Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.18 KB, 79 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN............................................................ 7
1.1. KHÁI NIỆM DNVVN .......................................................................... 7
1.2. KHÁI NIỆM VỀ NLCT .................................................................... 11
1.2.1. Khái niệm cạnh tranh .................................................................... 11
1.2.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh ..................................................... 12
1.2.3. Những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
................................................................................................................. 13
1.3. VAI TRÒ CỦA NLCT ĐỐI VỚI DNVVN TRONG GIAI ĐOẠN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ........................................................... 16
1.4. NLCT CỦA DNVVN VỚI THƢỚC ĐO LÀ SẢN PHẨM MỚI VÀ
CẢI TIẾN SẢN PHẨM ............................................................................ 18
1.4.1. Sản phẩm mới ............................................................................... 18
1.4.2. Cải tiến sản phẩm .......................................................................... 20
1.4.3. Các yếu tố tác động đến việc tạo sản phẩm mới và cải tiến sản
phẩm ........................................................................................................ 20
1.4.3.1. Nhóm quản lý doanh nghiệp................................................. 20
1.4.3.2. Tình trạng doanh nghiệp ...................................................... 21
1.4.3.3. Môi trường doanh nghiệp..................................................... 22

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NLCT CỦA CÁC DNVVN Ở VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2011. ............................................ 24
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT
NAM ........................................................................................................... 24
2.1.1. Các DNVVN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. 24
2.1.2. Ưu thế của DNVVN của Việt Nam .............................................. 29
2.1.3. Hạn chế của DNVVN của Việt Nam ............................................ 31



2.2. BỐI CẢNH CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TỚI CÁC DNVVN
Ở VIỆT NAM ............................................................................................ 32
2.2.1. Nội dung cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 ............................ 33
2.2.2. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 tới các
DNVVN ở Việt Nam .............................................................................. 39
2.2.3. Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tới các DNVVN ở Việt
Nam ......................................................................................................... 50
2.3. THỰC TRẠNG NLCT CỦA CÁC DNVVN TRONG GIAI ĐOẠN
2007-2011 ................................................................................................... 53
2.3.1. Thực trạng nhóm quản lý doanh nghiệp ....................................... 53
2.3.2. Tình trạng doanh nghiệp ............................................................... 55
2.3.3. Tình hình tài chính doanh nghiệp ................................................. 58
2.3.4. Môi trường doanh nghiệp.............................................................. 59
2.3.5. Nhóm biến phụ thuộc .................................................................... 60

CHƢƠNG 3: : SỬ DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƢỢNG ĐÁNH
GIÁ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI NLCT CỦA DNVVN Ở
VIỆT NAM. ........................................................................................... 62
3.1. PHƢƠNG PHÁP ƢỚC LƢỢNG ...................................................... 62
3.1.1. Mô hình logit thường ................................................................... 62
3.1.2. Mô hình logit dạng mảng .............................................................. 62
3.1.3. Số liệu và các biến số .................................................................... 62
3.1.3.1. Số liệu ................................................................................... 62
3.1.3.2. Bảng biến số ......................................................................... 63
3.2. KẾT QUẢ CHẠY MÔ HÌNH ........................................................... 65
3.2.1. Kết quả mô hình từ phương pháp logit thường............................. 65
3.2.1.1. Kết quả mô hình với biến khả năng sáng tạo sản phẩm mới 65
3.2.1.2. Kết quả mô hình với biến khả năng cải tiến sản phẩm ........ 71



3.2.2. Kết quả mô hình từ phương pháp logit dạng mảng ...................... 72
3.2.2.1. Kết quả mô hình ước lượng sáng tạo sản phẩm mới với mô
hình logit mảng .................................................................................. 72
3.2.2.2. Kết quả mô hình ước lượng cải tiến sản phẩm mới với mô
hình logit mảng .................................................................................. 73
3.3. KẾT LUẬN ......................................................................................... 73

CHƢƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. ............................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................ 78


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ .................................................. 9
Bảng 2: Bảng mô tả các yếu tố chịu tác động của khủng hoảng đối với
DNVVN .......................................................................................................... 52
Bảng 3: Bảng mô tả trình độ văn hóa của chủ doanh nghiệp trong ba năm
2007, 2009, 2011 ............................................................................................. 55
Bảng 4: Bảng phản ánh tình trạng xuất khẩu của các DNVVN ở Việt Nam. 56
Bảng 5: Tình trạng doanh nghiệp có thể tăng sản lượng ................................ 57
Bảng 6: Bảng phản ánh tỷ lệ số doanh nghiệp sử dụng quảng cáo sản phẩm
các năm 2007, 2009, 2011............................................................................... 59
Bảng 7: Các biến phụ thuộc được sử dụng trong mô hình ............................. 63
Bảng 8: Các biến độc lập được sử dụng trong mô hình .................................. 64
Bảng 9: Kết quả mô hình ước lượng tỷ lệ sáng tạo sản phẩm mới được vói
những biến đã lựa chọn năm 2007 .................................................................. 66
Bảng 10: Kết quả mô hình ước lượng tỷ lệ sáng tạo sản phẩm mới sau khi đã
bỏ biến năm 2007 ............................................................................................ 67
Bảng 11: Kết quả mô hình ước lượng tỷ lệ sáng tạo sản phẩm mới ba năm
2007, 2009, 2011 ............................................................................................. 69

Bảng 12: Kết quả mô hình với biến khả năng cải tiến sản phẩm trong ba năm
2007, 2009, 2011 ............................................................................................. 71
Bảng 13: Kết quả mô hình ước lượng sáng tạo sản phẩm mới với mô hình
logit mảng ........................................................................................................ 72
Bảng 14: Kết quả mô hình ước lượng cải tiến sản phẩm mới với mô hình logit
mảng ................................................................................................................ 73


