Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Đào tạo và phát triển nguồn lực con người ngành giáo dục tỉnh Bắc Ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ HUYỀN

Đào tạo và phát triển nguồn lực con người
ngành giáo dục tỉnh Bắc Ninh hiện nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ CNDVBC&CNDVLS

HÀ NỘI, 2004


Các Chữ cái viết tắt trong luận văn

CNH-HĐH

: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

GD-ĐT

: Giáo dục và đào tạo

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

UBND

: Uỷ ban nhân dân


HĐND

: Hội đồng nhân dân


Mục Lục
Trang
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Nguồn lực con người, vai trò của giáo dục- đào tạo
trong sự phát triển nguồn lực con người trong việc
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá hiện nay

6

1.1. Khái niệm nguồn lực con người

6

1.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH-HĐH ở
nước ta

13

1.3. Nguồn lực con người ngành GD-ĐT và vai trò của GD-ĐT
trong sự phát triển nguồn lực con người

23


Chương 2: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu về đào
tạo, phát triển nguồn lực con người ngành GD-ĐT
Bắc Ninh hiện nay

39

2.1. Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội
và thực trạng nguồn lực con người tỉnh Bắc Ninh

39

2.2 Nguồn lực con người ngành giáo dục tỉnh Bắc Ninh- thành tựu
và hạn chế

52

2.3. Phương hướng và những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn
lực con người ngành GD-ĐT Bắc Ninh
2.3.1. Phương hướng và mục tiêu

68
68

2.3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con
người ngành GD-ĐT Bắc Ninh
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

72
90



Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm 70 trở lại đây thế giới đang chuyển từ nền kinh tế chủ yếu
dựa vào nguồn tài nguyên hạn hẹp của hành tinh sang nền kinh tế trí thức,
trong đó đầu tư phát triển nguồn lực con người được coi là quan trọng hơn các
dạng đầu tư khác. Nguồn lực con người được đánh giá là nguồn lực của mọi
nguồn lực có sức mạnh siêu quốc gia và có tính quyết định trong cạnh tranh
kinh tế và thiết lập nền kinh tế thế giới mới. Do đó, nhiều quốc gia trên thế giới
đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển và đề ra các chính sách phát
triển nguồn lực con người phục vụ yêu cầu trước mắt và lâu dài. Nguồn lực con
người là một trong những yếu tố quan trọng nhất đưa một số nước từ chỗ
nghéo khổ, tài nguyên khan hiếm và kiệt quệ sau chiến tranh trở thành nước
công nghiệp hoá và tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.
Việt Nam là nước nghèo và đang phát triển, dân số đông, nguồn tài
nguyên hạn hẹp, kỹ thuật lạc hậu, trình độ dân trí chưa cao. Do đó, đào tạo và
phát triển nguồn lực con người giữ vai trò quyết định trong quá trình phát triển
kinh tế- xã hội. Vì thế, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm phát triển nguồn lực
con người. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nêu rõ “Lấy việc
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững [12, tr.85].
Đất nước ta bước vào thời kì CNH- HĐH các ngành sản xuất kinh
doanh phát triển mạnh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ, nhiều công nghệ
mới, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, nền sản xuất đang chuyển đổi một cách
căn bản từ lao động thủ công sang lao động dùng máy móc, phương tiện kỹ
thuật tiên tiến. Trước thực tế đó, chủ thể của quá trình CNH- HĐH phải là
những người lao động được đào tạo đáp ứng kịp thời, đầy đủ, phù hợp cả về số



lượng, chất lượng và cơ cấu. Trong đó, chất lượng của nguồn lực con người có
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình CNH- HĐH. Từ đó, GD- ĐT đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn lực con
người.
Nói đến nghành GD- ĐT, xét đến cùng là nói đến chất lượng giáo dục.
Thước đo của mọi nền giáo dục là hiệu quả và chất lượng. Làm nên chất lượng
giáo dục gồm nhiều yếu tố: cán bộ, giáo viên, học sinh, điều kiện cơ sở vật
chất, chương trình, sách giáo khoa….nhưng quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ
quản lý, giáo viên- nguồn nhân lực quyết định chất lượng giáo dục.
Từ thực trạng nguồn lực con người ngành GD- ĐT tỉnh Bắc Ninh, với tư
cách là một giảng viên tham gia giảng dậy nhiều năm trong lĩnh vực GD- ĐT ở
địa pương, trước những vấn đề bức xúc đang đặt ra với việc nâng cao vai trò
của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhằm khai thác, phát huy tiềm năng và
đóng góp to lớn của họ việc đào tạo, giáo dục thế hệ, góp phần đưa Bắc Ninh
cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 tôi lựa chọn vấn đề: “Đào
tạo và phát triển nguồn lực con người ngành giáo dục tỉnh Bắc Ninh hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học Triết học.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, vấn đề
đào tạo và phát triển nguồn lực con người trở thành vấn đề nóng bỏng, bức xúc
với toàn xã hội, nó đã thu hút các nhà lý luận trong nước nghiên cứu với những
công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước và có nhiều bài viết về vấn đề
này như:
- Chương trình mang mã số KX-07 “Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ” (Trích NXB Chính trị Quốc gia 1996).
- “Nguồn nhân lực trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của
Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn (Theo tạp chí Triết học số 3 năm 1994).


