Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

skkn một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số HSDT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.31 KB, 30 trang )

Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc

MỤC LỤC
I.PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
I.1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................2
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài...................................................................................4
I.3.Đối tượng nghiên cứu.................................................................................................5
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu....................................................................................5
I.5.Phương pháp nghiên cứu............................................................................................5
II. PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................6
II.1. Cơ sở lý luận.............................................................................................................6
II.2. Thực trạng................................................................................................................7
a.Thuận lợi, khó khăn..................................................................................................7
b.Thành công, hạn chế.................................................................................................8
c.Mặt mạnh, mặt yếu..................................................................................................11
d.Các nguyên nhân, các yếu tố tác động...................................................................12
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra..........................13
II.3. Giải pháp, biện pháp..............................................................................................16
a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp..........................................................................16
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.........................................18
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.........................................20
d.Mối quan hệ giữa giải pháp và biện pháp..............................................................24
e.Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.............................24
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu......25
III.PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ................................................................................26
III.1. Kết luận.................................................................................................................26
III.2. Kiến nghị...............................................................................................................27

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 1




Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc

I.PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt của nhà trường đó là: huy động tối
đa học sinh trong độ tuổi đến trường; duy trì sĩ số học sinh trong suốt năm học đạt chỉ tiêu đề
ra, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tạo tiền đề quan trọng trong việc duy trì
và nâng cao các tiêu chí phổ cập giáo dục của nhà trường và của huyện nhà hàng năm. Trường
có 100% giáo viên đạt trình độ chuẩn, trong đó trên chuẩn là 75% , các tổ chức đoàn thể đạt
vững mạnh xuất sắc. Chi bộ luôn được công nhận là chi bộ trong sạch vững mạnh nhiều năm
liền. Đó là cơ sở tạo nên sự nhận thức khá đồng đều về vai trò, nhiệm vụ và sứ mệnh cao cả của
người giáo viên trong giai đoạn mới. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, hầu hết cán
bộ, giáo viên luôn đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm,
yêu nghề, chấp hành nghiêm sự phân công của tổ chức, thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
Trong những năm qua, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện nhà đã có những
bước phát triển toàn diện. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ nhân dân có trình độ
nhận thức thấp, đời sống kinh tế khó khăn, số khác lo làm ăn buôn bán thiếu quan tâm giáo dục
con em. Một số ít học sinh do sự quản lý, theo dõi và giáo dục của gia đình chưa chặt chẽ nên
có những biểu hiện cá biệt như: Tụ tập chơi bời, gây gổ đánh lộn, trốn tiết, ham mê các trò chơi
điện tử, đó là những nguy cơ dẫn đến tình trạng học sinh có nguy cơ bỏ học cao.
Việc duy trì sĩ số đảm bảo chuyên cần ở trường Tiểu học đóng một vai trò rất quan
trọng. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, mang lại kết quả tốt và
ảnh hưởng cả tương lai sau này của các em. Nhưng hiện nay, tình hình học sinh bỏ học ở Tỉnh
Đăk Lăk đến mức báo động, nhất là học sinh ở vùng khó khăn, vùng biên giới. Theo thống kê
của các năm gần đây cho thấy tỉ lệ học sinh bỏ học ngày càng cao, nhất là học sinh ở độ tuổi
Tiểu học, THCS.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, nếu

không có kiến thức thì không có thể bình đẳng với các dân tộc khác được”. Trước yêu cầu phát
triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế, đồng thời nhằm thực hiện chính
sách “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc”, xoá dần
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 2


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
khoảng cách chênh lệch về giáo dục giữa “miền ngược và miền xuôi”, Đảng và Chính phủ rất
quan tâm, chú trọng đến công tác giáo dục cho đồng bào các dân tộc thiểu số, nhằm lấp dần
khoảng cách trên thì khâu duy trì sĩ số là rất quan trọng. Công tác quản lý ở trường Tiểu học,
việc duy trì sĩ số học sinh là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng. Duy trì tốt sĩ số học
sinh không những nâng cao được hiệu quả giáo dục mà đặc biệt hơn là tránh được tình trạng
học sinh bỏ học giữa chừng, những học sinh thất học là một mối nguy hại lớn cho xã hội: Các
em dễ dàng sa vào các tệ nạn xã hội, đặc biệt dễ bị kẻ xấu lôi kéo vào các tổ chức phản động.
Bên cạnh đó duy trì tốt sĩ số học sinh còn gắn liền với chất lượng dạy học và hiệu quả giáo dục.
Đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá, nhận xét chất lượng hoạt
động của mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp và của tập thể nhà trường đối với trường học sinh chủ
yếu là dân tộc thiểu số. Vậy muốn có được kết quả như vấn đề nêu trên đòi hỏi phải phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: Năng lực của giáo viên trong thực hiện công tác phối kết hợp tốt giữa
nhà trường, gia đình và xã hội. Sự phối hợp nhịp nhàng và đồng thuận tốt là tiền đề giúp cho
việc duy trì và phát triển sĩ số học sinh. Trường Tiểu học Dray Sáp mà tôi đang công tác là nơi
mà học sinh chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm trên 60% số học sinh của toàn trường.
Trường nằm cách Uỷ ban nhân dân xã gần 1km, có điểm trường phụ cách xa gần 8 km, giao
thông đi lại cũng gặp nhiều khó khăn. Đa số học sinh đều thuộc diện “hộ nghèo và cận nghèo”.
Đời sống của con em đồng bào còn nhiều thiếu thốn cả về vật chất, tinh thần, văn hóa văn
nghệ, các loại hình giải trí lành mạnh. Trong khi đó tệ nạn ngoài xã hội có nguy cơ len lỏi vào
học đường, học sinh không hứng thú trong học tập làm gia tăng tỉ lệ học sinh có nguy cơ bỏ
học giữa chừng là điều không tránh khỏi.Với trách nhiệm của một hiệu phó chuyên môn Tiểu

học, bất cứ người quản lý nào cũng mong muốn trường mình phụ trách suốt từ đầu năm đến
cuối năm phải đảm bảo về mặt sĩ số cũng như phải đạt yêu cầu về mặt chất lượng học tập.
Nhưng thực tế vô cùng phức tạp vì đối tượng học sinh rất đa dạng, mỗi em có hoàn cảnh và
điều kiện sống khác nhau, nếu giáo viên không khéo léo thì khó mà duy trì sĩ số lớp mình đạt
như mong muốn.
Với mục tiêu của đề tài là: Làm thế nào để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học, duy trì
được sĩ số học sinh? Đây là vấn đề bức xúc cho các nhà lãnh đạo các cấp, đặc biệt là những
người làm công tác giáo dục, đây cũng là vấn đề mà chắc hẳn với cương vị là người cán bộ
quản lý ai cũng như tôi đều trăn trở, bức xúc trước thực trạng học sinh vắng học,có nguy cơ bỏ
học, không ham học; để duy trì sĩ số học sinh đồng bào dân tộc thiểu số đi học đều là việc vô
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 3


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
cùng khó khăn. Vậy làm thế nào để công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc đạt kết quả tốt trong
năm học cũng như các năm tiếp theo , góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào
tạo của nhà trường nói riêng và góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng và Nhà nước đã
đặt ra cho ngành Giáo dục nói chung.
Qua nhiều năm tôi cũng đã trực tiếp giảng dạy học sinh vùng dân tộc thiểu số, trước
những vấn đề nêu trên tôi hiểu rất rõ về tầm quan trọng của việc duy trì sĩ số và những khó
khăn, thách thức khi phải đối mặt với công tác này. Đây là nguyên nhân để tôi chọn đề tài: “
Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc”.

I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Với đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc”. Bản thân
tôi muốn góp thêm một số giải pháp vào việc duy trì sĩ số học sinh đồng bào ở Trường Tiểu
học Dray Sáp – Phân hiệu Buôn Kuôp; giúp các em đi học đều, đúng giờ, có thói quen học tập
tốt, yêu thích việc đi học… Duy trì tốt sĩ số học sinh là góp phần nâng cao chất lượng dạy và

học. Tạo điều kiện cho học sinh trau dồi kiến thức. Đồng thời giáo viên phát huy tốt vai trò đối
với công tác chủ nhiệm lớp, nâng cao uy tín của giáo viên tiểu học, huy động được sự quan tâm
giúp đỡ của phụ huynh học sinh, sự ủng hộ nhiệt tình của cán bộ thôn, buôn…Có như vậy thì
hiệu quả học tập của các em sẽ được nâng cao. Cũng là cơ sở ban đầu cho việc hình thành và
phát triển đạo đức đúng đắn, lâu dài về mặt tình cảm,kĩ năng sống.
Tìm ra các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến học sinh có nguy cơ bỏ học. Đề xuất những
biện pháp duy trì sĩ số học sinh dân tộc. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên đề tài tự xác
định cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh có nguy cơ bỏ học ở
Trường Tiểu Dray Sáp – Phân hiệu Buôn Kuôp.
- Đề xuất biện pháp nhằm duy trì sĩ số học sinh năm học 2014 – 2015 và những năm
học tiếp theo.

