa đô thị qua khía cạnh sản xuất, giao
tiếp và sử dụng thời gian nhàn rỗi, cho rằng văn hóa đô thị được hình thành trên cơ
sở sự phân công và bổ sung lao động, trên lối sống có sự hứng thú trong việc sử
dụng thời gian nhàn rỗi, một động lực cho việc tái sản xuất, phát triển văn hóa và
trên hình thức giao tiếp đặc trưng của đô thị của nhóm xã hội có mối quan hệ giao
tiếp đa dạng (Lê Như Hoa, 2002).
Khái niệm môi trường văn hóa: theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu, môi trường
văn hóa là tổng hòa những thành tố vật chất và tinh thần, trong một không gian và
thời gian cụ thể, trong đó con người và quan hệ trực tiếp của con người với tự
nhiên, với xã hội là nhân tố quan trọng nhất. (Nguyễn Thị Hậu, 2014)
Khái niệm môi trường văn hóa đô thị: theo TS. Nguyễn Thị Hậu, môi trường
văn hóa đô thị có nội hàm rộng lớn, được coi như là sự tổng hòa của lối sống đô thị;
đó là sự tổng hòa các dạng hoạt động sống điển hình của các cư dân đô thị, bao gồm
các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần của lối sống. Ở đó con người là thể thống

nhất của các điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử trong đô thị. Trong quá trình hình
thành và phát triển đô thị, mỗi cộng đồng xã hội ở đó đã tạo nên cách sống, phương
thức sống và các hình thức sống riêng biệt của mình (Nguyễn Thị Hậu, 2014).
Tác giả Đỗ Huy nhận định rằng tiếp cận văn hóa đô thị là tiếp cận lối sống:
“Nói đến môi trường văn hóa đô thị là nói đến tổng thể của sự vận động sáng tạo,
lưu giữ, tái tạo, tiêu dùng văn hóa của các cư dân đô thị. Văn hóa đô thị bao gồm
các mối quan hệ giữa con người, các cá nhân, cộng đồng ở đô thị. Văn hóa đô thị
biểu hiện từ trong cơ cấu văn hóa đô thị. Các kiến trúc vườn hoa, bến bãi, cây xanh


10

đường phố. Văn hóa đô thị quan hệ toàn diện về các mặt vật chất và mặt tinh thần
của lối sống đô thị. Ở đó bao gồm chất lượng sống, phong cách sống, sự sản xuất,
quản lý và tiêu dùng văn hóa. Ở đó có văn hóa pháp luật, văn hóa đạo đức, văn hóa
thẩm mỹ. Vì thế nói đến văn hóa đô thị là nói đến lối sống.” (Đỗ Huy, 2001)
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng đời
sống văn hóa, nếp sống văn minh.
Hồ Chí Minh đã viết trong mục Đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong
tù (1942 - 1943): “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó,
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”.
Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng như vậy mới có thể đóng góp được vai
trò “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội”, định nghĩa về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất gần
với cách hiểu văn hóa mà hàng chục năm sau UNESCO mới nêu ra trong Tuyên bố

về những chính sách văn hóa tại Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ ngày 26/7
đến ngày 6/8/1982 ở Mexico. “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét
riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các
giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả
năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật
đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính
nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một
phương án chưa hoàn thành, đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi


11

không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội
lên bản thân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ngay từ những
ngày đầu tiên sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân vừa mới ra đời. Tháng 1/1946,
Người viết cuốn sách Đời sống mới (3/1947) để hướng dẫn cụ thể mọi người tích
cực tham gia xây dựng và cho thành lập Ủy ban Trung ương vận động “Đời sống
mới”. Người viết: “Thực hành đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính; nếu không
giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì sẽ trở thành hủ bại, biến thành sâu mọt của dân;
nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính là nhen lửa cho đời sống mới”. Người
chỉ rõ việc xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ việc “sửa đổi những việc rất cần
thiết, rất phổ thông trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc,
cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Năm cách đó chính là cái mà hôm nay chúng ta
thường gọi là lối sống.
Khái niệm thường gặp hiện nay về “làng văn hóa” (hay ở đô thị hiện nay là
khu phố văn hóa) đã được Người nêu lên với chữ dùng là “làng phong thuần tục
mỹ”: “Về phong tục, phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc, hút xách, bợm bãi, trộm cắp.