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu trên thế giới hiện nay,
việc hội nhập mang lại cho mỗi quốc gia rất nhiều cơ hội, tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển thị trường, huy động nguồn vốn nước ngoài, phát triển công
nghệ mới và đưa sản phẩm đến người tiêu dùng quốc tế. Đồng thời cũng mang
đến không ít khó khăn và thách thức cho mỗi quốc gia, đặc biệt là một quốc gia
đang phát triển như Việt Nam. Trong đó khó khăn lớn nhất chính là vấn đề cạnh
tranh trong điều kiện không cân sức. Tham gia vào nền kinh tế thế giới, các
doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh với các công ty, tập đoàn kinh tế hàng
đầu với tiềm lực tài chính lớn và công nghệ hiện đại. Điều đó đặt ra yêu cầu cho
các doanh nghiệp phải khẩn trương tạo thế lực nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình khẳng định đẳng cấp doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì DNVVN đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế: phần lớn giải quyết được việc làm
cho lao động cả nước, hiệu quả làm việc cao, đặc biệt rất linh hoạt đối với sự
thay đổi, sốc kinh tế và đang đóng góp ngày càng nhiều vào GDP của quốc gia.
Đây chính là nguồn phát triển để trở thành doanh nghiệp lớn của đất nước.
Do vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng

trong sự phát triển của nền kinh tế. Năng lực cạnh tranh có thể đo bằng nhiều
khía cạnh nhưng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam và đang định
hướng xuất khẩu thì có thể đo bằng khả năng sáng tạo sản phẩm mới và cải tiến
sản phẩm. Điều đó là cần thiết để nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập kinh tế
quốc tế.
Vì những lý do trên chúng tôi thực hiện đề tài “Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế”

[Type text]

Page 5


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
Mục đích nghiên cứu: Đề tài nhằm mục đích đưa ra được bức tranh toàn
cảnh về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ở Việt Nam;
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của DNVVN, và từ đó
đưa ra các khuyến nghị về mặt chính sách nhằm nâng cao năng lực của các
DNVVN ở Việt Nam.
Đối tƣợng nghiên cứu : là các DNVVN ở Việt Nam, NLCT của các
DNVVN ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu số liệu năm 2007, 2009 và 2011 của các
DNVVN ở Việt Nam.
Bộ số liệu sử dụng : là 3 bộ số liệu SME_2007, SME_2009, SME_2011.
Phƣơng pháp nghiên cứu: chúng tôi sử dụng các phương pháp: phân tích
tổng hợp-so sánh; phương pháp thống kê mô tả, thống kê suy diễn và các mô
hình định lượng.
Cấu trúc đề tài: đề tài gồm 4 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận
Trong chương này chúng tôi sẽ nêu ra những khái niệm, cơ sở lý thuyết để
thực hiện đề tài.
Chương 2: Thực trạng NLCT của các DNVVN ở Việt Nam trong giai đoạn
2007-2011.
Trong chương này chúng tôi có thực hiện một số so sánh thực trạng phát
triển của DNVVN ở Việt Nam trước và trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Chương 3: Sử dụng mô hình kinh tế lượng đánh giá các yếu tố tác động tới
NLCT của DNVVN ở Việt Nam.
Trong chương này chúng tôi sẽ xây dựng các mô hình logit nhằm đánh giá
khả năng sáng tạo sản phẩm và cải tiến sản phẩm của DNVVN ở Việt Nam.
Chương 4: Kết luận và khuyến nghị.
Chương này chúng tôi sẽ đưa ra kết chung của đề tài và từ đó đề xuất một
số khuyến nghị nhằm nâng cao NLCT của DNVVN ở Việt Nam trong giai đoạn
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
[Type text]

Page 6


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế

1CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. KHÁI NIỆM DNVVN
Trên thế giới hiện nay, các nước có quan niệm rất khác nhau về doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác nhau này là tiêu thức
dùng để phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên trong hàng loạt
các tiêu thức phân loại đó có hai tiêu thức được sử dụng ở phần lớn các nước là
quy mô vốn và số lượng lao động.

Mặt khác việc lượng hoá các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp
còn tuỳ thuộc vào những yếu tố như:
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định cụ thể
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng
khác nhau.


Sau đây là khái niệm DNVVN: Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Small

and medium enterprises - SMEs) là đối tượng doanh nghiệp đặc trưng của nền
kinh tế. Việc định nghĩa rõ doanh nghiệp nào là vừa và nhỏ là rất linh hoạt và
tùy thuộc vào từng quốc gia, từng khu vực kinh tế. Thông thường sẽ có những
mức giới hạn cho một doanh nghiệp để được coi là vừa và nhỏ. Khi vượt qua
rào đó, doanh nghiệp vượt cấp trở thành doanh nghiệp lớn, thành các tập đoàn.


