Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Đào tạo nguồn lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.88 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHAN HUY TRƯỜNG

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ

HÀ NỘI – 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHAN HUY TRƯỜNG

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG THỊ LAN

HÀ NỘI – 2007




MỤC LỤC
CHƢƠNG 1 : ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở NƢỚC TA .......................................................................................................7
1.1. Nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực .....................................7
1.1.1. Nguồn nhân lực .............................................................................7
1.1.2 Đào tạo nguồn nhân lực .................................................................19
1.2 Vai trò của đào tạo nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ..................................................................................28
1.2.1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay và yêu cầu
đặt ra đối với đào tạo nguồn nhân lực ...........................................28
1.2.2 Vai trò của đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ...............................................37
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ............................................................45
2.1. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở nƣớc ta hiện nay ................45
2.1.1. Đánh giá khái quát quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở nước
ta trong thời gian qua ..............................................................................45
2.1.2. Những thành tựu và hạn chế của quá trình đào tạo nguồn
nhân lực..........................................................................................62
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá trình đào tạo
nguồn nhân lực ở nƣớc ta hiện nay ..................................................71
2.2.1. Đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo .......................................71
2.2.2. Tăng cường đầu tư phát triển mạnh giáo dục dạy nghề .............78
2.2.3. Phát triển đội ngũ giáo viên- nhân tố quyết định chất lượng
giáo dục và đào tạo ......................................................................79
2.2.4. Đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài. .......................................82

KẾT LUẬN CHUNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

CNH, HĐH

Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội:

KHTN, KHXH

Trung học phổ thông:

THPT

Trung học cơ sở:

THCS

Tốt nghiệp trung học:

TNTH


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả trong luận văn là trung thực.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2007

Ngƣời cam đoan

Phan Huy Trƣờng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới hiện nay đang ở trong một thời kỳ lịch sử có những chuyển biến
hết sức mới mẻ, mau lẹ và đột biến cả về kinh tế, chính trị, văn hoá và khoa
học kỹ thuật. Trước hết cần nhấn mạnh đến nhân tố quyết định sự phát triển
của thế giới hiện nay là những thành tựu vĩ đại do cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại đưa lại. Sự bùng nổ công nghệ thông tin, sự phát triển của
công nghệ sinh học, của công nghệ vật liệu mới đã tạo ra những bước tiến
khổng lồ của lực lượng sản xuất. Từ đó hình thành những quá trình sản xuất
hết sức hiện đại, điều khiển từ xa, trong đó lao động cơ bắp của con người chỉ
là một phần nhỏ còn lao động trí tuệ có vai trò hết sức quan trọng trong việc
tạo ra của cải vật chất, tạo nên năng suất và sản phẩm gấp nhiều lần so với
nền kinh tế trước đó. Lực lượng sản xuất được xã hội hoá cao, với xu hướng
quốc tế hoá, thị trường thế giới ngày càng mở rộng và hoà nhập hơn, các quốc
gia cùng nhau phát triển và cùng giải quyết những vấn đề mang tính quốc tế
phức tạp như độc lập dân tộc, bùng nổ dân số, môi trường sinh thái....Điều đó
chính là yếu tố quyết định sự thay đổi chương trình phát triển kinh tế xã hội
của các nước trên thế giới, mà Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Để phù hợp với đặc điểm phát triển trong thời kỳ lịch sử đặc biệt này,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển
kinh tế tri thức .
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta nhằm đưa đất nước từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nước
công nghiệp hiện đại. Đó là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội, từ sử dụng sức

1


lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến khoa học, công
nghệ, phương tiện, kỹ thuật hiện đại.
Trong tất cả các nguồn lực thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá như
các nguồn lực về tài chính, công nghệ, thiết bị, nguồn tài nguyên thiên nhiên...
thì nguồn lực con người – tài nguyên chất xám trở thành nguồn lực quan trọng
nhất. Đảng ta đã xác định con người- nguồn nhân lực vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của quá trình phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
không thể thành công nếu chúng ta không chú trọng đầu tư phát triển con
người, đào tạo nguồn nhân lực. Mặt khác, nếu không muốn tụt hậu so với thế
giới và khu vực, chúng ta phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và
hướng tới phát triển kinh tế tri thức.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
khẳng định: “ Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản cho sự phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững”....và coi “phát triển giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và là động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước” [28, 24,108] . Do đó, vấn đề phát triển con người, đào
tạo nguồn nhân lực đang là vấn đề cấp bách, then chốt, khâu đột phá và “phải