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 4


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc

I.3.Đối tượng nghiên cứu
Học sinh Trường Tiểu học Dray Sáp ( Phân hiệu Buôn Kuôp ) – Xã Dray Sáp - Huyện
Krông Ana - Tỉnh Đăk Lăk.

I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Cùng với việc huy động tối đa học sinh trong độ tuổi đến trường hàng năm, thực hiện
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh thì một vấn đề rất quan trọng khác là duy
trì sĩ số học sinh trong năm học cũng một trong những mục tiêu trong kế hoạch năm học và tiêu
chí thi đua của nhà trường và đối với giáo viên. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi mà

tình trạng học sinh bỏ học đang có chiều hướng gia tăng hàng năm thì việc duy trì sĩ số lại càng
quan trọng hơn bao giờ hết. Lấy thực tế tình hình 189 học sinh là học sinh dân tộc học tại –
Phân hiệu Buôn Kuôp của Trường Tiểu học Dray Sáp để minh chứng.

I.5.Phương pháp nghiên cứu
I.5.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đọc các tài liệu có liên quan đến công tác duy trì sĩ số, Các văn kiện, các chỉ thị, Nghị
quyết của Trung ương của Bộ chính trị, Đảng bộ huyện Krông Ana, các Nghị quyết của Đảng
ủy xã Dray Sáp , Nghị quyết Hội nghị CNVC năm học 2014 – 2015 của Trường Tiểu học Dray
Sáp.
I.5.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Tôi đã dùng phương pháp phỏng vấn Phụ huynh, học sinh. Điều tra hoàn cảnh gia đình
học sinh, chế độ chính sách đối với học sinh dân tộc.
I.5.3. Nhóm các phương pháp hỗ trợ
Bảng thống kê số liệu học sinh bỏ học của những năm học trước.

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 5


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc

II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận
Như tất cả chúng ta đã biết, những học sinh bỏ học là những học sinh sẽ mất đi quyền
lợi trong học tập của bản thân. Các em sẽ không có đủ kiến thức cơ bản để bước vào cuộc sống
với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại như hiện nay, nó còn ảnh hưởng lớn đến trình độ dân
trí của từng gia đình , xã hội và đất nước sau này, có nguy cơ gây ra nhiều phiền toái trong
cuộc sống như: tảo hôn, lang thang , trộm cướp và các tệ nạn xã hội khác đang rình rập lôi kéo

các em…. Vì vậy việc duy trì sĩ số học sinh đi học là nghĩa vụ không chỉ của Toàn ngành, của
toàn dân mà còn của cả hệ thống tổ chức chính trị.
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi tạo những cơ
sở ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Nhà trường Tiểu
học có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ
em, là nơi tổ chức một cách tự giác quá trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ,
thể chất và các kỹ năng học tập, rèn luyện của học sinh. Mục tiêu, nhiệm vụ của trường tiểu
học là đem đến cho trẻ em quyền được học tập, là làm cho trẻ em được hưởng thụ một nền giáo
dục tốt đẹp ở trường Tiểu học.
Việc duy trì sĩ số trong các trường học, là một chủ trương lớn của ngành giáo dục nhằm
cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các cấp, đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục và bồi dưỡng những tài năng của đất nước.
Vì chỉ trên cơ sở của sự phát triển phong phú, hài hoà có tính toàn diện của nhân cách
thì tài năng con người mới có điều kiện nảy nở và phát triển một cách cơ bản và bền vững. Ở
những trường tiểu học việc duy trì tốt sĩ số học sinh, học sinh được giáo dục toàn diện, được
học đủ các môn học theo quy định, được thực hiện các hoạt động khác; đặc biệt các em được
học các thầy cô giáo có tâm huyết, có tay nghề và tinh thần trách nhiệm cao, các em có đầy đủ
các điều kiện và phương tiện học tập, các em được phát triển trong môi trường giáo dục đầy đủ,
lành mạnh. Trong điều kiện đó, mỗi học sinh sẽ được phát triển theo khả năng của mình để trở
thành học sinh giỏi và là tiền đề cơ bản để trẻ em tiếp tục phát triển sau này, các em sẽ là chủ
nhân tương lai của đất nước. Với xã Dray Sáp là xã còn nhiều khó khăn với phần đông là
đồng bào dân tộc , kinh tế còn nghèo, trình độ dân trí còn thấp.Cha mẹ học sinh cũng như các
em thì chưa xác định được việc học là quan trọng, dẫn đến học sinh có nguy cơ bỏ học nhiều,
với bản thân là một cán bộ quản lý, bản tôi luôn trăn trở về vấn đề này.
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 6


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc

Chính vì vậy với cương vị là người quản lý các hoạt động chuyên môn trong nhà trường,
tôi đã suy nghĩ rất nhiều là phải làm thế nào để hạn chế vấn đề học sinh có nguy cơ bỏ học và
tôi đã cố gắng, quyết tâm tìm mọi biện pháp để duy trì sĩ số học sinh, đặc biệt là học sinh dân
tộc của đơn vị mà tôi đang công tác.

II.2. Thực trạng
a.Thuận lợi, khó khăn
*Thuận lợi
Xã Dray Sáp là một trong những xã thuộc huyện Krông Ana, phía bắc giáp Thành Phố
Buôn Ma Thuột, phía nam giáp xã Ea Na cách trung tâm thành phố hơn 10 km, với diện tích
khá rộng, bao gồm các thôn, buôn. Dân số ở đây dân tộc chiếm khoảng 1/3 , còn lại là dân di
cư tự do từ Thái Bình, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế ....
Do đặc điểm về địa hình và khí hậu nên hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp (trồng
trọt và chăn nuôi). Ngoài ra bên cạnh đó có hoạt động du lịch với những cảnh đẹp nổi tiếng thu
hút khách du lịch ở khắp nơi: Thác Dray Nu; Thác Gia Long...
Nhà trường được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Phòng GD&ĐT, Đảng ủy, HĐND,
UBND xã Đray Sáp, bên cạnh đó có sự phối hợp chỉ đạo giữa cấp ủy nhà trường với cấp ủy
Ban tự quản thôn An Na, Buôn Kuốp, BĐDCMHS nhà trường, nên tình hình giáo dục ngày
càng phát triển, tỉ lệ học sinh bỏ học ngày càng giảm, chất lượng giáo dục ngày càng được
nângca
Trường TH Đray Sáp là trường công lập. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và kinh
phí hoạt động thường xuyên chủ yếu do ngân sách Nhà nước bảo đảm. Trường được thành lập
khá lâu, có hai điểm trường. Trường chính cách UBND xã khoảng 1km, trường có một phân
hiệu ở Buôn Kuốp cách xa gần 8 km, đường đi lại rất khó khăn về mùa khô thì bụi mù mịt,
mùa mưa thì trơn trượt, lầy lội.
Nhiệm vụ hành đầu của nhà trường là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi
mới quản lý, chỉ đạo từ giáo viên đến tổ khối. Ban giám hiệu Đoàn thể tăng cường nâng cao kỹ
năng sử dụng máy tính, đổi mới cách làm và ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giảng
dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Toàn thể cán bộ, giáo viên, công nhân viên của nhà
trường đều có trách nhiệm giáo dục các em từ tác phong, tư cách đến kiến thức văn hoá. Đây là

nhiệm vụ trọng tâm và là tiêu chí để đánh giá viên chức cuối năm học.
* Tổ chức bộ máy nhà trường :
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 7


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
- Hiệu trưởng: Bà Thái Thị Mai – Phụ trách chung
- Phó Hiệu trưởng: Bà Trần Thị Nguyệt – Chuyên môn
- Chủ tịch công đoàn: Bà Trần Thị Nguyệt
- Tổ trưởng tổ 1: Bà Bùi Thị Yến
-Tổ trưởng tổ 2: Bà Lê Thị Thanh Cảnh
-Tổ trưởng tổ 3: Bà Đỗ Thị Hồi
-Tổ trưởng tổ 4: Ông Võ Văn Bình
-Tổ trưởng tổ 5: Bà Đỗ Thị Liễu
*Khó khăn
Trường Tiểu học Dray Sáp là trường vùng sâu, vùng xa, có hai điểm trường cách xa
nhau gần 8 km, địa bàn dân cư rộng, nên việc xây dựng nề nếp, quản lý học sinh còn gặp nhiều
khó khăn. Học sinh dân tộc chiếm trên 50 %, đa số các em chưa xác định được việc học là quan
trọng. Điều kiện kinh tế gia đình học sinh còn thiếu thốn. Phần đa phụ huynh học sinh lại
không biết chữ nên không biết kèm con em khi ở nhà. Có một số học sinh lại chưa qua lớp
mẫu giáo, nên các em nói tiếng Việt chưa được thành thạo. Vì vậy các em rất khó khăn trong
việc tiếp thu kiến thức, kỹ năng sống còn rất hạn chế. Nhiều em chưa biết tiếng kinh.
Trình độ dân trí thấp, đời sống còn rất nhiều khó khăn. Nhiều bậc cha, làm mẹ chưa hiểu
được tầm quan trọng của việc học, chưa làm tròn trách nhiệm, thiếu sự quan tâm đến con em,
còn khoán trắng cho nhà trường.
Học sinh ở phân hiệu Buôn Kuôp, một số em thỉnh thoảng cha mẹ bắt ở nhà đi chăn bò.
Đến mùa vụ các em thường bỏ học đi làm nương, làm rẫy; vào những ngày mưa các em ít khi
đến trường nhưng chưa được sự phân tích, nhắc nhở của cha mẹ.