Nhận biết DNVVN:

Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng và toàn bộ thế giới nói chung, xét cả về
phương diện thực tế và lý luận chưa có một sự thống nhất các chỉ tiêu nhằm xác
định loại hình (DNVVN). Có quan điểm gắn việc phân loại quy mô doanh
nghiệp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành và dựa trên cơ sở hai tiêu
thức vốn và lao động. Các nước có quan điểm đánh giá quy mô doanh nghiệp
theo các tiêu thức vốn và lao động dựa trên cơ sở đặc tính kinh tế kỹ thuật của
từng ngành Nhật Bản, Malayxia, Thailan . . Chẳng hạn, ở Nhật Bản, theo quy
định của Bộ luật cơ bản về DNVVN, trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và
[Type text]

Page 7



Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
khai thác thì doanh nghiệp sử dụng dưới 300 lao động, có số vốn sản xuất kinh
doanh dưới 100 triệu yên thuộc doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, còn ở
Malayxia, doanh nghiệp có số vốn nhỏ hơn 500 Ringit và sử dụng dưới 50 lao
động là DNVVN.
- Trong năm 2013, theo thông tư số 16/2013/TT-BTC, ban hành ngày 08
tháng 02 năm 2013 thì doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, bao gồm cả chi
nhánh, đơn vị trực thuộc nhưng hạch toán độc lập, hợp tác xã ( sử dụng dưới
200 lao động làm việc toàn bộ thời gian năm và có doanh thu không quá 20 tỷ
đồng ) gọi chung là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Còn theo điều 3 nghị định
56/2009/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành vào ngày 30 tháng 6 năm 2009 thì
doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy
định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn ( tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng
cân đối kế toán của doanh nghiệp ) hoặc số lao động bình quân năm ( tổng
nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên ), cụ thể như sau:

[Type text]

Page 8


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
Bảng 1: Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ
Quy mô DN siêu nhỏ DN nhỏ


DN vừa

Số lao động Tổng nguồn Số lao động Tổng nguồn Số lao động
Khu vực

vốn

vốn

I. Nông lâm 10 người trở 20 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 20 Từ trên 200
và xuống

nghiệp

trở xuống

đến tỷ đồng đến người

200 người

thủy sản
II.

người

đến

100 tỷ đồng 300 người

Công 10 người trở 20 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 20 Từ trên 200


nghiệp

và xuống

trở xuống

xây dựng

người

đến tỷ đồng đến người

200 người

đến

100 tỷ đồng 300 người

III. Thương 10 người trở 10 tỷ đồng Từ trên 10 Từ trên 10 Từ trên 50
mại và dịch xuống

trở xuống

người

đến tỷ đồng đến người

50 người


vụ


50 tỷ đồng

đến

100 người

Đặc trưng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Tính chất hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung ở nhiều khu vực chế biến và
dịch vụ, tức là gần với người tiêu dùng hơn. Trong đó cụ thể là:


Doanh nghiệp vừa và nhỏ là vệ tinh, chế biến bộ phận chi tiết cho các

doanh nghiệp lớn với tư cách là tham gia vào các sản phẩm đầu tư.


Doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các dịch vụ đa dạng và phong phú

trong nền kinh tế như các dịch vụ trong quá trình phân phối và thương mại hoá,
dịch vụ sinh hoạt và giải trí, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ.


Trực tiếp tham gia chế biến các sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng

với tư cách là nhà sản xuất toàn bộ.



Chính nhờ tính chất hoạt động kinh doanh này mà các doanh

nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế về tính linh hoạt. Có thể nói tính linh hoạt là đặc
tính trội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhờ cấu trúc và quy mô nhỏ nên khả

[Type text]

Page 9


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh thậm chí cả địa điểm kinh
doanh được coi là mặt mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về nguồn lực vật chất
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế bởi nguồn vốn, tài
nguyên, đất đai và công nghệ. Sự hữu hạn về nguồn lực này là do tôn chỉ và
nguồn gốc hình thành doanh nghiệp. Mặt khác còn do sự hạn hẹp trong các
quan hệ với thị trường tài chính – tiền tệ, quá trình tự tích luỹ thường đóng vai
trò quyết định của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhận thức về vấn đề này các quốc gia đang tích cực hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ để họ có thể tham gia tốt hơn trong các tổ chức hỗ trợ để
khắc phục sự hạn hẹp này.
Về năng lực quản lý điều hành
Xuất phát từ nguồn gốc hình thành, tính chất, quy mô... các quản trị doanh
nghiệp vừa và nhỏ thường nắm bắt, bao quát và quán xuyến hầu hết các mặt của
hoạt động kinh doanh. Thông thường họ được coi là nhà quản trị doanh nghiệp
hơn là nhà quản lý chuyên sâu.. Chính vì vậy mà nhiều kỹ năng, nghiệp vụ quản

lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất thấp so với yêu cầu.
Về tính phụ thuộc hay bị động
Do các đặc trưng kể trên nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thụ động
nhiều hơn ở thị trường. Cơ hội “đánh thức”, “dẫn dắt” thị trường của họ rất nhỏ.
Nguy cơ “bị bỏ rơi”, phó mặc được minh chứng bằng con số doanh nghiệp vừa
và nhỏ bị phá sản ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Chẳng hạn ở
Mỹ, bình quân mỗi ngày có tới 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản (đương
nhiên lại có số doanh nghiệp tương ứng phù hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ
mới xuất hiện), nói cách khác các doanh nghiệp vừa và nhỏ có “tuổi thọ” trung
bình thấp.