đi trước một bước”.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề "Đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu

2


Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Vấn đề này cũng được nhiều tổ chức
và nhà khoa học đầu tư nghiên cứu trong những tài liệu mác-xít và ngoài mácxít. Có thể phân ra thành ba loại công trình nghiên cứu sau đây:
* Sách và công trình nghiên cứu khoa học:
- Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ( Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, 2001)
- Phát triển toàn diện con người thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá
( Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, 2001)
- Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực. Góp phần triển khai nghị
quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng, khoá VIII, (Phạm
Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, 1997)
- Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiêm thế giới và thực tiễn nước
ta (Trần Văn Tùng, Lê Thị Ái Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, 2001).
Những công trình khoa học nói trên đã tập trung làm rõ các vấn đề về
con người, nguồn nhân lực, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng chưa chỉ ra
vai trò của đào tạo nguồn nhân lực với tư cách là nguồn nhân lực cơ bản,
nguồn lực nội sinh cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cho sự phát
triển kinh tế- xã hội hiện nay.
* Một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành: “Cơ hội và
thách thức đối với việc đào tạo phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn
hội nhập kinh tế” ( Trương Thu Hà, tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, số

4, 2005); “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay” ( Trương
Giang Long, Tạp chí Cộng sản, số 1, 2002); “Vài suy nghĩ về chuẩn bị nguồn
nhân lực cho công nghiệp hoá, hiên đại hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” (Nguyễn Văn Thuỵ, Tạp chí Cộng sản, số 35, 2003); “Đổi mới giáo

3


dục - đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” (Hoàng Ngọc Hoà, Tạp
chí Cộng sản, số 23, 2004); “Vấn đề nghiên cứu con người và nguồn nhân lực
đầu thế kỉ XXI” ( Phạm Minh Hạc, tạp chí Nghiên cứu con người, số 4,
2004); “Mối qua hệ giữa giáo dục, đào tạo và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá” (Nguyễn Đình Hoà, Tạp chí Triết học,số 9, 2001).
Trong hầu hết các bài viết, các tác giả đã giải đáp về vấn đề đào tạo
phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập; giáo dục trong phát huy
nguồn lực con người, phát triển nguồn nhân lực nước ta, mục tiêu con người
trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuẩn bị nguồn nhân lực cho công
nghiệp hoá, đổi mới giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các tác
giả đã nêu lên những bất cập và những yếu tố chưa hợp lý của chất lượng
nguồn nhân lực, thành tựu và yếu kém của giáo dục và đào tạo, so sánh nguồn
nhân lực với các nguồn lực khác, chỉ ra vai trò của nguồn lực con người, nêu
lên tác động của thế giới đến đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nêu lên vai
trò của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực đem lại lợi ích kinh tế và phi kinh
tế…từ đó đề ra một số giải pháp khắc phục, định hướng phát triển nguồn nhân
lực, nhưng chưa có tác giả nào đề nghiên cứu một các có hệ thống vấn đề đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
* Một số luận án tiến sỹ: “Nhân tố con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta hiện nay” (Hoàng Thái Triển, 2005);
“Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt

Nam” ( Đoàn Văn Khái, 2000); “Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay ( Nguyễn Thị Tú
Oanh, 1998); “Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục - đào tạo
đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta hiên nay”( Nguyễn Thanh, 2001). Các luận án trên đã

4


đề cập đến vai trò của nhân tố con người, quan hệ giữa phát triển nguồn
nhân lực với giáo dục và đào tạo, vai trò của nguồn lực thanh niên trong
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và việc khai thác và sử dụng nó, đưa ra một
số giải pháp để phát huy vai trò nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện cả về cơ sở lý
luận, thực trạng và giải pháp đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trên cơ sở kế thừa các giá trị và thành quả của các
nhà nghiên cứu, các tác giả đi trước, luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn của đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu:
Trên cở sở phân tích làm rõ vai trò đào tạo nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, luận văn đi sâu vào tìm hiểu
thực trạng đào tạo nguồn nhân lực và đưa ra một số giải pháp để đẩy mạnh
quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay.