Từ những khó khăn trên dẫn đến nhiều năm liền tại Trường Tiểu học Dray Sáp số lượng
học sinh có nguy cơ bỏ học nhiều.
b.Thành công, hạn chế
*Thành công
Lãnh đạo cùng tập thể giáo viên đã ở và sinh hoạt tại trường trong những ngày làm việc,
cùng học sinh tổ chức các hoạt động tập thể tạo được sự thân thiện giữa thầy và trò, đồng
thuận, đoàn kết trong tập thể sư phạm nhà trường, góp phần hoàn thành kế hoạch các năm học
đề ra.

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 8


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
Ban giám hiệu nhà trường coi vấn đề duy trì sĩ số là nhiệm vụ hàng đầu và cũng là một
trong những tiêu chí để xếp loại thi đua của giáo viên đặc biệt là trong hoạt động chuyên môn.
Bản thân tôi suy nghĩ rằng, là một cán bộ quản lý phải chú trọng các yêu cầu sau :
+ Ngoài việc nâng cao chất lượng dạy học, chú trọng đến việc duy trì sĩ số lớp.
+ Quan tâm đến học sinh, nhất là nắm rõ hoàn cảnh những em khó khăn để kịp thời hỗ
trợ về vật chất lẫn tinh thần để các em yên tâm học tập.
+ Tạo mối quan hệ tương hỗ giữa Gia đình - Nhà trường – Xã hội để có biện pháp giáo
dục tốt hơn.
+ Tạo tình cảm gắn bó giữa các thành viên trong nhà trường và tình thân ái giữa thầy và
trò để học sinh thêm yêu trường,yêu lớp hơn.
Giáo viên chủ nhiệm phối kết hợp với giáo viên dạy thay ,cũng như giáo viên dạy bộ
môn cùng nhau duy trì sĩ số học sinh đặc biệt là học sinh dân tộc . Hạn chế mức thấp nhất học
sinh bỏ học và góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn của nhà trường.
Đội ngũ giáo viên tích cực đổi mới phương pháp để học sinh hứng thú học tập, phát
huy tính sáng tạo, giúp các em tiếp thu kiến thức tốt nhất, từ đó tạo hứng thú cho học sinh thích

đến trường, đến lớp. Ngoài giảng dạy chính khóa, nhà trường còn tăng cường công tác phụ đạo
học sinh yếu ngay từ đầu năm học cho các em. Đồng thời, tổ chức dạy bù kiến thức cho học
sinh hay nghỉ học, quan tâm, thường xuyên giữ mối liên hệ giữa gia đình và giáo viên chủ
nhiệm để từ đó nắm được nguyên nhân vì sao học sinh đó thường xuyên không đến lớp.
Trường khó khăn, giáo viên không được hưởng bất kì một chế độ đãi ngộ gì, điều kiện
công tác sinh hoạt còn nhiều thiếu thốn nhưng với lòng yêu nghề, thương yêu học sinh các thầy
cô luôn bám trường, bám lớp an tâm công tác.
Trường trang cũng đã trang bị thêm dụng cụ sinh hoạt, thể thao cầu lông, bóng đá... Qua
giao tiếp chú trọng tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc. Khuyến khích giáo viên tự
giác học tiếng Ê đê, Mnông để thuận lợi giao tiếp với học sinh phụ huynh và nhân dân trên địa
bàn. Hàng năm bổ sung cơ sở vật chất từ nguồn kinh phí nhà nước cấp, ngoài ra trường còn xây
dựng tủ sách, báo thường xuyên cho học sinh mượn sách báo các loại, tạo điều kiện sinh hoạt
nâng cao kiến thức, khám phá thế giới xung quanh, thu hút học sinh đến trường.
*Hạn chế
Trường TH Dray Sáp là trường với tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm hơn 50% học
sinh toàn trường với 189 em. Đóng trên 2 địa bàn cách xa trung tâm của huyện Krông
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 9


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
Ana.Riêng phân hiệu Buôn Kuôp là nơi tập trung hầu hết là đồng bào dân tộc, đồng thời cũng
là nơi năng động trong các hoạt động mà khách du lịch vô ra thường xuyên. Nhưng cũng là nơi
chịu sự tác động của xã hội về trình độ dân trí, người dân sống tương đối chủ yếu là làm nông,
thu nhập thấp. Đó cũng là điều làm ảnh hưởng đến xã hội có nguy cơ học sinh bỏ học và sự
phát triển và hình thành nhân cách của thế hệ trẻ từ những lệch lạc về ý nghĩa việc đi học và
kiếm tiền. Từ những thực tế đó mà tình trạng học sinh có nguy cơ bỏ học tham gia lao động sản
xuất cùng gia đình, học nghề, chuyển đi nơi khác...trên địa bàn huyện nói riêng và toàn tỉnh
Đak Lăk nói chung còn tương đối nhiều. Theo số liệu thống kê toàn xã Dray Sáp trong hai năm

học qua như sau:
Năm học 2012-2013
Tổng số HS

Số HS bỏ

Năm học 2013-2014
Tỉ lệ %

Tổng số HS

học
641

42

Số HS bỏ

Tỉ lệ %

học
6.6

623

18

2.9

- Trường Tiểu học Dray Sáp so với các trường trong huyện là một trường có điều kiện

kinh tế khó khăn, đặc biệt đối tượng là học sinh dân tộc thiểu số, có lẽ việc thực hiện tốt công
tác giảng dạy giúp các em tiếp thu kiến thức không thôi thì chưa đủ. Bởi việc các em có được
kiến thức vững chắc không chỉ phụ thuộc vào việc dạy của người thầy, mà còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khách quan tác động. Trong đó, việc làm sao để các em đến trường thường xuyên
và đông đủ đã là không đơn giản rồi. Vốn quen sống tự do theo ý thích, lại chưa nhận thức
được tầm quan trọng của học hành nên với nhiều em khi bị đưa vào “khuôn khổ” thì quả là như
một “cực hình”... Chính vì điều này mà không ít em học sinh có ý định bỏ buổi, nghỉ học...
Những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học không còn diễn ra nhiều như trước, nhưng hiện
tượng nghỉ học cách nhật, đặc biệt là vào mùa vụ hay các dịp lễ tết vẫn luôn xảy ra. Là người
làm công tác quản lý, tôi hiểu rõ vấn đề cấp bách của công tác duy trì sĩ số, chống học sinh bỏ
học, bỏ tiết để nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhà trường đã có những quan tâm đến đội ngũ giáo viên nhưng đôi khi chưa kịp thời,
dẫn đến giáo viên chưa nhiệt tình hết sức mình trong vai trò là một giáo viên chủ nhiệm lớp.
Qua các năm học việc thực hiện một số biện pháp vận động học sinh ra lớp, duy trì sĩ
số, tôi cũng đã tự rút ra được những kinh nghiệm riêng cho bản thân. Vì thế,tôi đã chọn vấn đề
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 10


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
này để nghiên cứu, hy vọng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp những giải pháp, kinh nghiệm của
mình.
c.Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh
Ban giám hiệu nhà trường trẻ, khỏe, có lòng yêu nghề, tâm huyết, tìm tòi, ham học hỏi,
cầu tiến bộ; có ý chí và tinh thần tự lực, tự cường.
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, phối hợp tốt với
giáo viên bộ môn cũng như các giáo viên dạy thay trong công các vận động học sinh đi học
chuyên cần.