[Type text]

Page 10


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
1.2. KHÁI NIỆM VỀ NLCT
1.2.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm
có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi
doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên
quốc gia.vv..điều này chỉ khác nhau ở mục tiêu được đặt ra ở chỗ quy mô doanh
nghiệp hay ở quốc gia mà thôi. Trong khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu
chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc
tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân
dân.vv..
Vậy cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế
có chức năng như nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các biện pháp để

giành phần thắng trong cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các mục
tiêu này có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn, danh tiếng….
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi cạnh tranh là lành mạnh, hoàn
hảo và nó giúp cho các chủ thể tham gia đạt được tất cả những gì mình mong
muốn.Trong thực tế, để có lợi thế trong kinh doanh các chủ thể tham gia đã sử
dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh để làm tổn hại đến đối thủ
tham gia cạnh tranh với mình. Cạnh tranh không mang ý nghĩa triệt tiêu lẫn
nhau, nhưng kết quả của cạnh tranh mang lại là hoàn toàn trái ngược. Giống như
bất kỳ sự vật hiện tượng nào khác, cạnh tranh cũng luôn tồn tại hai mặt của một
vấn đề: mặt tích cực và mặt tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, cạnh tranh là nhân
tố quan trọng góp phần phân bổ các nguồn lực có hạn của xã hội một cách hợp
lý, trên cơ sở đó giúp nền kinh tế tạo lập một cơ cấu kinh tế hợp lý và hoạt động
có hiệu quả. Bên cạnh đó, cạnh tranh góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học
công nghệ, dẫn đến gia tăng năng suất sản xuất xã hội, sử dụng hiệu quả các yếu
tố sản xuất đầu vào nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu xã hội thông qua các sản
phẩm, dịch vụ chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đa dạng… Ở góc độ tiêu
cực, nếu cạnh tranh chỉ nhằm mục đích chạy theo lợi nhuận mà bất chấp tất cả
[Type text]

Page 11


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
thì song song với lợi nhuận được tạo ra, có thể xảy ra nhiều hậu quả nghiêm
trọng cho xã hội như môi trường sinh thái bị hủy hoại, nguy hại cho sức khỏe
con người, đạo đức xã hội bị xuống cấp, nhân cách con người bị tha hóa. Nếu
xảy ra tình trạng này, nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển một cách lệch lạc và
không vì lợi ích của số đông.
1.2.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh

Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những
năm 1990. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt
trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh
tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng
bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp”. Tuy nhiên, khái
niệm năng lực cạnh tranh đến nay vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất.
Theo Buckley (1988), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần được gắn kết
với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp với 3 yếu tố: các giá trị chủ yếu
của doanh nghiệp, mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp các
doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình. Để có thể đưa ra quan niệm năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù hợp, cần lưu ý những đặc thù khái niệm
này như Henricsson và các cộng sự (2004) chỉ ra: đó là tính đa nghĩa (có nhiều
định nghĩa), đa trị (có nhiều cách đo lường), đa cấp (với các cấp độ khác nhau),
phụ thuộc, có tính quan hệ qua lại, tính chất động và là một quá trình. Ngoài ra,
khi đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần lưu ý thêm một
số vấn đề sau đây:
Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện, bối
cảnh và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị
trường tự do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và năng lực
cạnh tranh đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ cạnh
tranh. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh trên cơ sở tối
đa hóa số lượng hàng hóa nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị phần. Còn
[Type text]

Page 12


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế

trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa với mở rộng
“không gian sinh tồn”, doanh nghiệp phải cạnh tranh không gian, cạnh tranh thị
trường, cạnh tranh tư bản và do vậy quan niệm về năng lực cạnh tranh cũng phải
phù hợp với điều kiện mới. Đối với Việt Nam hiện nay, với trình độ phát triển
kinh tế còn thấp, nhưng lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh
tranh gay gắt, việc đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh cho phù hợp với bối
cảnh hiện nay là không đơn giản.
Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành
giữa các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các yếu tố sản
xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa, mà cả khả năng mở rộng không gian sinh tồn
của sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được phương
thức cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền thống và các
phương thức hiện đại – không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà dựa vào lợi thế
cạnh tranh, dựa vào quy chế.
Từ những yêu cầu trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp như sau:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi
thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút
và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền
vững.
Như vậy, năng lực cạnh tranh không phải là chỉ tiêu đơn nhất mà mang
tính tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định được cho
nhóm doanh nghiệp (ngành) và từng doanh nghiệp.
1.2.3. Những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cũng như bản thân doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau như điều kiện cầu (thị
trường), điều kiện yếu tố(nguồn lực đầu vào), các ngành cung ứng và liên quan
(cạnh tranh ngành), các sản phẩm mới và sự cải tiến sản phẩm , dịch vụ mới của
[Type text]


Page 13


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
doanh nghiệp, các yếu tố ngẫu nhiên và yếu tố nhà nước. Tuy nhiên, có thể chia
các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp làm hai nhóm:
các yếu tố bên trong doanh nghiệp và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
 Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
- Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
Tổ chức quản lý tốt trước hết là áp dụng phương pháp quản lý hiện đại đã
được doanh nghiệp của nhiều nước áp dụng thành công như phương pháp quản
lý theo tình huống, quản lý theo tiếp cận quá trình và tiếp cận hệ thống. Bản
thân doanh nghiệp phải tự tìm kiếm và đào tạo cán bộ quản lý cho chính mình,
phải thiết lập được cơ cấu tổ chức đủ độ linh hoạt, thích nghi cao với sự thay
đổi.
- Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng vì nó đảm bảo nguồn sáng tạo
trong mọi tổ chức. Trình độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm có chất
lượng tốt, thể hiện trong kết cấu kỹ thuật của sản phẩm, mẫu mã, chất lượng ...
và từ đó uy tín, danh tiếng của sản phẩm sẽ ngày càng tăng, nhiều sản phẩm mới
của doanh nghiệp sẽ được mở rộng ra thị trường, tạo được vị trí vững chắc của
doanh nghiệp trên thương trường và trong lòng công chúng, hướng tới sự phát
triển bền vững.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Bên cạnh nguồn nhân lực, vốn là một nguồn lực liên quan trực tiếp tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh
tranh cao là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được
vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý, có kế

hoạch sử dụng vốn hiệu quả để phát triển lợi nhuận và phải hạch toán các chi
phí rõ ràng để xác định được hiệu quả chính xác.
- Khả năng liên kết và hợp tác với doanh nghiệp khác và hội nhập kinh tế
quốc tế