- Phân tích, đánh giá thực trạng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh công tác đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

5


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là đào tạo nguồn nhân lực trong giáo
dục trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, lao động kỹ thuật; đào tạo cao
đẳng, đại học và sau đại học
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
-

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và đào tạo con người với tư cách
vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử.
-

Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, so

sánh, thống kê, hệ thống....để triển khai nhiệm vụ của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
-


Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đào

tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
-

Luận văn làm rõ thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta

những năm vừa qua, nguyên nhân dẫn đến sự bất cập, yếu kém của công
tác này và tính khả thi của một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa quá
trình đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao ở nước ta trong những năm
tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho sinh viên
khoa Triết học và những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương.

6


Chương 1. Đào tạo nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
Chương 2. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực và một số giải pháp đẩy
mạnh quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay

7



CHƢƠNG 1
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƢỚC TA
1.1. Nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực
1.1.1 Nguồn nhân lực
* Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong lý thuyết phát triển và theo nghĩa rộng được hiểu
như nguồn lực con người của một quốc gia, vùng lãnh thổ, ngành và là một bộ
phận của các nguồn lực có khả năng huy động để tham gia vào quá trình kinh
tế và xã hội, như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính.
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ lao động thương binh
và xã hội, nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác
định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương,
ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế
xã hội [7, 13-15]
Giáo trình Kinh tế lao động, Trường Đại học kinh tế quốc dân đưa ra
một số khái niệm : 1/ Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được
nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp
sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình
thường. 2/ Nguồn nhân lực với tư cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế-xã
hội là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này
nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động. 3/ Nguồn nhân lực có thể
hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao
động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá
trình lao động. Theo chúng tôi, nên sử dụng khái niệm nguồn nhân lực là yếu
tố của sự phát triển kinh tế-xã hội, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao

8



động có khả năng lao động. Bộ luật lao động của nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định: những người trong độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi
đối với nam và từ đủ 16 đến 55 tuổi đối với nữ, đều thuộc vào nguồn nhân lực
trong độ tuổi lao động.
Nguồn nhân lực được xem xét, đánh giá trên hai bình diện “số lượng
(số dân) và chất lượng con người, bao gồm cả về thể chất và tinh thần, sức
khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất”[39, 4] “là tổng thể sức lực dự trữ,
những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con
người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội” [32,9]. Số lượng nguồn nhân
lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân
lực. Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể những đặc trưng phản ánh bản
chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động trực tiếp sản xuất và phát
triển của con người. Đó là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng
về trạng thái thể lực, trí lực, kĩ năng, phong cách, đạo đức, lối sống và tinh
thần của nguồn nhân lực. Đối với con người, xét đến cùng sức khoẻ là vốn
quý nhất. Tục ngữ Nga có câu “một tinh thần lành mạnh trong một cơ thể
khoẻ mạnh”. Vì vậy, sức khoẻ được coi là nguồn gốc của hạnh phúc, tài sản
của mỗi con người, mỗi quốc gia, là động lực chính để phát triển kinh tế, văn
hoá xã hội, là sức mạnh để CNH, HĐH đất nước. Trí lực là yếu tố trí tuệ, tinh
thần, là cái nói lên tiềm lực văn hoá tinh thần của con người. Nó quyết định
phần lớn khả năng sáng tạo của con người. Bởi vì, “tất cả những gì thúc đẩy
con người hành động đều tất yếu phải thông qua đầu óc của họ”[62, 409]. Trí
lực là thành phần ngày càng có vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn
lực con người hay nguồn nhân lực. Đặc biệt trong kỷ nguyên văn minh tin học
ngày nay, nguồn nhân lực chỉ thực sự mạnh khi khai thác và sử dụng được
tiềm năng trí tuệ của nó. Do đó, nói đến nguồn nhân lực cần phải đặc biệt
nhấn mạnh đến năng lực trí tuệ và tay nghề. Để có được những năng lực trí