Phải tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau, làm cho làng mình
thành một làng phong thuần, tục mỹ”. Người dặn dò mọi người dân phải chú ý đến
những việc tưởng chừng như rất nhỏ trong đời sống hàng ngày như giữ vệ sinh
trong nhà, ngoài ngõ; sao cho đường sá, ao hồ, nước ăn, nước rửa đều thật sạch sẽ;
lễ hội, giỗ tết, ma chay, cưới xin, phải thật trang trọng mà giản dị, tiết kiệm… Để
xây dựng được đời sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra sự cần thiết phải bắt đầu
từ mỗi con người, mỗi gia đình. Người viết: “Do nhiều người nhóm lại thành làng.
Do nhiều làng nhóm lại thành nước. Nếu người này xấu, người kia cũng xấu thì
thành làng xấu, nước hèn. Nếu mọi người đều tốt thì thành làng tốt, nước mạnh.
Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới thì dân tộc ta nhất định sẽ phú
cường”. “Ai cũng làm như thế thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở thành một nước
mới, một nước văn minh”.


12

1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng khu phố văn hóa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã chỉ rõ việc phát động một cách thực chất phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” là một trong những giải pháp quan trọng nhất.
Nghị quyết đã nêu ra những mặt yếu kém nổi lên trước hết ở nhận thức tư
tưởng, trong đạo đức và lối sống. Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế
giới, một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận
thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Không ít người còn mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những
luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta. Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường
những giá trị vǎn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang
gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và

danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp.
Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia
tǎng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là
trong việc cưới, việc tang, lễ hội... Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối
sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có
quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ǎn chơi sa đọa
không được ngǎn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu
nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến.
Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của
Nhà nước. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội
lo lắng như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bè bạn, môi trường sư phạm
xuống cấp; lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ǎn chơi, nghiện ma túy... ở một bộ
phận học sinh, sinh viên; việc coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn
chính trị, khoa học xã hội và nhân vǎn.


13

Trong những nhiệm vụ cụ thể mà Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đặt
ra, là phải xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những
đức tính “Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,
đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích
chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và
cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chǎm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ
thuật, sáng tạo, nǎng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã
hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm
mỹ và thể lực.”

Nghị quyết cũng nhấn mạnh vấn đề xây dựng môi trường vǎn hóa. “Tạo ra ở
các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp,
nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội...), các vùng dân cư (đô thị,
nông thôn, miền núi...) đời sống vǎn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu vǎn
hóa đa dạng và không ngừng tǎng lên của các tầng lớp nhân dân. Gìn giữ và phát
huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của
các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình vǎn hóa. Xây dựng mối quan hệ khǎng
khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp,
xã, phường vǎn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc
xây dựng nếp sống vǎn minh.”
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị
quyết đã đánh giá “sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có
bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được


14

nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức
mới được hình thành.”
Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) cũng đã nhìn nhận, “so với
những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả
xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia
tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách

hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng
lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu
lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều
hướng gia tăng.”
Nghị quyết đã xác định mục tiêu chung là “Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.” Và một số những mục tiêu cụ thể được nhấn mạnh, đó
là “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi
trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo,
thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật;
đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người
với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. Xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống
chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp
và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây


15

dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người
Việt Nam hoàn thiện nhân cách.”
Trong một số nhiệm vụ cụ thể, nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) đã nêu rõ
cần phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, “Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ
quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo
dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn
hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo

đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội. Xây dựng đời sống văn hóa ở
địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt
chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp
sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao
chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào "Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa".
Một số văn bản của Trung ương quy định các tiêu chuẩn về việc công nhận
danh hiệu Khu phố văn hóa:
Ngày 02/01/2002 Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin đã ký Quyết định số
01/2002/QĐ-BVHTT về việc ban hành Quy chế công nhận danh hiệu Gia đình văn
hóa, Làng văn hóa, Khu phố văn hóa trong đó các tiêu chuẩn công nhận danh hiệu
Khu phố văn hóa được nêu rõ như sau:
1. Có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển:
a. Có từ 90% hộ gia đình trở lên có đời sống kinh tế ổn định; nhiều hộ
gia đình giàu, dưới 5% hộ gia đình nghèo, không có hộ gia đình đói;
b. Có từ 90% hộ gia đình trở lên có nhà ở được xây bền vững.
2. Có đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú;
a. Có các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế; có điểm sinh hoạt văn hóa
vui chơi giải trí; có hoạt động văn hóa, thể thao thường xuyên;
b. Thực hiện tốt Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội;
không có tệ nạn xã hội; không tàng trữ và sử dụng văn hóa phẩm thuộc loại
cấm lưu hành;


16

c. Có từ 90% hộ gia đình trở lên được công nhận là Gia đình văn hóa.
3. Có môi trường cảnh quan sạch đẹp:
a. Đường giao thông được trải nhựa hoặc bê tông hóa; có hệ thống
đèn chiếu sáng; đường phố, nơi sinh hoạt công cộng sạch đẹp; thực hiện tốt

Nghị định số 36/2001/NĐ-CP ngày 10/7/2001 của Chính phủ về trật tự, an
toàn giao thông đô thị;
b. Có từ 100% hộ gia đình trở lên được sử dụng nước sạch, vệ sinh
môi trường được đảm bảo;
c. Tôn tạo và bảo vệ các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
ở địa phương.
4. Thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước:
a. Thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước;
b. Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện tốt Nếp
sống văn minh đô thị và Quy chế dân chủ ở cơ sở;
c. Các tổ chức đoàn thể hoạt động có hiệu quả;
d. Trẻ em đang độ tuổi đi học đều được đến trường; đạt chuẩn phổ cập
giáo dục trung học cơ sở trở lên;
đ. Có phong trào đền ơn đáp nghĩa và hoạt động từ thiện có hiệu quả.
Ngày 16 tháng 09 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
1610/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020.
Trong đó nêu rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2015 đối với vùng đồng bằng như sau:
- Thu hút 50% trở lên số người dân tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể
thao ở cơ sở;
- 70% nhà văn hóa và khu thể thao xã; 70% nhà văn hóa và khu thể thao thôn
đạt quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
- 70% gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu “Gia đình văn hóa”;


17

- 60% thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương được công nhận và giữ
vững danh hiệu “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”,

“Tổ dân phố văn hóa” và tương đương;
- 70% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa;
- 20% xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; 20% phường, thị trấn đạt chuẩn
văn minh đô thị.
Về định hướng đến năm 2020, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tiếp tục củng
cố về chất lượng; nâng cao tỷ lệ các chỉ tiêu đạt được trong giai đoạn 2011 – 2015,
phấn đấu đạt được các tiêu chí về xây dựng văn hóa nông thôn mới cấp xã:
- 50% xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; 50% phường, thị trấn đạt chuẩn
văn minh đô thị.
- 100% thôn, làng, ấp, bản và tương đương ở đồng bằng và 60% ở miền núi,
hải đảo, biên giới có nhà văn hóa và khu thể thao thôn đạt quy định của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
Tiếp tục xây dựng, biểu dương, khen thưởng và phổ biến nhân rộng các điển
hình tiên tiến trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” bao
gồm:
- Gia đình văn hóa; thôn, làng, ấp, bản văn hóa; tổ dân phố văn hóa; cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới;
phường đạt chuẩn văn minh đô thị;
- Các cá nhân, tập thể có tinh thần vượt khó, phát huy nội lực, có cách làm
sáng tạo, hiệu quả, đạt thành tích xuất sắc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa”.
1.4. Các tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Khu phố văn hóa trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
Quyết định số 4946 /QĐ-UBND ngày 25/9/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành các tiêu chuẩn cho mười hai danh hiệu văn
hóa giai đoạn 2012 – 2015, trong đó quy định cụ thể các tiêu chuẩn khu phố văn
hóa như sau:


18


Có 5 tiêu chuẩn xây dựng khu phố văn hóa, trong đó có các tiêu chí đánh giá
cụ thể với tổng số điểm tối đa là 100 điểm, có quy định những trường hợp thưởng
điểm hay trừ điểm. Mỗi năm (từ tháng 10 đến tháng 11), căn cứ vào kết quả đạt
được, các khu phố có báo cáo theo đúng trình tự của các tiêu chuẩn, tự đánh giá,
cho điểm và đề nghị công nhận đạt tiêu chuẩn và danh hiệu văn hóa. Báo cáo phải
có xác nhận của Trưởng ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” phường, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường và Đảng ủy
phường. Khu phố đạt từ 95 đến 100 điểm, được đề nghị Ban chỉ đạo phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” quận kiểm tra xem xét, khi đạt tiêu
chuẩn có Quyết định ghi nhận hàng năm, đạt tiêu chuẩn 3 năm liên tục, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân quận ban hành Quyết định công nhận, công nhận lại. Năm tiêu chuẩn
xây dựng khu phố văn hóa cụ thể như sau:
Tiêu chuẩn 1: Đoàn kết xây dựng đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát
triển. (12 điểm)
Tiêu chuẩn 2: Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; chăm lo sự nghiệp giáo dục; chăm sóc sức
khỏe, thực hiện dân số kế hoạch hóa gia đình. (24 điểm)
Tiêu chuẩn 3: Đoàn kết xây dựng môi trường cảnh quan sạch đẹp, xây dựng
văn minh đô thị. (14 điểm)
Tiêu chuẩn 4: Đoàn kết phát huy dân chủ, chấp hành tốt đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng cơ sở chính trị
vững mạnh. (39 điểm)
Tiêu chuẩn 5: Đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng; phát huy
truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn , đáp nghĩa”, “Tương thân, tương
ái”. (11 điểm)
Quyết định cũng nêu rõ nếu khu phố để xảy ra một trong những vấn đề sau
sẽ không được xét công nhận Khu phố văn hóa:



19

- Có xảy ra cháy nổ, tai nạn giao thông, vi phạm pháp luật nghiêm trọng thiệt
hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân, của Nhà nước (có kết luận của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền và xem xét từng trường hợp cụ thể).
- Phát sinh tụ điểm mua bán, sử dụng ma túy, sử dụng các chất ma túy
tổng hợp.
- Phát sinh hoạt động tội phạm có tổ chức.
- Phát sinh tụ điểm mại dâm.
- Sinh con thứ 3 trở lên chiếm tỷ lệ 0,8% trên tổng số hộ gia đình của
khu phố.
- Có từ 03 trẻ em trở lên bị bóc lột sức lao động, từ 01 trẻ em trở lên bị lạm
dụng tình dục.
1.5. Kinh nghiệm xây dựng khu phố văn hóa của một số quận, huyện
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và bài học kinh nghiệm cho quận 1.
1.5.1. Kinh nghiệm của một số quận, huyện.
1.5.1.1. Kinh nghiệm của quận 9 trong việc xây dựng khu phố văn hóa.
Khu phố 2, phường Phước Bình là một trong 4 khu phố đầu tiên của Quận 9
được UBND Thành phố công nhận là khu phố văn hóa năm 1999. Đây là niềm phấn
khởi tự hào vì vậy cán bộ, Đảng viên và nhân dân khu phố không ngừng phấn đấu
nâng cao chất lượng khu phố, quyết tâm giữ vững danh hiệu khu phố văn hóa. Việc
xây dựng khu phố văn hóa cùng với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư” được khu phố thực hiện hơn 15 năm qua, điều này
đã khẳng định sự thiết thực của phong trào gắn liền với lợi ích của nhân dân, được
nhân dân tích cực hưởng ứng.
Thực hiện nghị quyết của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân và các chỉ tiêu kinh tế
xã hội – an ninh quốc phòng trên địa bàn phường Phước Bình, đặc biệt là các công
trình nâng cấp cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị với phương châm “Nhà nước và
nhân dân cùng làm”, công trình đầu tiên của khu phố là mạnh dạn nhận làm điểm
nhựa hóa đường số 4 để lãnh đạo phường rút kinh nghiệm nhân rộng ra toàn



×