[Type text]

Page 14


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
Một doanh nghiệp tồn tại trong mối liên hệ nhiều chiều với các đối tượng
hữu quan trong môi trường kinh doanh. Trong kinh doanh thường xuất hiện nhu
cầu liên kết và hợp tác giữa nhiều đối tác với nhau làm tăng khả năng cạnh
tranh. Khả năng liên kết và hợp tác của doanh nghiệp thể hiện ở việc nhận biết
các cơ hội kinh doanh mới, lựa chọn đúng đối tác liên minh và khả năng vận
hành liên minh một cách có kết quả và đạt hiệu quả cao, đạt được các mục tiêu
đặt ra.
- Trình độ thiết bị, công nghệ và sự cải tiến sản phẩm, tạo ra sản phẩm mới
Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp cùng với nguồn
nhân lực dồi dào, trình độ cao giúp rút ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu
hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản
phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm của
doanh nghiệp.
- Trình độ năng lực marketing
Năng lực marketing của doanh nghiệp là khả năng nắm bắt nhu cầu thị
trường. Khả năng marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần

tiêu thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố rất
quan trọng tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
 Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, có thể chia thành 4 nhóm yếu tố:
- Một là, các điều kiện yếu tố đầu vào, gồm 5 phân nhóm: kết cấu hạ tầng
vật chất – kỹ thuật; hạ tầng hành chính, nguồn nhân lực, hạ tầng công nghệ, thị
trường tài chính.
- Hai là, các điều kiện về cầu: sở thích của người mua, tình hình pháp luật
về
tiêu dùng, về công nghệ thông tin…
[Type text]

Page 15


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
- Ba là, các ngành cung ứng và ngành liên quan: chất lượng và số lượng
các nhà cung cấp địa phương, khả năng tại chỗ về nghiên cứu chuyên biệt và
dịch vụ đào tạo, mức độ hợp tác giữa các khu vực kinh tế, khả năng cung cấp tại
chỗ các chi tiết và phụ kiện máy móc.
- Bốn là, bối cảnh đối với chiến lược và cạnh tranh của doanh nghiệp, gồm
hai phân nhóm là động lực và cạnh tranh (các rào cản vô hình, sự cạnh tranh của
các nhà sản xuất địa phương, hiệu quả của việc chống độc quyền).
1.3. VAI TRÒ CỦA NLCT ĐỐI VỚI DNVVN TRONG GIAI ĐOẠN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh tồn tại như một quy luật kinh tế
khách quan và do vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh để cạnh tranh
trên thị

trường luôn được đặt ra đối với các doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh
hội
nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay. Cạnh tranh ngày càng gay gắt khi trên
thị
trường ngày càng xuất hiện nhiều các đối thủ cạnh tranh nước ngoài với
tiềm
lực mạnh về tài chính, công nghệ, quản lý và có sức mạnh thị trường. Nâng
cao
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp là một đòi hỏi cấp bách để doanh
nghiệp
đủ sức cạnh tranh một cách lành mạnh và hợp pháp trên thương trường.
Không những thế, với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện ngay,
việc nâng cao năng lực cạnh tranh ở các doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan
trọng và quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi lẽ suy cho cùng,
mục đích cuối cùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là mang lại
càng nhiều lợi nhuận, khi đó việc nâng cao năng lực cạnh tranh tại doanh nghiệp
được xem như là một chiến lược không thể thiếu trong định hướng phát triển và
[Type text]

Page 16


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
nó góp phần vào việc hoàn thành mục tiêu của doanh nghiệp. Nâng cao năng
lực cạnh tranh không chỉ nhằm mục đích là đem lại lợi ích cho doanh nghiệp,
mà còn góp phần vào sự tăng trưởng của ngành và cả quốc gia.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhận được sự cạnh tranh trong
nước và quốc tế. Họ đặc biệt cần có thông tin về thị trường, người mua, người
bán, giá cả, các quy định thương mại và cách thức buôn bán trên thị trường mục

tiêu. Vậy năng lực cạnh tranh có vai trò như thế nào trong thời kỳ hiện nay đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
hiện nay?
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ nỗ
lực nhằm khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra hình ảnh hay đáp ứng sở thích của
người tiêu dùng, phát triển sản phẩm, thiết kế lại hay sửa lại. Điều này đòi hỏi
phải có chuyên môn cao mà ở những nước đang phát triển thì việc này rất khó.
Thứ hai, hiện nay thị trường quốc tế có nhiều doanh nghiệp của nhiều quốc
gia khác nhau với những đặc điểm và lợi thế riêng đã tạo ra một sức ép cạnh
tranh mạnh mẽ, không cho phép các doanh nghiệp hành động theo ý muốn của
mình mà buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến việc thúc đẩy khả năng cạnh
tranh của mình theo hai xu hướng: Tăng chất lượng của sản phẩm và hạ chi phí
sản xuất, muốn thực hiện được điều này các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xác
định được tầm quan trọng của năng lực cạnh tranh trong tổ chức của mình.
Thứ ba, chính sự tồn tại khách quan và sự ảnh hưởng của cạnh tranh đối
với nền kinh tế nói chung và đến từng doanh nghiệp nói riêng nên việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong
nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, trên thị trường có sự cạnh tranh rất khốc liệt đối với những doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt sẽ thể hiện được khả năng “ bản lĩnh” của
mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho doanh nghiệp càng vững mạnh
và phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh tranh trên thị trường.