9



tuệ này, ngoài tư chất ban đầu, vai trò chủ yếu thuộc về giáo dục và đào tạo,
vì nó là phương tiện hữu hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên môn,
nghề nghiệp, là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của con người.
Thể lực và trí lực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thể lực không
khoẻ mạnh sẽ hạn chế lớn tới sự phát triển của trí lực, trí tuệ của cá nhân và
của cộng đồng xã hội nói chung. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì
và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt
động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
“ Ngoài thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người còn là kinh
nghiệm sống, đặc biệt là kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu
cầu và thói quen tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng
đồng”[1, 15] vào việc tìm tòi, vào sự sáng tạo vì lợi ích của cá nhân, của
cộng đồng và của toàn xã hội. Với ý nghĩa đó, nguồn nhân lực bao chứa trong
đó toàn bộ sự phong phú, sự sâu sắc, sự đổi mới thường xuyên các năng lực
trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý, năng lực chuyên môn và tính
tháo vát trong công việc hay là một tập hợp các chỉ số phát triển con người, là
hành trang mà nó có được nhờ sự hỗ trợ của cộng đồng xã hội và của sự kết
hợp sức mạnh thể lực và trí lực, là chất lượng văn hoá mà bản thân nó và xã
hội có thể huy động vào cuộc sống lao động sáng tạo vì sự tiến bộ và phát
triển.
Bên cạnh các khái niệm về nguồn nhân lực trên, còn có một số khái
niệm khác liên quan đến nguồn nhân lực như nhân lực, sức lao động, nguồn
lao động, lực lượng lao động.
Nhân lực là nguồn lực về con người, con người là nhân tố trung tâm và
là mục đích của nền sản xuất xã hội. C.Mác cho rằng “sức lao động hay năng
lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một
cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng


10


mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [64, 217-218] . Sức lao động
là tổng hợp thể lực và trí lực của con người, nó phản ánh khả năng lao động
của con người và là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình lao động xã hội.
Quá trình vận động phát triển sản xuất xã hội đòi hỏi sức lao động ngày càng
có chất lượng cao hơn.
Giáo trình kinh tế lao động của Trường Đại học kinh tế quốc dân đưa ra
khái niệm : nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động trừ đi những
người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Tuy nhiên, khi tính
toán nguồn lao động xã hội thì Tổng cục thống kê cho rằng: Nguồn lao động là
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người ngoài
tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Như vậy, khác nhau cơ bản giữa hai khái niệm trên là việc tính hay
không tính những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc ở các ngành
kinh tế quốc dân trong nguồn lao động.
Khái niệm về lực lượng lao động hẹp hơn khái niệm về nguồn lao
động, theo ILO, lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui
định, thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm đang
tích cực tìm kiếm việc làm.
* Đặc trưng của nguồn nhân lực
- Đặc trưng về tâm lý xã hội: con người không chỉ sống trong môi
trường tự nhiên mà còn sống trong môi trường xã hội. Theo quan điểm triết
học Mác-Lênin, hoạt động của con người chủ yếu là hoạt động sản xuất, hoạt
động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và thông qua những hoạt động này con
người cải tạo chính bản thân mình.
Con người bằng hoạt động lao động của mình đã làm biến đổi bản chất
tự nhiên và tạo ra bản chất xã hội của chính mình, cho nên tự nhiên và xã hội
trong mỗi con người gắn bó chặt chẽ và khăng khít với nhau. Chính những


11


hoạt động này làm biến đổi tâm lý của con người và làm cho con người mang
tính người, tính xã hội và cũng chính hoạt động thực tiễn đó đã làm cho nhu
cầu sinh vật ở con người trở thành nhu cầu xã hội. Yếu tố tâm lý trong mỗi
con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội mà chúng hoà quyện vào
nhau. Bản tính tự nhiên của con người được chuyển vào bản tính xã hội của
con người và được cải biến đi trong đó.
Nhân tố con người, đặc biệt là sức lao động. Yếu tố quan trọng của lực
lượng sản xuất, nó đặc trưng cho khả năng phát triển không ngừng của sản
xuất xã hội. Người ta thường quan niệm nhân tố sức lao động là một phạm trù
tổng hợp bao gồm các thành tố: thể lực, trí lực.
Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự chăm
sóc sức khoẻ, y tế và sự rèn luyện của từng con người cụ thể. Thể lực có ý
nghĩa quan trọng quyết định năng lực hoạt động của con người. Phải có thể
lực con người mới có thể phát triển trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.
Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học (khoa học tự
nhiên, khoa học kĩ thuật và khoa học xã hội), trình độ kiến thức chuyên môn,
kinh nghiệm làm việc và kỹ năng tư duy xét đoán sự vật, hiện tượng của mỗi
người. Nhờ trí tuệ, con người đã khai thác, chế ngự thiên nhiên và sử dụng nó
để bảo tồn và phát triển xã hội của mình. Trí lực của con người được phát
triển thông qua giáo dục, đào tạo và lao động sản xuất.
Ngoài thành tố trên, nguồn nhân lực còn có tình cảm, tập quán, thói
quen, phong cách, quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức...
nó phát triển cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người, của lịch sử
phát triển từng quốc gia, dân tộc. Đó là sức mạnh để phát huy tiềm năng vô
tận về trí tuệ, tài năng, tình cảm, ý chí, sức mạnh nội tại của một dân tộc.
Trí lực và cùng với tình cảm, tập quán, truyền thống, đạo đức, tư