- “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay” của Trương

Giang Long, (Tạp chí Cộng sản số 1- tháng 1 năm 2002).
- “Vai trò của nguồn nhân lực” của Trần Văn Tùng (Tạp chí Thông tin lý
luận số 6 năm 1995).
- “Giáo dục nhân cách, đào tạo nhân lực’’ của GS- TS Phạm Minh Hạc
(Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1997).
- “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tạo nguồn nhân
lực cho công nghiệp hoá’’ của Phạm Văn Khánh (Tạp chí Lịch sử Đảng số 11997).
- “Ngành Giáo dục và Đào tạo thực hiện Nghị quyết TƯ II khoá VIII và
triến khai nghị quyết Đại Hội IX” - Nguyễn Minh Hiển (Tạp chí CS số 22
tháng 8 năm 2002)…
Những công trình trên của các tác giả đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau về nguồn lực con người và vai trò của giáo dục, đào tạo trong việc phát
triển nguồn lực con người. Những công trình đó cũng đã đề cập và giải quyết
được những vấn đề lý luận cơ bản, định hướng cho việc phát triển nguồn lực
con người hiện nay của nước ta. Song thường dừng lại ở những vấn đề chung
và biểu hiện ở phạm vi rộng.
Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn lực con người ngành giáo dục ở tỉnh
Bắc Ninh hiện nay tiếp cận từ góc độ triết học thì chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu. Do vậy, việc thực hiện đề tài này tác giả mong muốn góp phần
làm phong phú và đầy đủ hơn về mặt thực tiễn trong đào tạo, phát triển nguồn
lực con người ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn lực con người trong
ngành giáo dục ở Bắc Ninh, đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác đào tạo, phát triển nguồn lực con người trong ngành giáo dục góp
phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới hiện nay ở tỉnh.


* Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:

- Làm rõ thêm khái niệm nguồn lực con người, nguồn lực con người trong
GD - ĐT; vai trò của nguồn lực con người đối với CNH-HĐH đất nước nói
chung, Bắc Ninh nói riêng và vai trò của GD- ĐT trong sự phát triển nguồn lực
con người.
- Phân tích đánh giá thực trạng đào tạo, phát triển nguồn lực con người
ngành giáo dục ở Bắc Ninh.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển nguồn lực con người ngành
giáo dục của tỉnh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Đào tạo và phát triển nguồn lực con người
ngành giáo dục ở Bắc Ninh hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Nguồn lực con người bao hàm nhiều phương
diện, luận văn này không nghiên cứu nguồn lực con người nói chung với tất
cả các mặt của nó mà chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn lực
con người trong ngành giáo dục ở Bắc Ninh hiện nay, với tư cách là một bộ
phận cấu thành hệ thống các nguồn lực trong quá trình CNH- HĐH đất nước
nói chung, Bắc Ninh nói riêng.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về con người, phát triển nguồn nhân lực. Luận văn cũng kế thừa kết
quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài.
* Nguồn tài liệu: Các tác phẩm kinh điển của Mác, Ăng ghen, Lênin, Hồ
Chí Minh; các Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc; tạp chí triết học, cộng sản,
giáo dục và một số sách khác.


* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được hình thành và triển khai trên cơ
sở phương pháp luận triết học mác- xít, với các phương pháp: Phân tích, tổng
hợp, hệ thống hóa, so sánh, lôgíc và lịch sử, điều tra xã hội học.

6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực GD - ĐT thể hiện qua vai trò
của GD - ĐT với tính cách là nâng cao chất lượng nguồn lực con người- nhân
tố quyết định thắng lợi sự nghiệp CNH- HĐH nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói
riêng.
- Nêu lên phương hướng và một số giải pháp có tính khả thi trong đào tạo,
phát triển nguồn lực con người ngành giáo dục ở Bắc Ninh hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
học tập liên quan đến đào tạo nguồn lực con người ngành giáo dục.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và mục
lục, luận văn gồm 2 chương:
Chương I: Nguồn lực con người, vai trò của giáo dục- đào tạo trong sự
phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Chương II: Phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm đào tạo, phát
triển nguồn lực con người ngành giáo dục ở Bắc Ninh hiện nay.


Chương 1
Nguồn lực con người, vai trò của Giáo dục- Đào tạo trong sự phát triển
nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta hiện nay
1.1. Khái niệm nguồn lực con người

1.1.1. Định nghĩa nguồn lực con người
Sự nghiệp CNH- HĐH nước ta phải dựa trên một tổng thể các nguồn lực,
bao gồm: Nguồn vốn, nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực, ngoài ra còn có các
giá trị truyền thống văn hoá dân tộc và bầu không khí chính trị- xã hội trong
nước và Quốc tế. Trong điều kiện hiện nay của nước ta, nguồn lực con người là

cơ bản và quan trọng nhất.
Vậy nguồn lực con người là gì?
Tóm lại, nguồn lực con người hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm sức mạnh
của thể chất, trí tuệ, tinh thần và sự tương tác giữa các cá nhân trong một cộng
đồng xã hội, một quốc gia, được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào
các công việc hữu ích. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực con người là bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động.
Để làm rõ hơn quan niệm về nguồn lực con người, có thể đi sâu phân tích
cấu trúc của nguồn lực con người.
1.1.2. Cấu trúc nguồn lực con người
Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng cộng sản Việt
Nam chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững. Đây là sự phát triển quan điểm truyền thống
coi con người là vốn quý nhất.
Trước đây, khi nói đến nguồn lực con người, người ta thường đồng nhất
với sức người trong sản xuất. Từ quan niệm đơn giản này, dễ dẫn đến ngộ nhận
sức người (sức lao động) trong lao động sản xuất chỉ là sức của cơ bắp. Nguồn
lực con người trước tiên thể hiện ở sức người trong sản xuất, song không phải