[Type text]

Page 17


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế

Thứ năm, năng lực cạnh tranh cao giúp các doanh nghiệp có khả năng hội
nhập với quốc tế, tăng năng suất lao động và sử dụng tốt các nguồn lực của
doanh nghiệp, vượt qua được các khó khăn trong quá trình kinh doanh và sản
xuất. Dựa trên năng lực cạnh tranh, các nhà đầu tư cũng có thể đánh giá và
quyết định đầu tư vào các doanh nghiệp trong thời kì khó khăn như hiện nay.
Tóm lại, kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các
nước phải xóa bỏ rào cản, chấp nhận tự do buôn bán, vì thế mỗi nước phải mở
cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh
tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, năng lực cạnh
tranh có vai trò khá quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá
trình toàn cầu hóa như hiện nay.
1.4. NLCT CỦA DNVVN VỚI THƢỚC ĐO LÀ SẢN PHẨM MỚI VÀ CẢI
TIẾN SẢN PHẨM
Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các DNVVN gặp phải rất
nhiều khó khăn như lao động ít, trình độ còn thấp, nguồn vốn đầu tư hạn hẹp….
Do vậy, các DNVVN cần có giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh của mình so
với các đối thủ khác. Để tăng năng lực canh tranh của mình, các doanh nghiệp
cần khác biệt hóa sản phẩm, cải tiến sản phẩm, và không ngừng sáng tạo tạo ra
sản phẩm mới, hình ảnh mới đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng. Vì những
lý do trên mà chúng tôi quyết định chọn yếu tố doanh nghiệp có sản phẩm mới
hay cải tiến sản phẩm hay không để đánh giá năng lực cạnh tranh của DNVVN.
1.4.1. Sản phẩm mới
Khái niệm sản phẩm theo quan niệm truyền thống: Sản phẩm là tổng hợp
đặc tính vật lý học, hóa học, sinh học...có thể quan sát được, dùng để thỏa mãn
những nhu cầu cụ thể của sản xuất và đời sống.
Khái niệm sản phẩm theo quan niệm của Maketing: Sản phẩm là thứ có
khả năng thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng, cống hiến những lợi
ích cho họ và có thể đưa ra chào bán trên thị trường với khả năng thu hút sự chú

[Type text]


Page 18


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
ý mua sắm và tiêu dùng. Theo đó sản phẩm được cấu thành từ hai yếu tố cơ bản
là: yếu tố vật chất và yếu tố phi vật chất.
Theo quan niệm này, sản phẩm vừa là cái đã có vừa là cái đang và tiếp tục
phát sinh trong trạng thái biến đổi không ngừng của nhu cầu. Ngày nay người
tiêu dùng không chỉ quan tâm đến khía cạnh vật chất mà còn quan tâm đến
nhiều khía cạnh phi vật chất, khía cạnh hữu hình và cả các yếu tố vô hình của
sản phẩm.
Vậy sản phẩm mới là gì? Có phải những sản phẩm các doanh nghiệp đưa
ra thị trường đều được gọi là sản phẩm mới hay không? Nếu doanh nghiệp chỉ
thêm một vài thành phần mới, vài chi tiết mới của sản phẩm thì đấy có phải là
một sản phẩm mới hay không? Hay chỉ những sản phẩm hoàn toàn mới về mặt
quan niệm mới được coi là một sản phẩm mới?
Đứng trên góc độ của các doanh nghiệp để đánh giá, người ta chia sản
phẩm mới thành hai loại: sản phẩm mới tương đối và sản phẩm mới tuyệt đối.
Sản phẩm mới tương đối là sản phẩm đầu tiên doanh nghiệp sản xuất và
đưa ra thị trường, nhưng không mới đối với doanh nghiệp khác và đối với thị
trường. chúng cho phép doanh nghiệp mở rộng dòng sản phẩm cho những cơ
hội kinh doanh mới. Chi phí để phát triển loại sản phẩm này thường thấp, nhưng
khó xác định vị trí của sản phẩm trên thị trường vì người tiêu dùng vẫn có thế
thích sản phẩm của đối thủ cạnh tranh hơn.
Sản phẩm mới tuyệt đối là sản phẩm mới đối với cả doanh nghiệp và đối
với cả thị trường. doanh nghiệp giống như ngươi “tiên phong” đi đầu trong sản
xuất sản phẩm này. Sản phẩm này ra mắt nguời tiêu dùng lần đầu tiên. Đây là
một quá trình tương đối phức tạp và khó khăn (cả trong giai đoạn sản xuất và

bán hàng). Chi phí dành cho nghiên cứu, thiết kế, sản xuất thử và thử nghiệm
trên thị trường thường rất cao. Vậy liệu một sản phẩm có được coi là mới hay
không phụ thuộc vào cách mà thị trường nhận thức về nó. Nếu người tiêu dùng
đánh giá sản phẩm này khác đáng kể so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
về hình thức, chất lượng, mẫu mã thì sản phẩm đó được coi là sản phẩm mới.
[Type text]