tưởng...là bộ phận cấu thành nhân tố tinh thần, liên kết chặt chẽ với nhau.

12


Nhân tố tinh thần là kết quả của quá trình tích luỹ lâu dài của xã hội, gia đình
và từng con người. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia luôn gắn liền với sự
phát triển xã hội. Phát triển những giá trị tinh thần mới là nền tảng của một
quốc gia. Kinh nghiệm thành công trong quá trình phát triển kinh tế của Nhật
Bản và các nước NIC ở Châu Á là tiếp thu công nghệ, kỹ thuật phương tây
trên cơ sở phát huy giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc để đổi mới và phát
triển là một minh chứng rõ nét.
- Đặc trưng về số lượng: Số lượng nguồn nhân lực được xác định dựa
trên qui mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố dân cư theo khu vực
và vùng lãnh thổ của dân số. Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật
thiết với chỉ tiêu về qui mô tốc độ tăng dân số.
- Đặc trưng về chất lượng: Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện
thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của dân cư. Sức khoẻ là
trạng thái thoải mái về thể chất và tinh thần và xã hội của con người. Sức
khoẻ là nhân tố tác động trực tiếp đến cả số lượng và chất lượng nguồn nhân
lực. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại lợi ích kinh tế nhiều hơn
nhờ việc huy động sức mạnh, sự bền bỉ, dẻo dai và tập trung trí tuệ cao trong
khi thực hiện công việc. Các chỉ tiêu cơ bản phản ánh sức khoẻ là thể lực
(chiều cao, cân nặng), bệnh tật, tuổi thọ.
+ Chỉ tiêu biểu hiện trình độ học vấn của người lao động. Đó là sự
hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên
và xã hội. Trình độ học vấn được biểu hiện bằng tỉ lệ biết chữ, trình độ học
vấn theo nhóm tuổi theo các cấp độ trong giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp.

+ Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chuyên môn kỹ
thuật của người lao động. Trình độ chuyên môn kỹ thuật là sự hiểu biết các kỹ

13


năng thực hành về chuyên môn kỹ thuật và nghiệp vụ nào đó của người lao
động. Đề án nghiên cứu tổng thể về giáo dục, đào tạo và phân tích nguồn
nhân lực Việt Nam do UNESCO, UNDP và Bộ giáo dục và đào tạo thực hiện
đã phân loại trình độ chuyên môn kỹ thuật như sau: Trên đại học, đại học và
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật có bằng, công nhân
kỹ thuật không bằng (và trong cuốn Thực trạng lao động –việc làm ở Việt
Nam hàng năm của Bộ lao động-thương binh và xã hội cũng phân loại trình
độ chuyên môn kỹ thuật tương tự). [8]
+ Chỉ số HDI là sự kết hợp của ba thành phần cơ bản liên quan đến sự
phát triển con người, đó là: tuổi thọ, tri thức ( bao gồm số người biết chữ và
số năm đi học ở trường) và mức sống của con người thông qua chỉ tiêu GDP
thực tế bình quân đầu người. Trong báo cáo phát triển con người năm 1990 và
Báo cáo tiếp theo của UNDP đã đưa ra một loạt các chỉ số để đo lường kết
quả và đánh giá thành tựu phát triển con người. Chỉ số tổng hợp nhất được
đưa ra từ năm 1990 và được hiệu chỉnh lại vào năm 1999 là chỉ số phát triển
con người ( Human Development Index- HDI) được xác định từ ba chỉ tiêu: [
86, 16-17] Tuổi thọ tính từ khi sinh ra; trình độ giáo dục: tính tổng hợp theo tỉ
lệ biết chữ của người lớn và các tỉ lệ đi học tiểu học, trung học, đại học; Mức
sống: đo bằng giá trị GDP tính bình quân đầu người thực tế theo sức mua
tương đương.
+ Chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người lao động, bao gồm: tập
quán, thói quen, phong cách, đạo đức, lối sống, truyền thống, văn hoá dân tộc,
trong đó trình độ chuyên môn kỹ thuật là một trong những chỉ tiêu quan trọng
nhất để thể hiện chất lượng nguồn nhân lực.

* Nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế- xã hội
- Nguồn nhân lực với vai trò là động lực của sự phát triển:

14


Phát triển kinh tế- xã hội dựa trên nhiều nguồn lực : nguồn lực con
người, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính...trong các nguồn lực đó thì
nguồn lực con người, nguồn nhân lực là quan trọng nhất, nó tạo ra động lực
cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có
thông qua nguồn lực con người. Do đó, mặc dù nhà máy, trang thiết bị và tài
sản và nhiều nguồn lực khác có phong phú, hiện đại đến đâu mà các tổ chức
cần phải có, thế nhưng nếu không có con người- nguồn nhân lực- để vận hành
chúng, liên kết cho chúng hoạt động, thì mọi thứ đó cũng không có giá trị gì.
Do đó, nguồn nhân lực hay nguồn lực con người vẫn là yếu tố đặc biệt quan
trọng. Các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu vẫn chỉ là có hạn và chỉ phát huy
sức mạnh, hiệu quả và tác dụng có hiệu quả thông qua nguồn lực con người.
Ngay cả trong điều kiện đạt được những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại
như hiện nay, thì con người luôn là nguồn sáng tạo ra thiết bị máy móc đó và
điều khiển chúng hoạt động đạt mục đích của chính con người [12, 12-14].
Nguồn nhân lực được xem là yếu tố nội lực quan trọng chi phối quá trình phát
triển của mỗi quốc gia và đặc biệt quan trọng đối với các nước có nền kinh tế
đang phát triển, dân số đông như nước ta. Nguồn nhân lực với yếu tố hàng
đầu là trí lực có ưu thế nổi bật là yếu tố vô hạn nếu biết bồi dưỡng khai thác,
sử dụng hợp lý sẽ tạo nên một động lực to lớn có tính quyết định cho quá
trình phát triển kinh tế- xã hội.
- Nguồn nhân lực với vai trò là mục tiêu của sự phát triển:
Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã chỉ ra rằng động lực quan
trọng nhất của sự tăng trưởng bền vững về kinh tế và xã hội chính là con
người. Chi tiêu cho con người, trong nhiều trường hợp không phải là một

khoản tiêu dùng đơn thuần, mà là một khoản đầu tư để hình thành một loại
nguồn vốn quan trọng, có khả năng sản sinh ra các nguồn thu nhập trong
tương lai. Đó là nguồn vốn con người thông qua việc tạo lập kỹ năng, kiến

15


thức, kinh nghiệm. Đầu tư vào con người thông qua hoạt động giáo dục, đào
tạo, chương trình bảo đảm việc làm, thoả mãn tiêu dùng về vật chất và tinh
thần, chăm sóc sức khoẻ, được xem là cách thức đầu tư hiệu quả nhất [86, 1617]. Xét về mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, con người là lực lượng
tiêu dùng của cải vật chất của xã hội và có tác động mạnh mẽ tới sản xuất
thông qua quan hệ cung-cầu hàng hoá trên thị trường và định hướng sản xuất.
Tuy nhiên, khi đầu tư phát triển nguồn nhân lực, con người thường
được nhìn nhận như một nguồn vốn. Song về mục tiêu phát triển sản xuất nói
riêng cũng như mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội nói chung, suy cho cùng là
nhằm mục đích phục vụ con người. Về bản chất, con người là mục tiêu, chứ
không phải là phương tiện của sự phát triển kinh tế xã hội, còn phát triển kinh
tế xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho con
người có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
- Nguồn nhân lực với tư cách là nguồn lực khan hiếm:
Ngày nay, cách mạng khoa học cộng nghệ đã và đang diễn ra đã tác
động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế- xã hội và con người trong từng nền
văn minh, trong từng quốc gia. Con người trong mỗi nền văn minh phải có
một trình độ văn hoá, một trình độ nghề nghiệp nhất định. Các nghiên cứu
cho thấy:
Về nguồn động lực mà con người sử dụng trong văn minh nông nghiệp
là năng lượng cơ bắp của con người và động vật, còn trong văn minh công
nghiệp là năng lượng của máy công tác gồm động cơ đốt trong và động cơ
điện, còn trong văn minh hậu công nghiệp là sử dụng năng lượng cả máy công
tác và máy điều khiển.

