TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG CÁN BỘ TÒA ÁN
CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO THẨM PHÁN
PHẦN KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT
VỤ VIỆC DÂN SỰ
(Tập bài giảng cho Khóa 1)
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN - 2014
2
TẬP THỂ TÁC GIẢ
3
1. Ths. Tống Anh Hào
- Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Bài 14, Bài 15
2. Tưởng Duy Lượng
- Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Bài 3, Bài 18
3. TS. Nguyễn Văn Cường
- Phó Viện trưởng Viện Khoa học xét xử,
Tòa án nhân dân tối cao
Bài 13
4. Ths. Nguyễn Thanh Mận
- Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Tòa án
Bài 4, Bài 6,
Bài 9, Bài 19
5. Ths. Nguyễn Văn Vụ
- Phó Chánh tòa Tòa Dân sự,
Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
Bài 1, Bài 2, Bài 5
Bài 7, Bài 12
6. Hoàng Văn Liên
- Chánh tòa Tòa Dân sự,
Tòa án nhân dân tối cao
Bài 20
7. Vũ Mạnh Hùng
- Phó Chánh tòa Tòa Dân sự,
Tòa án nhân dân tối cao
Bài 16
8. Phạm Thanh Bình
- Phó Chánh tòa Tòa Dân sự,
Tòa án nhân dân tối cao
Bài 17
9. Hà Thị Xuyến
- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Bài 8, Bài 10, Bài 11
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
4
VIẾT ĐẦY ĐỦ
VIẾT TẮT
1
Bộ luật Dân sự
BLDS
2
Bộ luật Tố tụng dân sự
BLTTDS
3
Tòa án nhân dân
TAND
4
Tòa án nhân dân tối cao
TAND tối cao
5
Ủy ban nhân dân
UBND
6
Biện pháp khẩn cấp tạm thời
BPKCTT
PHẦN I: KỸ NĂNG CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
VỤ VIỆC DÂN SỰ
-------------BÀI 1:
KỸ NĂNG THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
Trong những năm qua cùng với những thành tựu đạt được của
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì trong
xã hội cũng nảy sinh nhiều quan hệ xã hội phức tạp nhất là trong
lĩnh vực kinh tế, dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, đòi hỏi
phải có cơ chế xử lý bằng việc xét xử của Tòa án. Để việc xét xử
được khách quan, toàn diện và đúng quy định của pháp luật thì
người Thẩm phán không những phải nắm vững các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự mà còn phải có kỹ năng, phương pháp và
kinh nghiệm trong việc thụ lý và xây dựng hồ sơ vụ án dân sự.
1. Khái niệm, ý nghĩa thụ lý vụ án dân sự
Thụ lý vụ án dân sự; hôn nhân và gia đình; kinh doanh thương mại; lao động (sau đây viết tắt là vụ án dân sự) là hành vi tố
tụng đầu tiên của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Tòa án tiếp nhận, kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ
kèm theo của người khởi kiện theo quy định của pháp luật. Sau khi
kiểm tra các điều kiện khởi kiện, trường hợp đủ điều kiện khởi kiện
và người khởi kiện đã nộp tiền tạm ứng án phí, nộp biên lai tạm
ứng án phí theo thông báo của Tòa án thì Tòa án thụ lý vụ án bằng
việc vào sổ thụ lý vụ án dân sự. Kể từ thời điểm tòa án thụ lý vụ án,
quyền và nghĩa vụ tố tụng của tòa án cũng như những người tham
gia tố tụng phát sinh.
Như vậy, thụ lý vụ án dân sự là việc Tòa án tiếp nhận đơn
khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định điều kiện thụ
lý và vào sổ thụ lý giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Thụ lý vụ án dân sự là căn cứ để xác định thời
hạn tố tụng dân sự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây viết tắt là BLTTDS).
5
Thụ lý vụ án dân sự đúng có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm được
quyền tiếp cận công lý của các chủ thể pháp luật khi có tranh chấp
dân sự, đồng thời tránh được việc phải giải quyết hậu quả của việc
thụ lý vụ án không đúng dẫn đến tốn kém về công sức, tiền của cho
đương sự. Mặt khác, nó còn có ý nghĩa trong việc khẳng định Tòa án
đã đầu tư nhiều thời gian, công sức và trí tuệ cho hoạt động này.