chỉ là sức cơ bắp mà cái chủ yếu trong nguồn lực con người ở thời đại ngày
nay chính là hàm lượng trí tuệ, là những phẩm chất tâm lý, đạo đức cần thiết,
khả năng lao động sáng tạo, hiệu quả… của con người.
Nguồn lực con người Việt Nam được hiểu là những tiêu chí phản ánh về
số lượng và chất lượng của dân số, với tư cách là lực lượng sản xuất trong xã
hội hiện nay. Số lượng nguồn lực con người chính là lực lượng lao động và khả
năng cung cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế xã hội. Các chỉ số
về số lượng nguồn lực con người của một quốc gia là dân số, tốc độ tăng dân
số, tuổi thọ bình quân.
Số lượng nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng đối với sự phát

triển kinh tế xã hội. Nếu số lượng nguồn lực con người không tương xứng với
sự phát triển kinh tế xã hội (hoặc thừa, hoặc thiếu) đều tác động không tốt đến
sự phát triển kinh tế- xã hội. Đối với các nước đang phát triển thường có tình
trạng thừa nhân lực, do đó vấn đề việc làm trở thành nhu cầu cấp bách đối với
xã hội. Trái lại, một số nước do tốc độ phát triển cao về lao động lớn đặc biệt,
lao động có tính chất thời vụ, lao động không cần tay nghề cao với mức lương
thấp. Điều đó buộc các nước này phải nhập khẩu lao động từ nước khác: Việc
nhập khẩu lao động đã giúp các nước thiếu lao động giải quyết được nhu cầu
lao động, song lại tạo ra những xáo trộn nhất định đối với xã hội, Hàn Quốc là
một ví dụ điển hình về vấn đề này.
Nhưng yếu tố quan trọng nhất trong nguồn lực con người là chất lượng
nguồn lực con người. Đây mới chính là yếu tố quyết định thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Chất lượng nguồn lực con người là sự
kết hợp giữa thể lực, trí lực và đạo đức, bao gồm: sức khoẻ, trình độ kiến thức,
tay nghề, tác phong nghề nghiệp; ý thức, thái độ lao động, thói quen vận dụng
tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của từng người, của cộng đồng. Trong đó, trí
tuệ là quan trọng nhất, vì nó không chỉ là cơ sở để tạo kỹ năng nghề nghiệp mà
còn là yếu tố hình thành nhân cách, lối sống của mọi người. Đảng ta khẳng


định, nói đến chất lượng của nguồn lực con người là nói đến hàm lượng trí tuệ
ở trong đó, nói tới “người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có
phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục
tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại” [13, tr.9].
Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế, xã hội, con người chẳng
những sử dụng lao động chân tay, mà còn sử dụng lao động trí óc, hơn nữa, sử
dụng lao động trí óc ngày càng nhiều khi xã hội càng phát triển. Vì vậy, trí tuệ
trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn lực con người. Có nó,
con người có thể có được tất cả những yếu tố khác- kể cả của cải, khoa học
công nghệ mới, bởi vì “Tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều tất

nhiên phải thông qua đầu óc của họ” [32, tr.409].
Ngay từ thế kỷ XIX, đánh giá vai trò của trí tuệ đối với sự phát triển xã
hội, C.Mác đưa ra một mệnh đề nổi tiếng: “Lao động phức tạp chỉ là lao
động giản đơn được nâng lên luỹ thừa” [33, tr.75 ]. Điều này có nghĩa là,
trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp (thực chất lao động có
hàm lượng trí tuệ cao) tạo ra giá trị gấp bội giá trị của lao động giản đơn. Sở
dĩ như vậy vì lao động phức tạp bao gồm cả những phí về thời gian, sức lực,
tiền của cho việc nâng cao chất lượng lao động cho việc ứng dụng những
sáng tạo khoa học- kỹ thuật và quá trình sản xuất. Nhờ ứng dụng rộng rãi
những thành tựu của Khoa học và công nghệ vào trong sản xuất, con người
đã tạo ra những sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao và năng suất lao động
tăng gấp bội. Nếu ở những năm đầu của thế kỷ XX, tỷ lệ lao động cơ bắp
trong sản xuất là 9/10 thì vào những năm 1990, tỷ lệ này giảm còn 1/5,
nhưng khối lượng sản phẩm tăng gấp 50 lần so với 80 năm về trước. Theo
dự tính, đến năm 2010, phần tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm chỉ còn
1/10 [48, tr.14-16].Do tầm quan trọng trí tuệ như vậy, ngày nay hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều tìm cách nâng cao hàm lượng trí tuệ trong đội ngũ
những người lao động. Để nâng cao hàm lượng trí thức trong đội ngũ những


người lao động thì các biện pháp về giáo dục và đào tạo đóng vai trò hết sức
quan trọng. Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ ra rằng không một quốc gia nào trên
thế giới có thể trở lên giàu có và có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi
đạt được phổ cập giáo dục phổ thông, Các nước công nghiệp mới như: Hàn
Quốc, Singapo có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trong những thập kỷ 70, 80
đều đạt được mức độ phổ cập giáo dục tiểu học trước khi nền kinh tế cất cánh
[17, tr.8].
Dựa trên nền tảng mặt bằng dân trí của nguồn lực con người, Đảng và nhà
nước Việt Nam cần xây dựng và phát triển những nguồn lao động có năng lực
cao về trí tuệ. Họ phải có khả năng áp dụng khoa học để sáng chế những kỹ