Về người lao động và quá trình sản xuất: trong văn minh nông nghiệp
là con người dùng cơ bắp và gắn chặt với quá trình sản xuất; trong văn minh
công nghiệp là người điều khiển máy móc thay cho cơ bắp trong quá trình sản

16


xuất; trong văn minh hậu công nghiệp là máy tự động và dây truyền sản xuất
tự động, con người điều khiển toàn bộ chu trình sản xuất, trong đó năng lực tư
duy, trí tuệ của con người là cực kỳ quan trọng.
Cuộc cách mạng về công cụ sản xuất nói trên gắn liền với những thay
đổi lớn liên quan đến lợi thế so sánh của từng quốc gia. Khả năng cạnh tranh
của mỗi nước ngày càng được xác định nhiều hơn bởi chất lượng các nguồn
lực: con người, tri thức, khoa học, công nghệ... những cái được áp dụng trong
quá trình sản xuất. Sự dư thừa sức lao động giản đơn và nguyên liệu ngày
càng là một lợi thế so sánh ít có giá trị. Chẳng những thế, nếu nguồn nhân lực
chỉ chứa hàm lượng lao động giản đơn sẽ là một sức ép đối với quá trình tăng
trưởng và phát triển đối với những nước chậm phát triển [22]
Trình độ công nghệ ngày càng cao cần có nhiều thời gian đào tạo con
người để làm chủ công nghệ đó. Trong những thập niên gần đây, tốc độ phát
triển của khoa học công nghệ diễn ra nhanh như vũ bão. Cho nên, nguồn nhân
lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề ngày càng trở thành lợi thế cạnh
tranh cho mỗi quốc gia. Các nước phát triển đã có nhiều chính sách thu hút
nhân lực tài giỏi của các quốc gia khác. Chính vì thế, nguồn nhân lực chất
lượng cao luôn là nguồn lực khan hiếm và càng khan hiếm hơn đối với các
nước đang phát triển.
* Nguồn nhân lực trong lực lượng sản xuất
Quan điểm triết học cho rằng: sự vận động và phát triển của lịch sử xét
đến cùng là có căn nguyên xuất phát từ kinh tế. Sự vận động thay thế nhau
của các hình thái kinh tế- xã hội trong lịch sử là dựa trên sự thay thế hợp quy

luật của các phương thức sản xuất, trong đó vai trò và ảnh hưởng của con
người gắn liền với hoạt động sản xuất đó, bởi vì con người là yếu tố cách
mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Con người chế tạo công cụ và sử dụng
công cụ tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên, làm ra sản phẩm để thoả

17


mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. C.Mác là người đầu tiên phát hiện
ra quy luật lịch sử của loài người, nghĩa là tìm ra sự thật giản đơn là trước hết
để tồn tại con người phải ăn, uống, mặc, ở, đi lại...trước khi thực hiện các hoạt
động chính trị, khoa học, nghệ thuật. Nhưng muốn có cái ăn, cái mặc, nơi ở
thì con người phải lao động. Tuy nhiên lao động của con người không thể tuỳ
tiện được mà phải có cách thức lao động, đó là phương thức sản xuất. Phương
thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản xuất ra của cải vật chất
trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất là sự thống
nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó lực
lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là năng
lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động
và tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Lao động của con người
và tư liệu sản xuất kết hợp với nhau trong quá trình lao động tạo thành lực
lượng sản xuất, mà "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động"[59, 430]. Khi phân tích về lực lượng sản xuất
trong xã hội tư bản, C. Mác viết " trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực
lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng" [63, 257].
Như vậy, C.Mác đã khẳng định con người là yếu tố có vai trò to lớn nhất,
quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Ở đây, các ông coi con người phải
là người công nhân, giai cấp tiên tiến, nghĩa là nhấn mạnh đến "chất lượng"
của người lao động- nguồn nhân lực trong lực lượng sản xuất. Trong đó con

người bằng sức lực và trí tuệ của mình chế tạo ra công cụ lao động và dùng
công cụ đó tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên tạo ra sản phẩm nhằm
thoả mãn nhu cầu của mình và xã hội. trong quá trình lao động, con người đã
biến những phần vật chất do tự nhiên cung cấp thành "khí quan nhân tạo" của