Thụ lý vụ án dân sự được tiến hành theo những trình tự, thủ
tục nhất định do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Trình tự, thủ tục
này có ý nghĩa cho việc chuẩn bị tiến hành giải quyết vụ án dân sự
trong quá trình tố tụng đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Để
thực hiện tốt hoạt động thụ lý vụ án dân sự, tạo tiền đề giải quyết
vụ án đúng pháp luật, nhanh chóng và hiệu quả, Tòa án phải nắm
vững các kỹ năng cơ bản. Các kỹ năng này bao gồm từ việc tiếp
nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo; kiểm tra
đơn khởi kiện và tính đầy đủ, hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ
kèm theo; yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, bổ sung tài liệu,
chứng cứ; kiểm tra các điều kiện để thụ lý vụ án; trả lại đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo; chuyển đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ kèm theo; vào sổ thụ lý vụ án dân sự.
2. Kỹ năng tiếp nhận đơn khởi kiện và các tài liệu chứng
cứ kèm theo đơn khởi kiện
Theo quy định tại Điều 166 BLTTDS, đơn khởi kiện và các
tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn có thể gửi đến Tòa án bằng hai
cách. Người khởi kiện có thể nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi đến
Tòa án bằng đường bưu điện. Kỹ năng tiếp nhận đơn khởi kiện và
các tài liệu, chứng cứ kèm theo trong hai trường hợp có những
điểm giống và khác nhau.
2.1. Kỹ năng tiếp nhận đơn khởi kiện
- Trường hợp đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại Tòa án thì
Tòa án có trách nhiệm tiếp nhận, Tòa án nhận đơn và ghi ngày,
tháng, năm người khởi kiện nộp đơn vào Sổ nhận đơn. Ngày khởi
kiện được xác định là ngày nộp đơn khởi kiện. Việc vào sổ nhận
đơn và phải ghi cụ thể ngày tháng năm nhận đơn khởi kiện có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong thụ lý, giải quyết vụ án dân sự, bởi
lẽ đó là căn cứ xác định ngày khởi kiện và xác định thời hạn thực
6
hiện các hành vi tố tụng tiếp theo, đồng thời còn là căn cứ để xác
định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Sau khi nhận đơn khởi kiện
và vào Sổ nhận đơn xong thì thủ tục tiếp theo là tòa án phải cấp
giấy báo nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện (theo mẫu số 02
ban hành kèm theo Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012
của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp
sơ thẩm” của BLTTDS (sau đây viết tắt là Nghị quyết 05/2012/NQHĐTP)). Trong giấy báo nhận đơn khởi kiện phải ghi rõ ngày,
tháng, năm nhận đơn; Tòa án nhận đơn; người nộp đơn; các giấy tờ,
tài liệu kèm theo đơn. Các nội dung này phải được ghi vào Sổ nhận
đơn. Giấy báo nhận đơn khởi kiện là căn cứ để chứng minh người
khởi kiện đã nộp đơn khởi kiện tại thời điểm được ghi trong giấy.
- Trường hợp đơn khởi kiện được gửi đến Tòa án bằng đường
bưu điện, thì khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án cũng phải ghi ngày,
tháng, năm nhận đơn do bưu điện chuyển đến và ngày, tháng, năm
đương sự gửi đơn theo ngày, tháng, năm có dấu bưu điện nơi gửi
đơn vào Sổ nhận đơn. Ngày khởi kiện được xác định là ngày có dấu
bưu điện nơi gửi, trường hợp không xác định được ngày, tháng,
năm theo dấu bưu điện trên phong bì thì ngày khởi kiện được xác
định là ngày Tòa án nhận được đơn do bưu điện chuyển đến.
Vì vậy, khi vào Sổ nhận đơn, ngoài việc ghi những nội dung
như đối với trường hợp nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án
thì cán bộ nhận đơn còn phải ghi thêm ngày khởi kiện theo ngày có
dấu bưu điện nơi gửi. Một điểm cần lưu ý là phong bì có dấu bưu
điện phải được đính kèm theo đơn khởi kiện. Trường hợp không
xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện trên phong bì,
thì Tòa án phải ghi chú trong sổ nhận đơn là “không xác định được
ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện”. Theo quy định của pháp luật
tố tụng, để bảo đảm quyền của người khởi kiện cũng như thực hiện
nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động thụ lý, giải quyết
vụ án dân sự, Toà án cũng phải gửi giấy báo nhận đơn khởi kiện
cho người khởi kiện (Điều 7 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP).
Đối với cả hai trường hợp nhận đơn trực tiếp tại Tòa án và
bằng đường bưu điện thì ngoài việc vào Sổ nhận đơn, cấp (hoặc
gửi) giấy báo nhận đơn khởi kiện Tòa án đều phải ghi hoặc đóng
7
dấu nhận đơn có ghi ngày, tháng, năm nhận đơn vào góc trái của
đơn khởi kiện. Quy trình, thủ tục nhận đơn khởi kiện được hướng
dẫn cụ thể tại Điều 7 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP.