thuật công nghệ tiên tiến, có kỹ năng nghề nghiệp, có khả năng nhạy bén, thích
ứng nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại…Đây là những yêu
cầu rất cơ bản về nguồn lực con người cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trong điều kiện ngày nay.
Sau trí lực là thể lực- yêu cầu không thể thiếu được của nguồn lực con
người. Thể lực là điều kiện để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để
chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật
chất hiện thực. Đối với mỗi con người tri thức sức khoẻ là vốn quý nhất, là cội
nguồn của hạnh phúc.
Với tư cách là một yếu tố của nguồn lực con người, thể lực (sức khoẻ) là
sự phát triển hài hoà của con người cả về thể chất và tinh thần.Vì vậy yếu tố
này phải bao gồm cả sức khoẻ cơ thể và sức khoẻ tinh thần. Sức khoẻ cơ thể là
sự cường tráng, phát triển cân đối hài hoà của các giác quan trong cơ thể theo
một quy luật “tạo hoá” của tự nhiên. Sức khoẻ tinh thần là sự dẻo dai trong
hoạt động thần kinh. Mà biểu hiện cụ thể của nó thông qua sức mạnh, niềm tin,
khát vọng, ý chí. Suy cho cùng, sức khoẻ tinh thần là khả năng vận động của trí
tuệ biến tư duy thành hành động thực tế.


Bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH- HĐH, yêu cầu về lao động trí tuệ ngày
một cao. Vì vậy, cần phải có những người lao động khoẻ mạnh cả về thể chất và
tinh thần mới đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Họ có thể làm việc dẻo
dai, có khả năng tập trung trí tuệ cho công việc, có sức mạnh của niềm tin và ý chí
để phát huy tốt vai trò của nguồn lực con người. Với ý nghĩa đó, chăm sóc sức
khoẻ cho nhân dân là một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn lực
con người, tạo tiền đề để phát huy có hiệu quả tiềm năng con người.
Nhận thức được tầm quan trọng của thể lực, trí lực với chất lượng nguồn
lực con người và đứng trước thực trạng nhân lực của Việt Nam, Đảng ta đã rất
quan tâm đến “phát triển trí tuệ người Việt Nam” để “nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ” [12, tr.28], “Phát huy tài trí của người

Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu bằng khoa học
công nghệ” [12, tr.207]
Thể lực, trí lực là hai yếu tố chính tạo nên chất lượng nguồn lực con
người, nhưng để có một con người toàn diện đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH đòi
hỏi ở con người lao động hàng loạt phẩm chất lao động và nghề nghiệp như: kỷ
luật, tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, có tinh thần hợp tác và tác
phong lao động công nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp, đó chính là đạo đức
của người lao động.
Trong cấu trúc nhân cách thì đạo đức và năng lực là hai thành phần cốt
yếu tạo nên nhân cách của con người. Trong đó, đạo đức được xem là cái gốc,
là cơ sở cho sự hình thành và phát triển thế giới quan, nhân sinh quan của mỗi
người. Đồng thời, nó định hướng và tạo điều kiện để phát triển năng lực bản
chất người ở những trình độ ngày càng cao sao cho mỗi cá nhân- với tư cách là
chủ thể sáng tạo có thể “bộc lộ tất cả những khả năng có thể có của mình để
sống, sản xuất, sáng tạo ra của cải, vật chất, tinh thần cho xã hội” [24,22].
Đến lượt mình, sự phát triển của năng lực trí tuệ lại tạo điều kiện và khả năng
thực tế để con người vươn tới các chuẩn mực đạo đức mới, nhất là các giá trị


chân, thiện, mỹ, từ đó mà hoàn thiện nhân cách văn hoá của mình. Chính vì vậy,
đạo đức và năng lực “thẩm thấu” vào nhau, chi phối, điều chỉnh lẫn nhau, tạo ra
khung cấu trúc nhân cách của cá nhân, chúng phản ánh tập trung cho chất
lượng nguồn lực con người. Do vậy sẽ là siêu hình, nếu ta đánh giá quá cao vai
trò của nhân lực trí tuệ mà không thấy tác dụng của đạo đức con người.
Đạo đức theo cách hiểu phổ biến là những chuẩn mực, quy phạm của xã
hội, cộng đồng đòi hỏi việc ứng xử của mỗi cá nhân, tập thể phải tuân theo.
Chính vì thế, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được tiến hành
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đạo đức là yêu cầu
không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân và nguồn lực con người nói chung.
Đạo đức là chuẩn mực để mọi người tự điều chỉnh mọi hoạt động sản xuất, xã

hội cho phù hợp với mục tiêu “định hướng XHCN” của CNH- HĐH.
Tóm lại, nguồn lực con người là một phạm trù có nội hàm sâu, ngoại diên
mới rộng lớn. Nó không chỉ đơn thuần là nguồn lao động đã có và sẽ có mà
còn bao gồm nhiều yếu tố vật chất và tinh thần khác nữa. Điều đó đòi hỏi việc
đào tạo và phát triển nguồn lực con người phải chú ý đầy đủ những yếu tố vật
chất và tinh thần ở từng con người cũng như toàn xã hội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ ra rằng: xã hội muốn
phát triển rất cần có “những con người khổng lồ” phát triển cao về trí tuệ, khoẻ
mạnh về thể chất, trong sáng, nhân ái về đạo đức và tinh thần. Tất cả những
yếu tố này hoà quyện vào nhau trong nguồn lực con người và tạo ra một chất
lượng toàn diện của nguồn lực con người nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại
hoá ở nước ta