Bản thân là một phó Hiệu trưởng đồng thời cũng là Chủ tịch công đoàn tôi hiểu đã hiểu
rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác chỉ đạo cũng như phối hợp với các bộ
phận trong việc chỉ đạo hoạt động chuyên môn trong nhà trường.
* Mặt yếu
Một số giáo viên chưa có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác dạy - học. Chưa làm
tròn trách nhiệm của một giáo viên khi lên lớp, chỉ biết dạy xong tiết của mình rồi về, không
quan tâm đến học sinh trong lớp có đi học đều hay không? Em đó hay nghỉ học vì lí do
gì?....Một số giáo viên đã lớn tuổi. Một số giáo viên có con nhỏ, nhà cách xa trường .
Đa số học sinh trường là người đồng bào dân tộc thiểu số. Kỹ năng sống và việc tiếp thu
kiến thức còn hạn chế.
Gia đình là xã hội thu nhỏ, gia đình là tế bào của xã hội. Nói như thế để thấy được vai
trò của gia đình trong xã hội ngày nay, đặc biệt là trong vấn đề giáo dục cho con cái. Còn phó
mặc hết cho nhà trường. Gia đình rất quan trọng trong việc hình thành nề nếp đạo đức, lối sống
cho con cái. Sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ, ân cần chỉ bảo của cha mẹ tác động rất nhiều đến
con trẻ. Ví dụ như trước khi con cái đi học, cha mẹ đều dạy dỗ, dặn dò kỹ lưỡng con em luôn
ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc gòn gàng, vào lớp học không được nói chuyện, cười giỡn… thì nhất
định các em sẽ trở thành những con ngoan, trò giỏi, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt. Nhận thức
được vấn đề này mới thấy tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của gia đình đến việc hình thành nên
đạo đức lối sống cho các em. Nhiều bậc phụ huynh không ý thức được vấn đề này cứ để con
cái sống tự do, thích đi học thì đi, không thích đi thì ở nhà, đến khi nhận thấy con hư, không
vâng lời , lúc đấy có muốn uốn nắn, muốn giáo dục thì cũng đã muộn vì “nhỏ không ươm, lớn
gãy cành”. Vậy nên, ngay khi còn uốn nắn được, các bậc cha mẹ nên dạy con những bài học,
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 11


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
những thói quen tuy sơ đẳng nhưng lại tối quan trọng như : chào hỏi, đi thưa, về gửi, không nói
dối, không nói tục chửi thề....sẽ giúp trẻ ý thức được mỗi lời nói cũng như từng hành vi cử chỉ

của mình. Nhận thức được vấn đề này, mới thấy được tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của gia
đình với việc hình thành nên đạo đức lối sống cho các em, không buông lơi hay phó mặc các
em cho nhà trường.
d.Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Địa bàn xã Dray sáp là một xã thuộc khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt có Buôn
Kuôp với hơn 80% là đồng bào dân tộc thiểu số. Do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, chủ
yếu sống bằng nghề nông: Sản xuất với cây trồng chủ yếu là cà phê, lúa, mì cho thu nhập
thấp.Do kinh tế khó khăn nên các em phải ở nhà giúp cha mẹ công: Trông em, đi rẫy, chăn bò,
dẫn đến tình trạng các em hay vắng học vào những ngày mùa.
Sự nhận thức của cha mẹ học sinh: Cha mẹ học sinh nhận thức còn thấp, họ chưa thấy
được lợi ích lâu dài của việc học tập, họ cho rằng học chả làm ra tiền.Nhưng đi chăm bò, đi
mót, đi rẫy thì mới có tiền.Chính vì vậy cha mẹ bắt các em ở nhà để đi làm, nhất là các em học
sinh khối lớp 4, lớp 5 vì các em lớn hơn.
Tâm sinh lý học sinh: Các em học sinh tiểu học còn nhỏ, đang tuổi ăn, tuổi chơi, nên
không thích đi học gò bó, không được chơi thoải mái như ở nhà.
Giáo viên chủ nhiệm chưa làm hết vai trò, trách nhiệm của mình: Giáo viên đôi lúc chưa
chú trọng đến việc giúp HS đi học chuyên cần, nhiều khi chưa nhiệt tình, chưa động viên nhắc
nhở… Chưa gần gũi với các em, sự bất đồng về phong tục tập quán, ngôn ngữ. Hình thức tổ
chức các giờ dạy còn đơn điệu, nghèo nàn, dễ tạo sự nhàm chán, ít kích thích sự hứng thú học
tập của HS, gây tâm lí lo sợ cho các em mỗi khi kiểm tra bài, làm cho các em không thích đi
học và thường xuyên nghỉ học.
Chương trình học: Do các em là học sinh dân tộc, nên khi bước vào lớp một vốn Tiếng
Việt của các em còn ít, thậm chí có em còn chưa nói rõ. Nhưng khi giáo viên giảng bài thì lại
giảng bằng Tiếng Việt, dẫn đến việc tiếp thu bài gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó chương
trình thì lại học chung cùng một chương trình với các bạn. Phải chăng như thế là quá tải với
học sinh dân tộc.Một số buổi dạy phụ đạo về buổi chiều thì các em rất ít tham gia học dẫn đến
một số em không theo kịp chương trình. Đọc sai, viết sai, cô sửa, cô nhắc nhở nhiều dẫn đến tự
ái, buồn rồi nghỉ học.

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp


Trang 12


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
Thiếu sự quan tâm của ban ngành đoàn thể , thôn buôn: Các ban nghành, thôn buôn
thiếu sự quan tâm,chưa nhiệt tình trong công tác vận động học sinh đi học chuyên cần, chưa
phê bình, nhắc nhở thường xuyên trong các buổi sinh hoạt cộng đồng, chưa có biện pháp
nghiêm khắc đối với những gia đình có con em thường xuyên bỏ học, chưa có sự hỗ trợ về
chính sách ưu đãi với các hộ gia đình khó khăn.
Cơ sở vật chất nhà trường: Cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu thốn, thiếu sân chơi sạch
sẽ cho các em, thiếu phòng chức năng, chưa có phòng máy tính (Phân hiệu Buôn Kuôp ). Lớp
học bụi bẩn, mùa mưa thì u ám, mùa nắng thì oi bức...
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Trường TH Dray Sáp nằm trên địa bàn xã Dray Sáp, có hai điểm trường. Điểm chính đặt
tại thôn An Na, điểm lẻ đặt tại Buôn Kuôp, nằm trên địa bàn vô cùng khó khăn, phức tạp, phân
hiệu của trường cách trường chính gần 10 cây số, đường đi vào phân hiệu mặc dù đã được nâng
cấp song vẫn vô cùng vất vả. Vào mùa nắng bụi bặm, mùa mưa đường trơn như đổ mỡ, Nhưng
đại đa số đội ngũ giáo viên rất yêu nghề ,bám trường, bám lớp. Mặc dù vây bên cạnh đó vẫn
còn nhiều giáo viên chưa có chí tiến thủ, không mặn mà với các hoạt động dạy- học cũng như
tham gia các phong trào,với suy nghĩ chỉ cần thực hiện nhiệm vụ ở mức hoàn thành, họ không
quan trọng đến vấn đề thi đua,học sinh đi học có chuyên cần hay không cũng không cần quan
tâm, chỉ biết đến tháng lĩnh lương đầy đủ là được.
Năm học 2013 - 2014 trường có 16 lớp với tổng số học sinh 336 em, dân tộc thiểu số
191 em, chiếm tỷ lệ trên 50 %. Ngôn ngữ bất đồng, việc tiếp thu kiến thức, kỹ năng sống còn
rất hạn chế. Nhiều em chưa biết rõ tiếng kinh.
Trình độ dân trí thấp, đời sống còn rất nhiều khó khăn. Nhiều bậc cha, làm mẹ chưa hiểu
được tầm quan trọng của việc học, chưa làm tròn trách nhiệm, thiếu sự quan tâm đến con em,
còn khoán trắng cho nhà trường. Một số em thỉnh thoảng cha mẹ bắt ở nhà đi chăn bò. Đến
mùa vụ các em thường bỏ học đi lên nương, làm rẫy; vào những ngày mưa các em ít khi đến

trường.
Cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu thốn: chưa có phòng hiệu bộ, phòng chức năng.
Phòng học ở phân hiệu thiếu và xuống cấp nặng, trường phải mượn phòng của Mẫu giáo để
giảng dạy.
Một số giáo viên chưa có ý thức xây dựng khối đoàn kết, chưa ủng hộ sự đổi mới cũng
như giải pháp thực hiện của Ban giám hiệu nhà trường.Thậm chí có giáo viên chủ nhiệm học
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 13


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
sinh nghỉ học gần chục ngày nhưng cũng không đến nhà học sinh.Điều đó cũng đã gây trở ngại
cho nhà trường trong việc thực hiện nhiệm vụ duy trì sĩ số học sinh.
Bản thân là một phó hiệu trưởng mới đảm nhận chức vụ được một thời gian ngắn nên
kinh nghiệm chưa nhiều, nên đôi khi trong giải quyết công việc còn mang tính học hỏi, vừa
làm, vừa học. Khi phân công chuyên môn cho giáo viên tôi yêu cầu giáo viên đi vào tìm hiểu,
phân tích, tổng hợp lí lịch trích ngang của học sinh để nắm được cụ thể gia cảnh của từng học
sinh. Những em có ý thức đạo đức tốt, được gia đình quan tâm đến việc học hành được sắp xếp
ngồi cạnh những em chưa tốt. Bên cạnh việc quan tâm hỏi han đến cuộc sống sinh hoạt, học tập
của học sinh. Tôi còn sắp xếp thời gian rảnh rỗi trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với các bậc phụ
huynh những mong có sự kết hợp hành động một cách thống nhất, có hiệu quả từ hai phía Nhà
trường và gia đình.Như trường hợp của em Trần Quốc Lợi , gia đình em khó khăn và bố mẹ bỏ
nhau, em phải ở với bà ngoại, bà thì già yếu, bệnh tật không có thời gian lo cho em nên em
thường xuyên nghỉ học để ở nhà phụ giúp gia đình. Tôi đã sắp xếp thời gian phối hợp với giáo
viên chủ nhiệm đến thăm gia đình em, vận động gia đình cho em đi học. Ngoài ra còn trường
hợp của một số em khác : Y’Đan Niê, H’Nuil Hlong,...cũng có hoàn cảnh rất khó khăn.
Bên cạnh đó tôi còn hướng cho giáo viên chủ nhiệm tạo điều kiện học sinh của mình
tham gia vào những hoạt động ngoại khóa bổ ích để hình thành cho các em lòng đoàn kết,
tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, tình yêu thương giữa con người với con người, hướng