Page 19


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
1.4.2. Cải tiến sản phẩm
Sự cải tiến là điều kiện cần thiết và quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao
lợi thế canh tranh và phát triển bền vững. Theo Schrumpter (Xem Rogers
1998:6) có năm loại cải tiến, bao gồm cải tiến sản phẩm mới hoặc thay đổi sản
phẩm cũ; phương pháp sản xuất mới; mở cửa thị trường mới; nguồn lực đầu vào
mới; đổi mới tổ chức. Gần đây Porter and Stern đưa ra khái niệm cải tiến “Sự
cải tiến – là phép biến đổi trí thức trong sản phẩm mới, quy trình mới, và dịch
vụ mới - chứa đựng nhiều hàm lượng công nghệ và khoa học hơn để đáp ứng
nhu cầu đa dạng của khách hàng”.
Cải tiến sản phẩm tức là sử dụng thông tin có được từ việc sử dụng các
công cụ như thiết kế thử nghiệm và đánh giá vòng đời sản phẩm để tiến hành sự
điều chỉnh sản phẩm. Sự điều chỉnh này sẽ cải tiến năng suất, chất lượng sản
phẩm giúp cho sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường.
Những sản phẩm cải tiến thường khai thác các đặc điểm hay công nghệ
hiện đại để phục vụ một mục đích khác. Theo nghĩa này, cải tiến sản phẩm chỉ
đại diện cho hình thức đổi mới không triệt để.
So với các sản phẩm đột phá, cải tiến sản phẩm mất ít thời gian và chi phí
để phát triển hơn, vì phần cốt lõi của sản phẩm vẫn giữ nguyên, chỉ một vài tính

năng được thay đổi để cải thiện hiệu suất hoặc làm cho sản phẩm có sức thu hút
hơn với khách hàng.
1.4.3. Các yếu tố tác động đến việc tạo sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm
1.4.3.1. Nhóm quản lý doanh nghiệp
Nhóm quản lý doanh nghiệp gồm có tuổi chủ doanh nghiệp, trình độ chủ
doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp có trình độ càng cao, độ tuổi cao thì sẽ có nhiều kinh
nghiệm trong việc quản lý doanh nghiệp, đưa ra các chiến lược sản phẩm phù
hợp với tình trạng doanh nghiệp cũng như trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế
toàn cầu. Người quản lý giữ vai trò quan trọng trong việc doanh nghiệp phát
triển hay đi xuống, mỗi quyết định của họ cần phải chính xác, đúng thời điểm.
[Type text]

Page 20


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
Chủ doanh nghiệp có kinh nghiệm quản lý sẽ biết khi nào đưa ra sản phẩm mới
hay cải tiến sản phẩm để phát triển doanh nghiệp.
1.4.3.2. Tình trạng doanh nghiệp
Tình trạng doanh nghiệp gồm có hình thức sở hữu, ngành sản xuất chính,
loại máy móc đang sử dụng, mức tăng sản lượng số lượng khách hàng, doanh
nghiệp có hàng tồn kho hay không và xuất khẩu.
Hình thức sở hữu là loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp hộ gia đình,
doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty TNHH,…..
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế.
Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ
mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm
bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy

mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước
nâng cao mức sống nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại
hiệu quả đột biến. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho
nhập khẩu và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích
các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và
tăng thu ngoại tệ.
Để đưa ra sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm doanh nghiệp cần nắm rõ tình
trạng của mình. Thời gian dự trữ hàng hóa càng lâu chứng tỏ hàng hóa càng lâu
thì hàng hóa dễ bị lỗi thời, không đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Việc xuất
khẩu cũng tạo động lực cho các doanh nghiệp ưu việt hóa sản phẩm để đáp ứng
được nhu cầu người tiêu dùng quốc tế. Máy móc sử dụng ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình sản xuất sản phẩm. Nếu như doanh nghiệp có lượng hàng tồn kho
càng lớn có thể cho rằng sản phẩm của doanh nghiệp chưa làm hài lòng người
tiêu dùng. Mức sản lượng thấp cũng cho thấy doanh nghiệp kinh doanh không
có hiệu quả. Vì vậy doanh nghiệp cần cải tiến lại sản phẩm, sáng tạo ra những
sản phẩm mới.

[Type text]

Page 21


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
1.4.3.3. Môi trường doanh nghiệp
Theo Luật Quảng cáo năm 2012 định nghĩa về quảng cáo: “Quảng cáo là
việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi hay sản phẩm, dịch vụ không có mục đích
sinh lợi. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ, hàng hóa, sản phẩm được giới
thiệu, trừ tin thời sự. Chính sách xã hội. Thông tin cá nhân.

Quảng cáo sản phẩm nhằm mục đích giới thiệu hàng hóa, dịch vụ của các
doanh nghiệp nhằm tăng thêm hiểu biết của người tiêu dùng đối với sản phẩm.
từ đó kích thích sức mua của người tiêu dùng, đẩy mạnh hoạt động sản xuất,
bán hàng và các dịch vụ. Quảng cáo giúp tăng cường nhận thức của người tiêu
dùng về sản phẩm, giúp họ có có lựa chọn được sản phẩm thích hợp và đây
cũng là cách mà các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm của mình.
Quy trình sản xuất mới là việc thay đổi ít nhất một khâu sản xuất hay việc
áp dụng công nghệ cao để sản xuất làm rút ngắn các khâu sản xuất mà vẫn bảo
đảm chất lượng sản phẩm. Quy trình mới cũng giúp cho các doanh nghiệp tăng
năng suất lao động, cải tiến được chất lượng sản phẩm nhằm giúp sản phẩm có
sức cạnh tranh hơn trên thị trường.
Dự kiến phát triển là kế hoạch, mục tiêu, chiến lược mà doanh nghiệp vạch
ra nhằm giúp phát triển doanh nghiệp, có những ý tưởng rõ ràng nhằm đưa sản
phẩm của mình tới người tiêu dùng. Khi có dự kiến phát triển thì các doanh
nghiệp sẽ cố gắng để thực hiện được nó tạo thêm động lực cho các doanh
nghiệp trong việc cạnh tranh trên thị trường.
Quảng cáo là điều không thể thiếu ở bất kỳ doanh nghiệp nào. Đây là một
chiến lược maketing tốt, các doanh nghiệp có thể cung cấp thông tin của sản
phẩm đến đông đảo người tiêu dùng. Để có được sản phẩm mới hay cải tiến sản
phẩm một cách tốt hơn thì không thể thiếu quy trình sản xuất. Nếu có được một
quy trình sản xuất mới phù hợp thì sản phẩm của doanh nghiệp cũng được thiện
cách rõ ràng. Và cuối cùng là phải vạch ra kế hoạch phát triển cách chi tiết
nhằm có những bước đi phù hợp.
[Type text]