1.2.1. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
Công nghiệp hoá là nấc thang tất yếu lịch sử mà bất kì một nước nào
muốn đạt trình độ một nước phát triển đều phải trải qua. Trong điều kiện tiến


bộ khoa học, công nghệ hiện nay của thế giới thì công nghiệp hoá phải gắn liền
với hiện đại hoá.
Đối với nước ta chỉ có thực hiện CNH- HĐH mới có thể thoát khỏi tình
trạng một nước nông nghiệp lạc hậu, khắc phục được nguy cơ tụt hậu quá xa so
với các nước trong khu vực và thế giới. Do vậy, từ Đại hội Đảng lần thứ III
đến nay, Đảng ta đã luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của
thời kì quá độ.Thực hiện nhiệm vụ đó, những năm qua, nhất là những năm đổi
mới, đánh dấu bằng Đại hội Đảng lần thứ VI, chúng ta đã thu được nhiều thành
tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới chuyển sang thời kì phát triển cao hơn,
Nghị quyết Hội nghị TW 7, khoá VII chỉ rõ: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [11, tr.42].
Chúng ta cũng có thể nói, thực chất của công nghiệp hoá là sự phát triển công
nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội (công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ) từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại, lực lượng lao
động sẽ chuyển dịch thích ứng với cơ cấu ngành nghề, về trình độ tay nghề và
học vấn của người lao động.
Đại hội Đảng lần VIII xác định: “Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp” [12, tr.80].


Căn cứ vào bối cảnh trong nước và quốc tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX của Đảng nhấn mạnh một số quan điểm chủ yếu của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đó là:
1. Về con đường công nghiệp hoá ở nước ta.
Đại hội IX khẳng định: “Cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước
đi trước” [3, tr.126].
Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm thu hẹp khoảng cách về trình độ
phát triển so với các nước trong khu vực và thế giới. Cố nhiên, muốn rút ngắn thời
gian tiến hành Công nghiệp hoá so với các nước đi trước, chúng ta cần:
- Về kinh tế và công nghiệp phải có bước đi vừa tuần tự vừa nhảy vọt.
- Phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để sớm đạt trình
độ công nghệ tiên tiến.

- Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt
Nam. Đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục- đào tạo, xem đây là nền tảng và
động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải đảm bảo xây dựng một
nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo đúng định
hướng XHCN.
3. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chỉ có thể thành công
nếu đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước; luôn tăng cường
hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đồng thời
có được đội ngũ những người lao động có trí tuệ, có tay nghề cao, có đạo đức
trong sáng, có sức khoẻ. Nghĩa là phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, đồng
bộ về cơ cấu, mạnh mẽ về chất lượng.
Tóm lại, để thực hiện có kết quả CNH- HĐH với những mục tiêu và nội
dung cơ bản nêu trên cần thiết phải có nguồn lực con người tương xứng, đáp
ứng nhu cầu cấp thiết trước mắt và đảm bảo cho sự phát triển bền vững, lâu
dài. Nguồn lực con người phải có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng


tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc; được
chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề
nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và
toàn xã hội. Đó phải là nguồn lực con người của một nền văn hoá công nghiệp
hiện đại.
1.2.2. Vai trò của nguồn lực con người
Sự thành công của quá trình CNH- HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính
trị ổn định, phải có một hệ thống các nguồn lực cần thiết như: Nguồn lực con
người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất- kỹ thuật, vị trí địa lý và
nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác
động và vai trò của chúng không giống nhau, trong đó nguồn lực con người là

yếu tố quyết định.
Xem xét vai trò nguồn lực con người, cần đặt nó trong quan hệ với các
nguồn lực khác, đồng thời phải đặt Công nghiệp hoá trong tình hình hiện nay.
Khi cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh
mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân
loại; khi công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực
lượng sản xuất. Với cách tiếp cận như vậy, vai trò quyết định của nguồn lực
con người biểu hiện ở những điểm cơ bản như sau:
Trước hết, các nguồn lực khác như: vốn, tài nguyên thiên nhiên,… tự nó
chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa xã
hội tích cực, khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động
có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy,
có trí tuệ và ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với
nhau tạo thành sực mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể chịu sự khai thác,
cải tạo của con người và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của


con người, nếu con người biết tác động và chi phối hợp quy luật. Vì thế, trong
các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng
nhất, là “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là
người lao động ” [27, tr.130].
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, thậm
chí, nếu khai thác theo kiểu tước đoạt, tự nhiên sẽ gây ra thảm hoạ môi trường,
phá vỡ sự cân bằng sinh thái, đe doạ sự sống của con người và mọi sinh vật
trên trái đất. Trong khi đó nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ, là
nguồn lực vô tận và không bao giờ khai thác cạn kiệt. Tính vô tận của trí tuệ
con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh và tự sinh sản về
mặt sinh học, mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con
người, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho

năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một
quá trình vô tận. Nhờ vậy, con người với tư cách là một chủ thể, từng bước làm
chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra những tài nguyên thiên nhiên mới, hoặc
sáng tạo ra những tài nguyên không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt
động có mục đích và sáng tạo, con người bằng trí tuệ và lao động của mình, đã
liên tiếp chế tạo ra các thế hệ công cụ sản xuất mới, nhằm tác động vào tự
nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất,
từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá, đã nói lên tính vô tận của trí
tuệ con người không bao giờ cạn kiệt, “Tri thức có tính chất lấy không bao giờ
hết” [1, tr.41] càng khẳng định con người là nguồn lực chủ yếu, lâu bền nhất
trong sự phát triển nhân loại. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có
hiệu quả nếu không có những con người đủ khả năng khai thác chúng. Cho tới
vài thập kỉ gần đây, các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách, chiến
lược của tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận ra rằng nguồn lực tự nhiên
dù có phong phú giàu có đến mấy thì cũng sẽ bị cạn kiệt trước sự khai thác của


con người và chỉ có nguồn lực con người mới là nguồn tài nguyên vô tận và
khai thác không bao giờ hết,
Mặt khác, trí tuệ của con người có sức mạnh vô cùng to lớn khi nó được
vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C,
Mac đã trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học- kỹ thuật và công nghệ đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp
phát triển vận động đến nền kinh tế tri thức, ở những nước này, lao động trí tuệ
ngày càng chiếm tỉ lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám tới
1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia, ví như Nhật bản. Giờ đây, sức mạnh của trí tụê
đạt đến mức, nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc “bắt chước”
hay “phỏng” theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng, bằng
những kỹ thuật, công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra,
mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kì trong lịch sử

phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, Alvin Toffer đã xếp quyền lực trí tuệ lên
vị trí hàng đầu trong tất cả các quyền lực đã có trong lịch sử.
Tóm lại, quan điểm duy vật biện chứng đòi hỏi vừa phải đánh giá đúng vị
trí, vai trò của trí tuệ trong sự phát triển xã hội, vừa phải xem xét nó trong mối
quan hệ biện chứng với các nguồn lực khác.Việc xem nhẹ, hạ thấp hay tuyệt
đối hoá nó đều là sai lầm và do đó làm tầm thường hoá nó, đồng thời làm tầm
thường hoá vai trò của con người đối với sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính Việt Nam cho
thấy, sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào
năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Trong chiến lược
phát triển của mình, nhiều nước đã đặt con người vào vị trí trung tâm, quan
tâm đặc biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng khai thác vào chính bản
thân con người. Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông á là những cứ liệu
lịch sử xác thực cho nhận thức về nguồn lực con người trong quá trình CNHHĐH. Sự thành công của những nước này do nhiều nguyên nhân nhưng trong


đó có một nguyên nhân chung, đó là họ sớm nhận thức đúng vai trò quyết định
của nguồn lực con người và đầu tư thoả đáng cho chiến lược con người, đặt lên
hàng đầu chất lượng nguồn lao động, đi trước một bước về GD - ĐT coi đó là
chìa khoá của cánh cửa tăng trưởng. Chẳng hạn, sự tăng trưởng kinh tế của
Hàn Quốc là một tấm gương cho các nước đang phát triển. Chúng ta đã biết
cách đây 40 năm, Hàn Quốc và An-giê-ri có cùng điểm xuất phát từ trình độ
như nhau, mà chỉ 20 năm sau, Hàn Quốc đã vượt xa An-giê-ri, mặc dù An-giêri có lợi thế về tài nguyên hơn hẳn. Trong cùng một thế hệ, Hàn Quốc đã từ
một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một nước có nền công
nghiệp phát triển và là một trong những nước công nghiệp mới (NICS) hùng
mạnh nhất về kinh tế của thế giới thứ ba.
Nhật Bản cũng đạt được những bước tiến vượt bậc do họ đã biết đặt “vấn
đề con người ” vào đúng trung tâm của sự chú ý và bằng các triết lí nhân sự
mang tính dân tộc, sau đó là các chính sách biện pháp cụ thể tác động mạnh mẽ
đến đội ngũ người lao động, tạo nên thái độ tích cực cuả họ đối với sản xuất,

hết lòng vì sự thành công của công ty. Một nước Nhật thành công do biết sử
dụng nguồn lực con người thông qua các thành tựu khoa học công nghệ, đã
nhanh chóng bứt lên trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai trên thế giới.
Trái lại, một số nước khác do không huy động và chưa giải phóng được
nguồn lực con người, trước hết là tiềm năng trí tuệ, nguồn chất xám trong con
người, nên dù giàu có về tài nguyên song vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, có tốc độ
phát triển hết sức chậm chạp (ví dụ như các nước ở châu Phi). Đó là những
minh chứng rõ rệt nhất cho vai trò của nguồn lực con người trong việc tạo ra sự
biến đổi, phát triển xã hội. Do vậy, không phải ngẫu nhiên các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mac-Lênin đã khẳng định chân lý vĩnh hằng là: lịch sử phát triển
chân chính của xã hội là lịch sử phát triển con người, do con người, vì con
người, con người là lực lượng sản xuất hàng đầu trong bất kì phương thức sản
xuất nào, là chủ thể chế tạo ra công cụ sản xuất và sử dụng các công cụ đó để