2.2. Kỹ năng tiếp nhận các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo
đơn khởi kiện
Để chứng minh cho những yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và
hợp pháp làm căn cứ để Tòa án thụ lý vụ án, người khởi kiện phải
nộp kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ cần thiết theo
quy định tại Khoản 3 Điều 164, Điều 165 BLTTDS. Vì vậy, cùng
với việc tiếp nhận đơn khởi kiện, Tòa án đồng thời thực hiện việc
tiếp nhận tài liệu, chứng cứ kèm theo. Tài liệu, chứng cứ kèm theo
đơn khởi kiện cần được đánh số và lập danh mục chi tiết.
Kỹ năng thực hiện việc tiếp nhận các tài liệu, chứng cứ kèm
theo đơn khởi kiện cần lưu ý là có điểm khác với kỹ năng tiếp nhận
đơn khởi kiện, đó là thủ tục nhận tài liệu, chứng cứ kèm đơn khởi
kiện phải được lập thành văn bản, cụ thể là biên bản về việc giao
nhận tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 84
BLTTDS. Nội dung của biên bản nên lập danh mục tài liệu, chứng
cứ theo thời gian và miêu tả đầy đủ, chi tiết về tài liệu, chứng cứ.
Vì vậy, trong nội dung biên bản giao nhận chứng cứ phải ghi rõ tên
gọi của chứng cứ (ví dụ: hợp đồng mua bán nhà, giấy biên nhận
tiền, hóa đơn giá trị gia tăng, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất...); hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ (ví dụ: tên gọi,
số hoặc ngày tháng của tài liệu, bản sao, bản dịch, băng ghi âm, ghi
hình...); số bản, số trang của tài liệu, chứng cứ và thời gian nhận...
Mẫu biên bản giao nhận chứng cứ theo mẫu số 01 ban hành kèm
theo Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội
đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTDS về chứng minh và chứng cứ (sau đây viết tắt là Nghị
quyết số 04/2012/NQ-HĐTP). Biên bản này phải có chữ ký hoặc
điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Toà
án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ án dân
sự và một bản giao cho người giao nộp tài liệu, chứng cứ giữ.
Theo hướng dẫn tại Điều 4 của Nghị quyết số 04/2012/NQHĐTP thì trường hợp người khởi kiện nộp trực tiếp tài liệu, chứng
8
cứ kèm theo đơn khởi kiện tại Tòa án thì cũng phải vào sổ nhận
đơn. Trường hợp người khởi kiện gửi tài liệu, chứng cứ kèm đơn
khởi kiện qua bưu điện ngoài việc phải ghi vào sổ nhận đơn, phải
đối chiếu tài liệu, chứng cứ theo danh mục tài liệu, chứng cứ gửi
kèm theo đơn khởi kiện hoặc ghi trong đơn khởi kiện. Nếu thấy tài
liệu, chứng cứ nào còn thiếu hoặc không đầy đủ so với danh mục
thì phải thông báo bằng văn bản ngay cho người khởi kiện biết để
họ giao nộp bổ sung.
Pháp luật tố tụng dân sự không có quy định không cho phép
ủy quyền nộp đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo nên
người nộp có thể là người có quyền khởi kiện hoặc người được ủy
quyền của người có quyền khởi kiện.
3. Kỹ năng kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng
cứ kèm theo
Kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo
nhằm mục đích xác định các điều kiện để thụ lý vụ án dân sự, nên
đây là một kỹ năng rất quan trọng. Do đó, hoạt động này chỉ có thể
phân công Thẩm phán thực hiện. Chính vì thế Khoản 3 Điều 7 Nghị
quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn cụ thể về việc phân công
người xem xét, kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ
kèm theo.
3.1. Kỹ năng kiểm tra đơn khởi kiện
Sau khi vào sổ nhận đơn, Tòa án phải xem xét, kiểm tra đơn
khởi kiện, cụ thể là kiểm tra hình thức và nội dung đơn khởi kiện.
Khi kiểm tra đơn khởi kiện ngoài các quy định của BLTTDS,
hướng dẫn của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP còn cần lưu ý
Công văn số 38/KHXX ngày 29/3/2007 của TAND tối cao hướng
dẫn việc pháp nhân khởi kiện và ủy quyền khởi kiện vụ án dân sự.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đơn khởi kiện
phải có hình thức và nội dung phù hợp.