18


mình để nhận thức sâu hơn, xa hơn về lĩnh vực vi mô và vĩ mô của tự nhiên,
đó cũng chính là lao động sáng tạo của con người.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì công cụ lao động có vai trò
quan trọng, nó là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Với
mục đích luôn muốn tăng năng suất và giảm cường độ lao động, con người đã
sáng tạo ra công cụ và sử dụng nó trong sản xuất. Nhờ đó mà công cụ ngày
càng hoàn thiện và hiện đại. Con người không chỉ quyết định sự ra đời của
công cụ lao động mà còn quyết định cả quá trình vận hành chúng. Máy móc,
công cụ dù có hiện đại, tinh vi đến đâu, nhưng không có con người sử dụng,
vận hành cũng trở thành vô ích. Do đó, theo quan điểm thực tiễn, quan điểm
đời sống và từ bản chất xã hội của con người, có thể nói, con người, nguồn
nhân lực mang đặc trưng năng động, sáng tạo và cách mạng.
Thấm nhuần những tư tưởng trên đây của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong
sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta khẳng
định " mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
người. Chiến lược kinh tế- xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải
phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao
động và của cả cộng đồng dân tộc" [30, 8]. Trong quá trình đổi mới và nhất là
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, từng bước vững chắc
đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
khai thác và sử dụng tốt mọi tiềm năng về thể chất và trí tuệ, mọi khả năng

sáng tạo của con người và của toàn thể cộng đồng dân tộc có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trọng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Ngày nay, nhờ thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
mà trí tuệ con người đã và đang được tăng lên rất nhiều, nhờ đó mà tăng
thêm sức mạnh trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, hình thành lực

19


lượng sản xuất mới, trong đó máy móc thông minh trở thành một thành tố
cơ bản và là sức mạnh được vất chất hoá của tri thức con người, nó có tác
dụng hỗ trợ, nhân lên khả năng lao động của con người và tăng cường sức
mạnh trí tuệ của con người trong cải tạo hiện thực. Do vậy, đối với nước ta,
phát triển, đào tạo con người Việt Nam hiện đại vừa là mục tiêu, vừa là
động lực, nền tảng, tạo đà cho bước tiếp theo của sự nghiệp CNH, HĐH mà
chúng ta đang thực hiện.
Từ nhìn nhận đó, theo chúng tôi, nguồn nhân lực được hiểu là:
Nguồn nhân lực, nguồn lực con người là tổng thể các chỉ số phát
triển người mà con người có được nhờ sự trợ giúp của cộng đồng xã hội
và sự nỗ lực của các cá nhân, là tổng thể số lượng dân và chất lượng con
người, là tổng thể sức mạnh thể lực, trí lực, kinh nghiệm sống, nhân cách
đạo đức, lý tưởng, chất lượng văn hoá, năng lực chuyên môn và tính năng
động trong công việc mà bản thân con người và xã hội có thể huy động vào
cuộc sống lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
1.1.2 Đào tạo nguồn nhân lực
* Khái niệm đào tạo nguồn nhân lực
Theo định nghĩa trong từ điển bách khoa: Đào tạo là quá trình tác động
đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích
nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định,

góp phần của mình vào việc phát triển kinh tế- xã hội, duy trì và phát triển
nền văn minh loài người. Về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập ở nhà
trường gắn với việc giáo dục đạo đức, nhân cách.
Đào tạo là sự phát triển có hệ thống những kiến thức, kỹ năng mà mỗi
cá nhân cần có để thực hiện đúng một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể. Sự cần
thiết đó có thể do nhu cầu cá nhân của người được đào tạo hoặc do nhu cầu

20


×