tác động, thúc đẩy xã hội phát triển. Như vậy, xu hướng chung của tiến trình
phát triển lịch sử được quyết định bởi lực lượng sản xuất (trong đó bao gồm
con người và công cụ sản xuất do con người sáng tạo ra). Lịch sử đã chứng
minh rằng: một xã hội phát triển chỉ khi ở xã hội đó, lực lượng sản xuất phát
triển đến một trình độ cao, mà trong đó yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất đó,
người lao động lại là yếu tố quan trọng nhất.
Xuất phát từ quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân
tộc Việt Nam cũng đã nêu tư tưởng: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người”, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có
con người xã hội chủ nghĩa”, Từ những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
xuất phát từ thực tế xã hội Việt Nam, bắt đầu từ Đại hội VI, mà đặc biệt từ Đại
hội VII, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn vai trò của con người trong
sự phát triển kinh tế- xã hội, Từ đó đến nay, Đảng ta luôn coi con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ nhất để đưa sự nghiệp CNH- HĐH đến
thắng lợi hoàn toàn: “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên

chủ nghĩa xã hội” cuả Đảng đã xác định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh
phúc con người là động lực to lớn, Phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH” [9, tr.13].
Đại hội lần thứ VIII (6/1996) của Đảng là Đại hội CNH- HĐH, mở ra
bước ngoặt lịch sử, đưa đất nước lên một thời kì phát triển mới. Trong các
quan điểm về CNH- HĐH có một quan điểm cực kì quan trọng đã khẳng định:
Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững, Cũng tại Đại hội VIII của Đảng, quan điểm “nâng cao dân
trí, bồi dưỡng phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của cuộccông nghiệp hoá, hiện đại hoá” [12, tr.21] đã
được nhất trí thông qua và thực tế đã chứng minh rằng: quan điểm đó của Đảng
là đúng và phát huy hiệu quả. Chính vì vậy, nguồn lực con người được coi là
nguồn lực quan trọng nhất, quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với


nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Nó là yếu
tố quyết định cho sự thành công của quá trình CNH- HĐH.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta xác định mục tiêu của
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm (2001-2010) là “đưa đất nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, Khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế đất
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” [14, tr. 89-90].
Để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trên, Đại hội
đã xác định: phát huy nguồn lực trí tuệ, sức mạnh tinh thần của con người Việt
Nam, tạo bước chuyển biến manh mẽ và phát triển nguồn lực được coi là một
trong ba lĩnh vực then chốt cần đột phá để làm chuyển động nền kinh tế.
Khái quát lại, trong thời đại ngày nay, đối với bất cứ quốc gia nào, việc

xác định đúng đắn vai trò của nguồn lực con người và huy động có hiệu quả
những nguồn lực có thể huy động, được coi là có ý nghĩa to lớn đối với việc
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Đối với Việt Nam, khi chiến
lược phát triển đất nước được xác định là “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước” theo hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.” thì chúng ta phải lấy nguồn
lực con người Việt Nam- nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực,
nguồn lực nội sinh làm động lực cho sự phát triển bền vững.
Như chúng ta đã biết Việt Nam là một nước có hơn 80 triệu dân và có
nguồn lao động dồi dào, với khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động,
Trong tổng số người lao động, dân số trẻ chiếm 60%, hàng năm được bổ sung
khoảng 3% (1,24 triệu người), tỷ lệ biết chữ chiếm 85% dân số. Dự kiến năm
2010 nước ta có 50 triệu người ở độ tuổi lao động. Nguồn lao động ấy được
thừa hưởng bề dày truyền thống yêu nước cần cù sáng tạo có khả năng tiếp thu


nhanh kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện
nay khi trình độ phát triển khoa học- kỹ thuật thế giới đã đạt được những tiến
bộ vượt bậc thì nguồn lực ấy đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải lưu tâm.
Trước hết, xét về thể lực ở Việt Nam số liệu thống kê cho thấy 44% dân
số sống ở mức 1500kalo/người/ngày (theo quy định của LHQ, mức kalo tối
thiểu cho nhu cầu phát triển bình thường của mỗi người phải đạt 2000
kalo/người/ngày). Chỉ số dinh dưỡng thấp như hiện nay, chúng ta không thể
duy trì cường độ lao động và học tập liên tục ở mức cao. Đến năm 2000 tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng vẫn còn ở mức 33%-34%/năm.
Về văn hoá, chúng ta đã phổ cập Giáo dục ở bậc Tiểu học, nhưng trình độ
chung của người lao động vẫn còn ở mức thấp. Lao động có trình độ cấp 1
chiếm 12,72%, cấp 2 hơn 40%, cấp 3 có khoảng 30%, trung học chuyên nghiệp
6,84%, đại học 11% [ 28, tr.56]. Theo kết quả đánh giá của hội nghị về chất
lượng giáo dục và kỹ năng sống (do viện chiến lược và chương trình giáo dục

tổ chức ngày 2-10-2003) cho thấy, tính theo thang điểm 10, chỉ số tổng hợp về
chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực của Việt Nam mới đạt 3,79 điểm, sự
thành thạo tiếng Anh đạt 2,62 điểm và sự thành thạo công nghệ cao đạt 2,50
điểm. So với các nước khác thuộc Châu á có tên trong bảng thống kê 12 nước,
Việt Nam đứng thứ 11, Hàn Quốc đứng đầu với chỉ số về chất lượng giáo dục
là 6,91 điểm, Sinh gapo đứng thứ hai (6,81).
Đáng lo ngại hơn cả là chất lượng đội ngũ lao động hiện nay của nước ta
là thua kém các nước trong khu vực và thế giới. Các nước thuộc khối ASEAN
cũ có tới 70% lực lượng lao động qua đào tạo, thì ở Việt Nam 85% lực lượng
lao động chưa qua đào tạo. Mục tiêu đến năm 2005 chúng ta mới chỉ phấn đấu
nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên 30%. Trong số lao động đã qua đào tạo thì ở
nước ta cũng có cơ cấu bất hợp lý. Cả nước chỉ có khoảng 13,11% số lao động
có chuyên môn kỹ thuật. ở các nước công nghiệp, tỉ lệ này là 35%. Lao động
có trình độ trung cấp kỹ thuật của nước ta là 3,5% thì các nước phát triển là