Về hình thức, đơn khởi kiện phải được thực hiện theo đúng
mẫu đơn khởi kiện số 01 được ban hành kèm theo Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP và ghi đầy đủ các nội dung được quy định tại
Điều 164 BLTTDS và hướng dẫn của Nghị quyết số 05/2012/NQHĐ. Mẫu đơn khởi kiện và hướng dẫn sử dụng mẫu đơn các Tòa án
9
phải niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án. Người khởi kiện là cá
nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp khởi kiện để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp
luật của những người này ký tên hoặc điểm chỉ. Người khởi kiện là
cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải
ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn. Ngoài ra cần lưu ý nội dung
hướng dẫn tại Công văn 38/KHXX trong trường hợp người khởi
kiện là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân có thể có các đơn vị
phụ thuộc như chi nhánh hoặc văn phòng đại diện thì tranh chấp
phát sinh từ các giao dịch do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập,
thực hiện mà người đứng đầu chi nhánh hoặc văn phòng đại diện
(Giám đốc chi nhánh hoặc trưởng văn phòng đại diện) được ủy
quyền khởi kiện thì tại phần cuối đơn có thể đóng dấu của chi
nhánh, văn phòng đại diện.
Ngoài ra Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS còn
quy định bổ sung đối với trường hợp người khởi kiện không biết
chữ, không nhìn được, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì
phải có người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt
người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã
chứng nhận trước mặt người khởi kiện và người làm chứng. Đây là
một bổ sung quan trọng, xuất phát từ thực tiễn giải quyết vụ việc
dân sự, bảo đảm quyền khởi kiện của người không biết chữ, không
nhìn được và không thể tự ký tên hoặc điểm chỉ.
Về nội dung, đơn khởi kiện phải có các nội dung sau: Ngày,
tháng, năm làm đơn khởi kiện; tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; tên,
địa chỉ của người khởi kiện; tên, địa chỉ của người có quyền và lợi
ích được bảo vệ, nếu có; tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có); những vấn đề
cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan; họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có).
Kiểm tra nội dung đơn khởi kiện, ngoài việc kiểm tra đầy đủ
các nội dung, Thẩm phán cần kiểm tra kỹ các nội dung cụ thể sau:
10
- Về nội dung tên, địa chỉ của người khởi kiện: Quyền khởi
kiện vụ án dân sự có thể do chủ thể tranh chấp tự mình thực hiện
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp. Cá nhân có đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc
giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình thì họ là người khởi
kiện. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn khởi kiện
phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Cá nhân là người chưa
thành niên (trừ trường hợp nêu trên), người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện
theo pháp luật của họ là người khởi kiện. Tại mục tên, địa chỉ của
người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của người đại
diện theo pháp luật của cá nhân đó. Xác định cá nhân bị mất năng
lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải bằng
quyết định có hiệu lực của Tòa án. Đối với cơ quan, tổ chức khởi
kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức làm đơn khởi
kiện nên tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ
của cơ quan, tổ chức và họ tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp
của cơ quan, tổ chức. Người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức
là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền.
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong điều lệ
của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích nhà nước là các cơ quan nhà nước, tổ chức theo
quy định tại Điều 162 BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP. Đó là các cơ quan, tổ chức: Cơ quan về dân
số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ; Công đoàn cấp trên
của công đoàn cơ sở; Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh
vực mình phụ trách (Cơ quan Tài nguyên và Môi trường; Cơ quan
Văn hoá - Thông tin...). Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện
phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ tên, chức vụ của
người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó.
11
- Về nội dung tên, địa chỉ của người bị kiện; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan: Đơn khởi kiện phải ghi đầy đủ, cụ thể tên,
địa chỉ của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thẩm phán cần phải đặc biệt chú ý kiểm tra địa chỉ của người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xác định chính xác
địa chỉ của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi ở giai đoạn thụ lý vụ án là việc xác
định có đủ điều kiện khởi kiện hay không và xác định thẩm quyền
thụ lý vụ án theo lãnh thổ, theo cấp tòa án, bảo đảm cho Tòa án
thực hiện đúng các thủ tục tố tụng như thông báo cho họ biết việc
khởi kiện của nguyên đơn để họ được quyền tham gia tố tụng, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng như khai báo, cung cấp chứng
cứ trước tòa án, đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; đảm bảo
việc giải quyết vụ án được chính xác, đúng đắn.
Thẩm phán cần phải có kỹ năng và phương pháp mới xác
định được chính xác địa chỉ của người bị kiện; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Theo đó, địa chỉ của người bị kiện; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là nơi cư trú, làm việc của người đó
(nếu người bị kiện là cá nhân) hoặc nơi có trụ sở (nếu người bị
kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức).