các em vào các việc và các hoạt động như: Gây quỹ vì bạn nghèo, nuôi heo đất, quyên góp ủng
hộ các bạn học sinh nghèo hơn đón tết… Hướng các em vào viêc xây dựng tập thể lớp học tiên
tiến, đoàn kết, vững mạnh. Bên cạnh đó cũng có những biện pháp khen thưởng, động viên kịp
thời những em hoàn thành tốt nhiệm vụ cũng như có biện pháp nhắc nhở, giáo dục những em
chưa hoàn thành nhiệm vụ. Qua các hoạt động trên, tôi đã thu được một số kết quả khả quan
như sau:
* Về học tập: Các em đi học chuyên cần hơn, đã có ý thức học bài, làm bài, soạn bài
trước khi đến lớp. Việc kiểm tra khảo bài 15 phút đầu giờ luôn được duy trì và giữ vững từ đầu
năm học tới giờ. Việc nói chuyện riêng trong giờ học giảm rõ rệt. Các em đã hăng hái trong
phát biểu ý kiến xây dựng bài, đã hình thành những đôi bạn cùng tiến, kiên trì vượt khó, giúp
đỡ nhau trong học tập … Tỉ lệ học sinh hoàn thành chương của cuối học kì I so với kết quả
khảo sát đầu năm tăng lên rõ rệt, được thể hiện ở bảng số liệu sau:

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 14


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc

Đạt CKTKN
Tỉ lệ học sinh đạt

Tỉ lệ học sinh chưa đạt

CKTKN

CKTKN

Học kì


Đầu năm
Cuối kì 1

TSHS

Tỉ lệ %

TSHS

Tỉ lệ %

244

73,5

88

26,5

313

94,2

19

5,8

* Về đạo đức: Các em được cuốn hút, tham gia tích cực và các hoạt động chung của
trường, lớp, biết yêu quê hương đất nước, kính trọng ông bà cha mẹ và những người thân trong

gia đình, lễ phép với thầy cô giáo và những người lớn tuổi. Với bạn bè, em nhỏ, các em đối xử
hòa nhã, thương yêu. Bên cạnh đó, qua các môn học tôi cũng đã chỉ đạo giáo dục lồng ghép
cho học sinh lối sống nhân văn, biết noi gương các anh hùng, các tấm gương có trong nội dung
bài học. Tôi cũng áp dụng các phương pháp dạy học mới, để phát huy ở các em tính năng động
sáng tạo trong quá trình tiếp thu kiến thức ở trên lớp. Nếu thời gian đầu năm lớp học rất thụ
động, các em ngại ngùng không tham gia xây dựng bài thì ở giữa kì I các em đã phát huy tính
tích cực, tự giác hơn.Các giờ học diễn ra rất sôi nổi, hào hứng.
Qua các tiết học ngoại khóa, Nha học đường, An toàn giao thông, các em biết vệ sinh
thân thể, tự bảo vệ mình và mọi người xung quanh, có phản ứng mạnh trước sự rủ rê lôi kéo
của bạn xấu, kịp thời tố giác với cô giáo…
Các khoản tiền ủng hộ nhân đạo, ủng hộ các bạn nghèo, ủng hộ các bạn vùng sâu vùng
xa đón tết, nuôi heo đất giúp bạn khó trong học tập… Các em đều tham gia đóng góp rất nhanh
và số lượng nhiều , các giáo viên chủ nhiệm vận động các em có điều kiện tốt hơn đóng góp
giúp bạn không có điều kiện. Ngoài ra ở mỗi tổ cũng có một quỹ nhỏ, khi cần thiết có thể trích
ra mua đồ dùng học tập giúp đỡ các bạn nghèo, tình đoàn kết trong lớp được phát huy , cuối
học kì I, xếp loại thi đua của cả lớp đều đạt từ khá trở lên. Do vậy trường tôi luôn hoàn thành
các khoản tiền nhân đạo trước thời hạn.

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 15


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
Đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến học sinh có nguy cơ bỏ học,
không thích đến trường, đến lớp. Vấn đề mà tôi muốn nói đến là việc duy trì sĩ số cho học sinh
dân tộc. Nói đến học sinh dân tộc nơi tôi đang công tác thì phần lớn các em có hoàn cảnh gia
đình khó khăn, con đông .Học sinh bị hổng kiến thức khá nhiều do các em bị mất kiến thức căn
bản từ những lớp dưới, bên cạnh đó thiếu sự quan tâm của gia đình , cũng không thể không nói
đến đại đa số các em hay nghỉ học , ham chơi là các em có độ tuổi quá chênh lệch so với các

bạn cùng trang lứa.
Ta nhận thấy vấn đề duy trì của học sinh có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của
nhà trường, của xã hội. Tình hình bỏ học của học của học sinh gần đây đang là vấn đề mà
chúng ta phải đặt lên hàng đầu mà chủ yếu là tập trung và các nguyên nhân sau :
- Nhà trường xây dựng kế hoạch còn chưa thật sự cụ thể mà vẫn mang tính chất chung
chung. Công tác Đội chưa tổ chức tốt các phong trào vui chơi thiết thực, tổ chức các hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp...để thu hút học sinh tham gia. Khuôn viên nhà trường còn chật
chội,thiếu chỗ bóng mát cho học sinh vui chơi.
- Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp chưa phối hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học
sinh của lớp, còn thiếu quan tâm đến hoàn cảnh gia đình các em, đôi khi giáo viên cư xử còn
thiếu tế nhị làm xúc phạm đến lòng tự ái của học sinh. Học sinh như đã nói ở trên phần lớn các
em đi học không đúng độ tuổi, các em cũng chưa hiểu hết là “Học để làm gì ?”
- Không ít gia đình thiếu sự quan tâm đến việc học của con em mình, họ khoán trắng
cho nhà trường, chưa kể đến là một số gia đình còn nuông chiều con quá mức khi nào cũng cho
con mình là ngoan, là giỏi nhất nên dẫn đến thiếu sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã
hội. Những ảnh hưởng xấu tác động ngoài xã hội đến nhận thức của các em như : phim ảnh
không lành mạnh, các trò chơi điện tử , các chất gây nghiện....ảnh hưởng không nhỏ đến học
tập của các em.

II.3. Giải pháp, biện pháp
a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Đưa ra các giải pháp, biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường nhằm làm
tốt công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc trong công tác quản lý hoạt động day- học.
Xây dựng tập thể sư phạm thực sự đoàn kết; đội ngũ giáo viên, nhân viên có tinh thần
trách nhiệm cao với công việc; biết chia sẻ, gánh vác, giúp đỡ nhau vì nhiệm vụ chung, cùng

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 16



Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
nhau phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn của nhà
trường ngày một đi lên.
Bản thân tôi đã có 10 năm giảng dạy ở vùng với điều kiện khó khăn và rất tâm đắc với
câu nói: “Muốn có học sinh thì phải hiểu học sinh”. Nghĩa là một khi muốn vận động các em
đến lớp thì điều quan trọng với một giáo viên là phải nắm rõ về hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt,
học tập của các em tại gia đình để rồi từ đó đưa ra những biện pháp vận động thuyết phục phù
hợp. Cái này cần được quán triệt ngay từ đầu năm học. Cụ thể, ngay từ đầu năm học, nhà
trường và mỗi giáo viên chủ nhiệm phải khảo sát điều tra để nắm vững hoàn cảnh học sinh, em
nào cư trú tại các thôn, buôn nào, em nào hiện đang gặp khó khăn, có khả năng không tham gia
học tập chuyên cần v.v.. Từ đó kịp thời động viên các em bằng hình thức kêu gọi hỗ trợ giúp
đỡ trong khả năng có thể về vật chất và tinh thần, làm sao để các em đảm bảo “ba đủ” (đủ ăn,
đủ mặc, đủ quần áo đến trường). Tôi còn nhớ hồi tôi mới lên nhận công tác ở trường này,nhìn
gương mặt các em thật tội: Mỗi một bộ quần áo để đi học,mặt mũi thì nhem nhuốc, Cứ sáng
mặc đi học thì đến chiều tối lại giặt sạch để ngày mai mặc tiếp. Thấy vậy, các thầy cô trong
trường đã cùng nhau phát động chương trình xin quần áo cũ cho học sinh . Nhờ đó, không
những học sinh trường tôi mà cả các em trường mầm non và tiểu học cũng có thêm quần áo để
mặc. Việc này cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống tình trạng nghỉ học, bỏ học. Ngoài
ra, quá trình tuyên truyền vận động từ lời nói, cử chỉ, hành vi phải thể hiện được sự chân thành,
sự đồng cảm với hoàn cảnh của học sinh để tạo sự tin tưởng đối với phụ huynh và học sinh.
Đặc biệt là tránh cách vận động khô cứng, nói những câu thiếu sức thuyết phục như : “Đi học
đi, ở nhà làm gì” hoặc “Cho con đi học chứ sao lại bắt con ở nhà?”… Tôi nhớ một lần tôi đi
cùng cô Võ Thị Hiền đến nhà em Y’Đan Niê, học sinh lớp 4C để khuyên em trở lại trường.
Hôm đấy, vừa thấy bóng tôi ở ngoài ngõ, nét mặt của em đã thoáng chút hoảng sợ, em lẩn
tránh ra ngoài vườn rất nhanh. Tôi vào nhà, tìm mãi chẳng thấy em đâu cả. Khi nhìn ra ngoài
vười thì trời ạ, em đang chui tận trong vườn cà phê chỉ còn thấy mỗi hai bàn chân .Tôi hiểu là
cần phải thay đổi “chiến thuật” nên dỗ dành: “Ừ, không đi cũng được, nhưng ra đây với cô.
Không sao đâu!”. Cuối cùng thì em ấy cũng chịu chui ra khỏi vườn cà phê… Tôi vừa chải đầu,
chỉnh lại quần áo cho em, vừa nói rõ tác dụng của việc đến trường, tất nhiên là theo cách đơn