24,5%. Số công nhân kỹ thuật có trình độ bậc 4 trở lên chỉ chiếm tỷ lệ bằng 1/3
tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân có trình độ bậc 7 chỉ có khoảng 4000
người, đại bộ phận trong số ấy đã lớn tuổi. Số lao động có chuyên môn kỹ
thuật chiếm tỉ lệ thấp, cán bộ khoa học-công nghệ đang bị hẫng hụt. Cán bộ có
trình độ cao, giỏi lại tập trung làm việc chủ yếu ở các cơ quan Trung ương (số
liệu tổng kết cho thấy 94,4% cán bộ có trình độ cao làm việc ở các cơ quan
trung ương, 5,4% làm việc ở tỉnh). Còn ở cơ sở và các đơn vị sản xuất kinh
doanh đang rất thiếu cán bộ có trình độ cao. Bộ GD- ĐT nhận định, mức tăng
trưởng từ 9%-20% GDP, thì tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực khoa học kỹ
thuật phải đạt từ 4%-5%/ năm. Trên thực tế, đào tạo chuyên gia trình độ cao
mới chỉ đạt từ 2-3%/ năm. Những hạn chế, yếu kém trên, trước hết và chủ yếu
là do bất cập của GD- ĐT, đặc biệt đào tạo nghề.
Tóm lại, với chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn, chúng ta đang phải đối mặt với một thách thức lớn về mặt chất lượng

nguồn lực con người. Trong khi đó, quá trình này diễn ra nhanh hay chậm, hiệu
qủa đến đâu lại phụ thuộc đáng kể vào yếu tố nguồn nhân lực. Do đó, đào tạo,
phát triển nguồn lực con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước trở thành nhiệm vụ cấp bách, cần được ưu tiên giải quyết.
Với thực trạng nguồn lực con người như đã trình bày ở trên, Đảng ta đã
coi việc xây dựng chiến lược con người, phát triển con người Việt Nam toàn
diện là nhiệm vụ có ý nghĩa hàng đầu. Mọi chủ trương, chính sách, đường lối
của Đảng đều quán triệt vào việc đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn
phát huy tiềm năng sáng tạo của con người trong sự nghiệp CNH- HĐH, Đảng
ta khẳng định: “Cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó
nguồn lực con người là quý báu nhất. Nguồn lực đó là nguồn lao động có trí
tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo và phát
huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học- công nghệ


hiện đại, Giáo dục phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho đất nướ”
[ 13, tr.9 ].
Và có thể nói, toàn bộ bí quyết thành công của sự phát triển ở nhiều quốc
gia, xét đến cùng đều nằm trong chân lý đơn giản: đầu tư tích cực cho chiến
lược trồng người- coi GD- ĐT là quốc sách hàng đầu. Bởi vì trí tuệ là yếu tố
quan trọng nhất, là cái quyết định sức mạnh của nguồn nhân lực, cho nên
chúng ta phải tiến hành GD- ĐT tmột cách toàn diện.
1.3. Nguồn lực con người ngành giáo dục- đào tạo và vai trò của giáo dục- đào tạo trong
sự phát triển nguồn lực con người

1.3.1 Nguồn lực con người ngành giáo dục - đào tạo
Nói đến nguồn lực trong ngành GD- ĐT, người ta có thể nói đến nhiều yếu
tố: con người (bao gồm thầy và trò), cở sở vật chất, trang thiết bị dạy học, chương
trình, sách giáo khoa, các chế độ chính sách, cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ…

Nguồn lực con người ngành GD- ĐT chính là đối tượng trực tiếp tham gia
vào quá trình quản lý, giáo dục, tạo nên chất lượng và hiệu quả của công tác
GD- ĐT.
Nguồn nhân lực ấy bao gồm: Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân
viên trường học. Đây chính là nội lực của ngành GD- ĐT. Nguồn nội lực này
có vai trò quyết định làm nên chất lượng, hiệu quả của ngành GD- ĐT (có thầy
tốt mới có trò tốt, có cán bộ quản lý tốt mới có phong trào giáo dục tốt ).
Nguồn lực con người ngành GD- ĐT gồm hai thành tố cơ bản có mối
quan hệ biện chứng với nhau, đó là số lượng và chất lượng nguồn lực cán bộ
công chức ngành giáo dục. Mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng cần được
xem xét trong quá trình giải quyết mâu thuẫn lớn của giáo dục nước ta đó là
mâu thuẫn giữa yêu cầu vừa phải phát triển quy mô, vừa đảm bảo và nâng cao
chất lượng nguồn lực con trong giáo dục với điều kiện thực hiện còn hạn chế.
Quá trình giải quyết mâu thuẫn đó cũng chính là qúa trình đảm bảo phát triển
hài hoà giữa số lượng và chất lượng.


×