Page 22


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế

Tóm lại, để có thể cạnh tranh thì các doanh nghiệp cần có chiến lược cải
tiến sản phẩm, sáng tạo ra những sản phẩm mới vượt trội hơn so với đối thủ của
mình luôn luôn thay đổi sản phẩm sao cho phù hợp với từng thời kỳ, từng đối
tượng tiêu dùng.

[Type text]

Page 23


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế

2CHƢƠNG 2:
THỰC TRẠNG NLCT CỦA CÁC DNVVN Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2011.
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM
2.1.1. Các DNVVN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
- So với các doanh nghiệp lớn, DNVVN có những lợi thế cơ động, linh
hoạt, dễ dàng chuyển hướng sản xuất kinh doanh, nhạy bén với những sự thay
đổi của thị trường, sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh vực thử nghiệm đổi mới công
nghệ. Bên cạnh đó, số lượng các DNVVN của Việt Nam là rất lớn, vì vậy
DNVVN có vai trò quan trọng đối với kinh tế xã hội của đất nước. Một trong số
những vai trò quan trọng của DNVVN là:
 Đóng góp lớn vào kết quả hoạt động nền kinh tế
Bình quân trong giai đoạn 2002 đến 2006, số DN dân doanh tăng gần
22%/năm, số vốn tăng trên 45%/năm. Năm 2006, cả nước có khoảng 245 nghìn
DNVVN hoạt động trong các ngành (trong đó trên 240 nghìn doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước).
Năm 2007 con số này là khoảng 310 nghìn doanh nghiệp, năm 2008 là

khoảng 335 nghìn doanh nghiệp chiếm khoảng 95% tổng số doanh nghiệp trong
cả nước, gần 3 triệu hộ kinh doanh cá thể và gần 20.000 hợp tác xã. Số lượng
DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp thường chiếm 29-30% tổng số chung
(tương đương khoảng 106 nghìn doanh nghiệp).
Sự phát triển của các DNVVN có sự khác nhau giữa các vùng. Nếu xét
theo số lượng thì số các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở các vùng
chênh lệch nhau tương đối lớn, tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ và
Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng bình quân thì “các vùng
đều có sự phát triển số lượng doanh nghiệp”. Theo đó, tốc độ phát triển bình
quân giai đoạn 2003-2007 của các vùng như sau: Vùng Đồng bằng Bắc Bộ: tăng
4,5%; Vùng Đông Bắc: 5,5%; Vùng Tây Bắc: 2,6%; vùng Bắc Trung Bộ: 5,8%;
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: 4,9%; vùng Đông Nam Bộ: trên 6,5%; vùng
[Type text]

Page 24


Đề tài: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với phép thử từ cuộc khủng hoảng kinh tế
Tây Nam Bộ: 3,5 %. (theo Cục Công Nghiệp địa phương thuộc Bộ Công
Thương)
Trong nhiều ngành sản xuất, các doanh nghiệp dân doanh công nghiệp
đang giữ vị trí khá quan trọng, ví dụ như: Trong ngành sản xuất, phân phối điện,
nước, khí đốt, doanh nghiệp dân doanh chiếm trên 61%; Khai thác mỏ là trên
83%; Công nghiệp chế biến trên 86%; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy,
đồ dùng 93%; Sản xuất giấy 88%.
Các DNVVN đóng góp hơn 40% GDP, chiếm tỷ trọng 29% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp hơn 15% tổng thu ngân sách Nhà nước,
78% mức bán lẻ, 33% giá trị sản lượng công nghiệp.
 Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp

Với tốc độ tăng dân số hiện nay so với tốc độ tăng của nền kinh tế thì tỷ lệ
người thất nghiệp sẽ gia tăng, do đó ngoài các chính sách làm giảm tốc độ tăng
dân số cần phải kết hợp với tăng nhanh số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ để
giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho người lao động.
Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các phương pháp tiết
kiệm vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết thất nghiệp
hiệu quả nhất.
Thứ nhất, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại
này thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng
địa lý và nhiều đối tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu, vùng xa, vùng
chưa phát triển kinh tế, với các đối tượng lao động có trình độ tay nghề thấp.
Nhờ vậy chúng ta vừa giải quyết thất nghiệp vừa góp phần giảm số người
chuyển về thành phố tìm việc làm.
Thứ hai, do tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với các thay đổi của
thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp có biến động
xảy ra, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không phải vì cấp quản
lý bất tài mà bởi vì doanh nghiệp lớn thì khó xoay trở nhanh. Họ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong hoạt động, sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động để cắt giảm
[Type text]

Page 25


×