giản, dễ hiểu nhất. Cô trò cứ thủ thỉ với nhau, và tôi mừng khôn xiết khi em ấy ngập ngừng nói:
“Ngày mai em sẽ đi học cô ạ!”.Vậy là bước đầu tôi đã thành công rồi đấy!

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 17


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Tổ chức điều tra nắm hoàn cảnh của từng học sinh ngay từ đầu năm học: Phân công
những giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong chuyên môn và nhiệt tình trong công tác làm chủ
nhiệm các lớp. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác bàn giao lớp giữa giáo viên chủ nhiệm cũ cho
giáo viên nhận lớp mới, rà soát những học sinh học yếu kém có nguy cơ bỏ học , tìm hiểu hoàn
cảnh sống của gia đình, công việc thường ngày của học sinh ở nhà và kinh tế gia đình ....Theo
số liệu điều tra một số gia đình học sinh nghèo có hoàn cảnh khó khăn cần giúp đỡ năm học
2014- 2015, Nhà trường có 41 học sinh thuộc diện khó khăn trong đó có 04 học sinh là hộ
nghèo là những học sinh nghèo có nguy cơ bỏ học . Là Phó hiệu trưởng nhà trường, tôi đã cùng
giáo viên chủ nhiệm nắm bắt tình hình cụ thể ngay từ đầu năm để kịp thời tìm ra giải pháp, chỉ
đạo giáo viên chủ nhiệm lớp kết hợp cùng các ban ngành đoàn thể trong địa bàn tìm biện pháp
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tham gia học tập. Chỉ đạo giáo viên làm tốt công
tác chủ nhiệm lớp xây dựng mối quan hệ với gia đình học sinh ngay từ đầu năm học, điều tra
lập sổ theo dõi học sinh. Ngay từ đầu năm học mới trong những cuộc họp hội đồng , họp
chuyên môn của nhà trường ,kế hoạch đưa ra cho giáo viên chủ nhiệm là: nhắc nhở giáo viên
liên lạc thường xuyên với phụ huynh học sinh của lớp sẽ giúp cho chủ nhiệm nắm bắt rõ hơn về
biểu hiện của học sinh về ý thức học tập hàng ngày ở trường, ở nhà, kiểm tra những trang bị
cần thiết của học sinh trong học tập như : Đồ dùng học tập, sách giáo khoa, cặp sách tối thiểu
có hay không, đế báo lại cho nhà trường biết tìm biện pháp giải quyết kịp thời .Yêu cầu giáo
viên đến thăm gia đình PHHS và giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Một khi
hiểu rõ học sinh của mình hơn thì giáo viên chủ nhiệm sẽ có nhiều giải pháp thiết thực hơn để

giúp học sinh của mình duy trì tính chuyên cần của các em. Khi có học sinh bỏ học thì giáo
viên chủ nhiệm cần phải thông báo ngay cho Ban giám hiệu nhà trường, đồng thời sắp xếp thời
gian gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi các thông tin cùng nhau tìm các giải pháp phối hợp tốt
hơn đưa học sinh trở lại trường. Đối với những phụ huynh học sinh tích cực quan tâm đến tình
hình học tập của con em thì họ sẽ tích cực ủng hộ nhà trường nhằm tìm giải pháp tốt nhất duy
trì sĩ số học sinh trong nhà trường để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục. Một hình thức
không thể thiếu được trong việc giúp học sinh có ý thức học tập tốt là xây dựng góc học tập
cho học sinh ở nhà dù chỉ là những vật dụng đơn giản nhưng vẫn có chỗ yên tĩnh để các em học
bài. Tổ chức cho học sinh học theo nhóm có hướng dẫn của giáo viên tăng cường thêm một số
buổi trong tuần để giúp đỡ, kèm cặp các em trong học tập, giúp các em gắn bó với nhau hơn,
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 18


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
có điều kiện trao đổi bài và giúp nhau cùng tiến bộ.

Trong các kỳ họp phụ huynh các lớp,

bản thân tôi luôn xắp xếp thời gian dự họp với những lớp có học sinh bỏ học nhiều, học sinh
học kém, học sinh cá biệt để nắm bắt nguyện vọng của phụ huynh, thông báo những chế độ
chính sách cho phụ huynh hiểu, có kế hoạch kiến nghị lên cấp trên kịp thời những yêu cầu của
PHHS đề nghị UBND xã miễn giảm học phí cho học sinh nghèo, đồng thời vận động học sinh
trong nhà trường, các nhà hảo tâm, chính quyền hỗ trợ vở viết, sách giáo khoa, tổ chức thăm
hỏi, động viên các gia đình gặp hoàn cảnh không may mắn đã tạo được tình cảm gắn bó, tinh
thần đoàn kết tương trợ cùng nhau vượt qua khó khăn để học tập như: Học bổng “ Thắp sáng
ước mơ ”. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục ngoại khóa và các trò chơi dân
gian để thu hút học sinh “Vui mà học – Học mà vui”. Ngoài các giải pháp nêu trên, một kế
hoạch không thể thiếu là kế hoạch chuyên môn, tôi cũng chú trọng chỉ đạo giáo viên thực hiện

tốt các hoạt động văn nghệ , thể dục thể thao, để các em có thời gian thư giãn, vui tươi trong
học tập, đoàn kết trong tập thể, hào hứng trong công việc, đây cũng chính là nội dung xây dựng
“ trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng
7 năm 2008 của Bộ Giáo Dục và đào tạo, tạo điều kiện cho học sinh khi đến trường được an
toàn, thân thiện, vui vẻ, tạo cho các em cảm giác “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” Tổ
chức cho học sinh chơi những trò chơi dân gian trong ngày khai giảng ,các đợt hội thao, hội
khỏe, các giờ sinh hoạt của trường, để thu hút học sinh tham gia hoạt động và thư giãn vui vẻ
sau những ngày học tập căng thẳng.
Đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn,cùng thảo
luận thống nhất ý kiến với Ban đại diện cha mẹ học sinh, các nhà hảo tâm, hội khuyến học của
trường giúp đỡ học sinh quần áo, sách vở, dụng cụ học tập, tặng học bổng cho học sinh nghèo
vượt khó học giỏi. Một số em có hoàn cảnh mồ côi cha, mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, có hoàn cảnh
kinh tế khó khăn như các em : Y’Đan Niê lớp 4B, Nguyễn Quốc Khánh lớp 4A, Nguyễn Ngọc
Luận lớp 5A, H’Nuil Hlong lớp 4C. Bản thân tôi chỉ đạo, phối hợp tốt hình thức hoạt động của
Đoàn - Đội trong nhà trường, tổ chức Đoàn - Đội là một tổ chức mạnh để các em học sinh tham
gia rèn luyện ý thức. Hàng ngày các thành viên trong tổ tự quản theo dõi số học sinh nghỉ học
ở các lớp. Chỉ đạo cho Bí thư đoàn trường và Tổng phụ trách đội phải luôn là người sát cánh
cùng giáo viên chủ nhiệm lớp, cùng tổ chức các hoạt động như: Sinh hoạt thường kỳ ở chi
đoàn, sinh hoạt liên chi đội và các hoạt động đoàn đội để thu hút học sinh trong sinh hoạt thi
đua. Nhờ vậy mà phong trào của lớp ngày càng có nhiều tiến bộ vượt bậc.Tổ chức sinh hoạt
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 19


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
văn nghệ, thể dục thể thao vào các ngày lễ lớn để thu hút học sinh trong nhà trường và ngoài xã
hội cho các em thấy đi học vui hơn và có ích hơn ở nhà.
Từ những kế hoạch cụ thể trong nhà trường để duy trì sĩ số học sinh, điều trọng tâm là
việc tìm ra những nguyên nhân, cách vận dụng linh hoạt sáng tạo trong các giải pháp, trong tổ

chức thực hiện thường xuyên kiểm tra, phối hợp và kiên trì trong công tác duy trì sĩ số học
sinh; trong những năm trước đây cũng như trong 03 năm học liền kề đều đạt kết quả tốt. Tóm
lại việc nghỉ học của học sinh chịu ảnh hưởng của ba yếu tố chính đó là: Bản thân học sinh; gia
đình; nhà trường và xã hội. Có thể tóm tắt các mối quan hệ ấy theo sơ đồ sau: Nhận thức của
học sinh, năng lực của học sinh không có động cơ học tập đúng đắn. Điều kiện kinh tế gia đình
khó khăn, thiếu quan tâm giáo dục gia đình, vấn đề giáo dục kém hiệu quả, sức thu hút trong
nhà trường, sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa các lực lượng giáo dục.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Ngay từ đầu năm học, tôi nhận trách nhiệm quan trọng của một Hiệu phó chuyên môn
nhà trường là thực hiện tốt công tác giáo dục trong đó có công tác duy trì sĩ số.Thông qua kế
hoạch được xây dựng ngay từ đầu năm học và chỉ đạo của Hiệu trưởng nhà trường, tôi mạnh
dạn áp dụng một số biện pháp như sau:
+ Tìm hiểu và nắm bắt đặc điểm tình hình của lớp: Tổ chức điều tra nắm hoàn cảnh của
từng học sinh: Lý lịch ,ghi rõ họ tên, nghề nghiệp của cha mẹ, hoàn cảnh sống của gia đình,
công việc thường ngày của học sinh phải làm ở nhà và gia đình có mấy anh chị em đang học
tập, đồng thời điều tra nắm chất lượng học tập và hạnh kiểm ở năm trước.
+ Kết hợp với phụ huynh: Trong phiên họp với cha mẹ học sinh đầu năm học thông báo
cho phụ huynh biết tình hình học tập của con em trong năm học vừa qua. Sau đó tôi nêu thuận
lợi và khó khăn của Nhà trường để cho phụ huynh hiểu, lắng nghe những tâm tư nguyện vọng
của từng phụ huynh. Phụ huynh trao đổi và cung cấp thêm những thông tin khác về con em
mình. Cuối cùng, thông qua nội quy, chỉ tiêu phấn đấu và thống nhất: Để con em có được kết
quả tốt trong học tập cũng như những kĩ năng sống cho bản thân, gia đình và xã hội rất cần sự
giúp đỡ hỗ trợ từ phía phụ huynh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để con em đến trường đúng ngày,
đúng giờ, giúp các em đi học đều, kiến thức không bị ngắt quãng dẫn đến chán học. Trong năm
học chỉ được nghỉ học khi có lí do chính đáng như: Đám ma người thân, đám cưới chị, em ruột,
đau ốm phải nằm viện hoặc không ngồi học được. Nếu các em nghỉ học có lí do nào thì phụ
huynh phải có trách nhiệm gọi điện, nhắn tin cho giáo viên biết, ngược lại giáo viên chủ nhiệm
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 20



Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
khi có học sinh bỏ học thì giáo viên chủ nhiệm cần phải thông báo ngay cho Ban giám hiệu nhà
trường đồng thời sắp xếp thời gian gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi các thông tin cùng nhau
tìm các giải pháp phối hợp tốt hơn đưa học sinh trở lại trường. Liên lạc thường xuyên với phụ
huynh học sinh sẽ giúp cho giáo viên chủ nhiệm nắm bắt rõ hơn về thời gian biểu cũng như các
thói quen, sở thích và tính cách của từng học sinh. Khi hiểu rõ giáo viên chủ nhiệm sẽ có nhiều
giải pháp giúp học sinh của mình chuyên cần hơn trong việc học tập cũng như duy trì sĩ số của
lớp tốt hơn.Thông qua sổ liên lạc để báo tình hình học tập cho gia đình.
+ Phối kết hợp với chính quyền địa phương: Giáo dục học sinh, vận động học sinh bỏ
học ra lớp: Khi có học sinh trong lớp bỏ học thì người giáo viên chủ nhiệm là người đầu tiên
phải tìm hiểu rõ nguyên nhân: Tìm hiểu về hoàn cảnh kinh tế gia đình, biện pháp giáo dục
trong gia đình, nhu cầu hứng thú và thói quen của học sinh trong gia đình…trực tiếp xuống
thôn, buôn, đến gia đình học sinh bỏ học vận động học sinh trở lại trường, những trường hợp
khó vận động thì cần phối hợp với nhà trường và các lực lượng xã hội từ đó tìm giải pháp thích
hợp nhằm sớm đưa học sinh trở lại trường.
+ Thực hiện tốt giờ sinh hoạt lớp: Trong tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, yêu cầu giáo viên
cần chuẩn bị nội dung và phân tích kỹ những mặt ưu và cũng rất nghiêm khắc với những vi
phạm nội quy của nhà trường, luôn luôn biểu dương các em đi học đều, không nghỉ học, để
động viên khích lệ: dùng phần thưởng nhỏ như: vở,bút ,…. Để khen thưởng, động viên các
em.
+ Sự phối hợp với các giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay: Việc phối hợp với các
giáo viên bộ môn cũng như các giáo viên dạy thay là hết sức quan trọng nhằm theo dõi sĩ số
học sinh qua đó có kế hoạch điều chỉnh cũng như động viên các em bỏ học giúp các em học tập
tốt hơn.
Hàng tháng qua buổi các buổi sinh hoạt chuyên môn đều sơ kết theo tổ chấm chéo với
nhau nhằm mục đích ngăn chặn và dập tắt những biểu hiện xấu của các em khi vừa chớm nở
với biểu điểm, có biên bản sinh hoạt lớp do thư ký ghi chép. Cuối tháng chuyên môn, tổ khối
cùng xếp loại thi đua.

Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Trên cơ sở phân tích các mối quan hệ và qua thực tế chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác
duy trì sĩ số ở nhà trường cùng với các giải pháp đã thực hiện để duy trì sĩ số học sinh như sau:

Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 21


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
+ Đối với học sinh: Một số học sinh không có động cơ học tập đúng đắn; chưa nhận
thức được nghĩa vụ học tập của mình, chưa thấy được vai trò và tầm quan trọng của kiến thức
đối với cuộc sống của bản thân và cơ hội tìm kiếm việc làm sau này. Một số ít học sinh khi vào
đầu cấp học bị mất kiến thức căn bản, khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức mới dẫn đến chán
nản trong học tập. Các buổi sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp cuối tuần, các hoạt động giáo dục
NGLL; nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên làm tốt công tác
tuyên truyền giáo dục cho học sinh, nhận thức học tập vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của
công dân trong độ tuổi Phổ cập giáo dục Tiểu học được quy định trong luật Giáo Dục và là cơ
hội để tìm kiếm việc làm ổn định sau này. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm tiến hành khảo sát,
phân loại học sinh ngay từ đầu năm học, theo dõi thường xuyên. Mở các lớp phụ đạo, phân
công giáo viên giảng dạy một cách cụ thể, giúp đỡ từng học sinh theo từng nội dung kiến thức
cần bổ sung. Đặc biệt quan tâm đến những học sinh khối lớp 5 chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ
năng về yêu cầu Đọc – Viết. Cuối năm học giáo viên chủ nhiệm phải chịu trách nhiệm trước
nhà trường và phụ huynh về chất lượng giáo dục do lớp mình nhận bàn giao.
+ Phụ huynh học sinh: Một số phụ huynh học sinh chưa nhận thức được nghĩa vụ của
mình đối với Nhà trường, một số phụ huynh thiếu quan tâm, buông lỏng quản lý con em; dành
nhiều thời gian cho việc mưu sinh để kiếm tiền, số khác sống trong hoàn cảnh éo le như: Cha
mẹ ly hôn hoặc cha mẹ đi làm ăn xa phải ở với người thân. Những học sinh này thường có thừa
thời gian để tự do cá nhân nhưng lại thiếu tình thương hoặc nhận được sự giáo dục cực đoan,
phiến diện dễ bị khủng hoảng về tâm lý nên nguy cơ bỏ học rình rập bất cứ lúc nào. Do đó giáo

viên chủ nhiệm cần phối kết hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh, tổ chức chính trị xã hội các
cấp, các phương tiện thông tin đại chúng. Cá biệt có những phụ huynh nhận thức sai lầm “Học
cũng chẳng để làm gì” Một số học sinh và phụ huynh học sinh có suy nghĩ chưa chín chắn,
kiếm tiền lo cuộc sống trước mắt, chưa nghĩ tới tương lai lâu dài cho cuộc sống mai sau. Một
bộ phận nhân dân còn có cuộc sống rất khó khăn, gia đình nghèo. Một tỷ lệ lớn học sinh bỏ học
nằm trong diện này. Các em phải nghỉ học để phụ giúp gia đình hàng ngày. Một số theo bạn bè
đi khỏi địa phương tìm kiếm việc làm nơi khác.
+ Là một người quản lý bản thân tôi luôn tham gia vào các buổi họp Phụ huynh học
sinh, các buổi sinh hoạt cộng đồng , tuyên truyền Luật Giáo dục, biểu dương những tấm gương
vượt khó học tập, những gia đình hiếu học.... từng bước làm chuyển biến và nâng lên nhận thức
của nhân dân về trách nhiệm của gia đình đối với việc học tập của con em được quy định trong
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 22


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
Luật Giáo dục cũng như mục đích học tập của con em họ là “Học để lập thân, lập nghiệp, để
thoát nghèo. Đặc biệt chú ý đến các đối tượng cận nghèo, tái nghèo hoặc những hộ nghèo mới
phát sinh nằm ngoài diện miễn giảm được quy định theo các văn bản hiện hành. Thông báo
sớm, công khai đến học sinh để các em yên tâm học tập. Huy động các nguồn tài trợ từ nhiều
phía để có kinh phí giúp đỡ học sinh. GVCN các lớp làm tốt công tác tư tưởng cho học sinh,
xây dựng khối đoàn kết thương yêu đùm bọc chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau giúp các em yên tâm
trong học tập. Nhà trường chủ động phối hợp với các đoàn thể tuyên truyền, giáo dục trong
nhân dân để họ nâng lên nhận thức và thấy được trách nhiệm của mình đối với việc quản lý và
giáo dục con em. Phát huy vai trò của GVCN, ban cán sự lớp và tổ chức Đoàn Đội đi sâu tìm
hiểu từng học sinh, thương yêu gần gũi, đồng cảm, chia sẻ đặc biệt đối với các em, gạt qua sự
bực dọc, coi học sinh như người thân trong gia đình. Quan tâm, chia sẻ, động viên kịp thời với
những tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất. Với những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt thì giáo
viên cũng phải có phương pháp giáo dục đặc biệt cho từng em, cảm hoá các em bằng tình

thương của những tấm lòng cao thượng, giúp các em tìm được niềm vui riêng dưới mái trường
và trong cuộc sống, cảm thông với những khó khăn hoặc thiếu thốn tình cảm của học sinh, để
các em bớt đi những mặc cảm cá nhân, tự tin hơn trong cuộc sống cũng như trong học tập
+ Nhà trường và xã hội: Một bộ phận giáo viên chưa làm hết trách nhiệm của mình, chỉ
nặng về giảng dạy truyền thụ kiến thức mà quên đi sự gần gũi để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng,
hoàn cảnh của học sinh; số ít hạn chế về năng lực chuyên môn, chưa khơi dậy lòng ham học ở
các em.Nhà trường tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, uốn
nắn nhắc nhở kịp thời và mạnh dạn xử lý đối với giáo viên sai phạm. Quan tâm bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thông qua dự giờ, thao giảng... Cơ sở vật chất, trang thiết bị
trường học còn nghèo nàn chưa thực sự gây hứng thú, tạo niềm vui, niềm hạnh phúc cho học
sinh khi đến trường. Các tiêu cực, tệ nạn xã hội như: Bida, trò chơi điện tử, bài bạc, trộm cắp,..
ngày càng có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến học sinh chậm tiến, lôi kéo một số em làm cho
việc học hành bị sao nhãng, coi thường việc chấp hành nội quy nhà trường, thích lối sống tự do
buông thả, khi được nhà trường hoặc giáo viên chủ nhiệm lớp nhắc nhở, phê bình thì có tư
tưởng muốn nghỉ học. Do đó Ban giám hiệu trường cần tích cực tham mưu, tranh thủ sự quan
tâm của ngành chức năng và UBND xã, chính quyền các cấp để tăng cường CSVC nhà trường
như: Làm sân, xây mới thêm một số phòng học ở phân hiệu Buôn Kuôp,mua sắm thêm thiết bị
dạy học... Tăng cường công tác xã hội hóa để có kinh phí xây dựng trường “Xanh – Sạch –
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 23


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
Đẹp”. Giáo viên chủ nhiệm cần dành nhiều thời gian, kể cả 15 phút sinh hoạt đầu giờ và những
ngày không có giờ trên lớp để theo dõi học sinh, thông báo và phối hợp kịp thời với gia đình,
nhà trường, Đoàn Đội và chính quyền địa phương; mục đích chính là phải quản lý được thời
gian của các em ở nhà, trên đường đi và trong giờ học.Tổ chức có chiều sâu, thiết thực và hiệu
quả phong trào “đôi bạn cùng tiến” có sơ, tổng kết, biểu dương, khen thưởng kịp thời. Tổ chức
các hoạt động thường xuyên dưới các hình thức vui chơi giải trí như: “sân chơi tìm hiểu kiến

thức” , “Đố vui khoa học”, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các trò chơi dân
gian, giáo dục ngoài giờ lên lớp… để tạo niềm vui, tạo sức thu hút của nhà trường đối với các
em. BGH trường tham mưu, đề xuất với UBND các cấp và ngành chức năng làm tốt công tác
quản lý, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quy định của các dịch vụ điện tử; có biện pháp
xử lý nghiêm khắc nếu sai phạm. Ngay sau khi nhận được báo cáo học sinh nghỉ học không có
lý do của GVCN cần chỉ đạo giáo viên gặp học sinh và phụ huynh tìm hiểu nguyên nhân, động
viên thuyết phục các em trở lại trường. Báo cáo kịp thời với chính quyền địa phương, các ban
nghành đoàn thể để tìm biện pháp giải quyết. Chú ý vai trò của GVCN trong những lần vận
động ban đầu là rất quan trọng, vừa đảm bảo tính kịp thời, vừa có những tác động tâm lý tích
cực đến học sinh và phụ huynh tạo cơ sở tốt cho những lần vận động tiếp theo.
d.Mối quan hệ giữa giải pháp và biện pháp
Các giải pháp nêu trên có mối liên hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau và không thể tách
rời, điều đó được thể hiện trong xây dựng kế hoạch của người quản lý. Thực tế cho thấy giải
pháp này hỗ trợ cho giải pháp khác, thành công của việc làm này góp phần dẫn đến thành công
của việc làm khác. Vì vậy, không nên tách rời thực hiện từng giải pháp một mà luôn phải thực
hiện đồng bộ, phối hợp nhịp nhàng xuyên suốt trong cả năm học và trong quá trình làm công
tác giáo dục mà trọng tâm ở đây là vấn đề duy trì sĩ số học sinh dân tộc.
e.Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Sau 2 năm áp dụng cách làm trên. Năm học 2012 – 2013; 2013 – 2014 , tỉ lệ học sinh
dân tộc có nguy cơ bỏ học như sau:
( Số liệu học sinh Cuối năm học 2012 – 2013 )
Năm học
2013 -2014

Đầu năm
T. số
DT
347
190


Cuối năm
T. số
DT
347
190

Tỉ lệ
100 %

( Số liệu học sinh Cuối năm học 2013 – 2014 )
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 24


Một số kinh nghiệm trong công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc
Đầu năm
T. số
DT
333
191

Năm học
2013 -2014

Cuối năm
T. số
DT
333
191


Tỉ lệ
100 %

Từ cách làm trên, tôi đã mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm với tất cả giáo viên được các
thành viên trong hội đồng sư phạm mạnh dạn áp dụng vào công tác chủ nhiệm và nhận thấy
việc duy trì sĩ số của toàn trường đạt kết quả cao ở hầu hết các khối lớp.

II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Nhìn lại kết quả trên, bản thân tôi rất vui mừng vì mình đã cơ bản thực hiện tốt kế hoạch
năm học đã đề ra.
+ Đối với học sinh: Đã tạo niềm tin nơi các em, em nào cũng ham thích học tập, gắn bó
với trường lớp hơn, thích được đến lớp mỗi ngày.
+ Đối với trường, các ban nghành: Góp phần làm phong phú thêm kinh nghiệm công tác,
phổ biến kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau giữa các trường có nhiều học sinh dân tộc trong địa bàn
huyện nói riêng và toàn tỉnh nói chung, thì thiết nghĩ sẽ giảm thiểu tình trạng học sinh có nguy
cơ bỏ học, vận động học sinh bỏ học đi học lại.
Kết quả:
* Tập thể:
- Chi bộ: Đạt trong sạch, vững mạnh
- Nhà trường: Được UBND Huyện khen
- Công đoàn: Đạt Vững mạnh
- Chi đoàn, Liên đội: Đạt Vững mạnh
* Cá nhân:
- Chiến sĩ thi đua cơ sở: 03
- Giáo viên giỏi cấp huyện: 02
- Lao động tiên tiến: 16/33.
* Học sinh:
- Danh hiệu học giỏi cấp huyện: 11 em ( đạt trên tổng số 24 em tham gia )
- Học sinh giỏi: 41, tỷ lệ 12.3 %

- Học sinh tiên tiến: 84 em, tỷ lệ 25.2%
- Tỷ lệ lên lớp: 96.7 %
- Hoàn thành chương trình TH: 60, tỷ lệ 100 %
Trần Thị Nguyệt – Phó hiệu trưởng trường TH Dray Sáp

Trang 25


×