Nếu không xác định được nơi cư trú, làm việc, trụ sở của người bị
kiện và người khởi kiện lựa chọn Tòa án theo quy định tại điểm a,
khoản 1 Điều 36 BLTTDS thì địa chỉ của người bị kiện; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là nơi cư trú, làm việc cuối cùng, nơi
có trụ sở cuối cùng. Nơi cư trú của cá nhân được xác định theo
nguyên tắc được quy định tại Điều 52 BLDS 2005 và Điều 12 Luật
Cư trú là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không
xác định được nơi cư trú của cá nhân là nơi thường xuyên sinh sống
thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống. Nơi cư trú của công
dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Nơi cư trú của người chưa
thành niên; nơi cư trú của người được giám hộ; nơi cư trú của vợ,
chồng; nơi cư trú của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và Công
an nhân dân, nơi cư trú của người làm nghề lưu động được xác định
theo quy định tại Điều 53, 54, 55, 56, 57 BLDS 2005 và Điều 13,
14,15,16, 17 Luật Cư trú.
12
Thẩm phán cần yêu cầu người khởi kiện cung cấp xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền về địa chỉ của người bị kiện; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Về vấn đề này mặc dù BLTTDS
không quy định, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP cũng không có
hướng dẫn người khởi kiện phải xuất trình thêm văn bản xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền về địa chỉ của người bị kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng ở góc độ thực tiễn cũng như kỹ
năng nghề nghiệp điều đó là cần thiết để tránh tình trạng sau khi thụ
lý vụ án, đương sự cũng như Tòa án đã phải bỏ nhiều công sức,
thời gian và chi phí nhưng sau đó Tòa án lại phải ra quyết định đình
chỉ việc giải quyết vụ án.
Đối với trường hợp xác định được địa chỉ của người bị kiện;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi khởi kiện nhưng họ không
có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không
thông báo địa chỉ mới cho người khởi kiện nhằm mục đích giấu địa
chỉ, trốn tránh nghĩa vụ thì cần xác định đây là trường hợp cố tình giấu
địa chỉ, không thuộc vào trường hợp không xác định được địa chỉ của
người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Đối với nội dung “những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải
quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Khi kiểm tra nội dung này ngoài việc xem xét nội dung tranh
chấp người khởi kiện trình bày thì cần lưu ý đối với yêu cầu của
người khởi kiện. Yêu cầu của người khởi kiện trong đơn khởi kiện
phải là yêu cầu về nội dung, không phải là yêu cầu về tố tụng. Có
trường hợp người khởi kiện yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong đơn khởi kiện như yêu cầu kê biên tài sản tranh
chấp. Yêu cầu này là yêu cầu về tố tụng. Mặc dù theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự người khởi kiện có quyền nộp đơn yêu cầu
Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện nhưng thủ tục yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được thực hiện độc
lập theo quy định tại Điều 117 BLTTDS.
Yêu cầu của người khởi kiện phải cụ thể, rõ ràng. Điều này có
ý nghĩa trong việc xác định tiền tạm ứng án phí người khởi kiện
phải nộp. Tránh tình trạng kiểm tra không kỹ nên thụ lý vụ án khi
13
yêu cầu của người khởi kiện trong đơn khởi kiện chỉ nêu chung
chung như yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật
hoặc chỉ trình bày nội dung tranh chấp mà không yêu cầu Tòa án
giải quyết cụ thể yêu cầu như thế nào. Điều này rất quan trọng bởi
lẽ là cơ sở để Tòa án xác định ban đầu quan hệ pháp luật phát sinh
tranh chấp và có mối quan hệ mật thiết với các tài liệu, chứng cứ
mà người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện mà Tòa án
phải kiểm tra.
3.2. Kiểm tra các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện
Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo là điều kiện về
thủ tục của việc khởi kiện. Chính vì vậy, sau khi kiểm tra đơn khởi
kiện, Thẩm phán phải kiểm tra các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn.
Về phương diện kỹ năng nghiệp vụ, Thẩm phán phải đối chiếu các
tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện với nội dung và hình thức
đơn khởi kiện để xác định tính đầy đủ và tính hợp pháp của các tài
liệu, chứng cứ.
3.2.1. Kiểm tra tính đầy đủ của tài liệu, chứng cứ
Xác định những giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn khởi kiện phù
hợp với nội dung tranh chấp, yêu cầu khởi kiện và người khởi kiện
là cá nhân hay cơ quan, tổ chức là một kỹ năng rất quan trọng của
Thẩm phán. Thẩm phán phải nghiên cứu từ đơn khởi kiện để xác
định các giấy tờ, tài liệu cần thiết làm cơ sở cho việc thụ lý vụ án.
Thông thường các tài liệu, chứng cứ bao gồm các nhóm sau:
- Các giấy tờ, tài liệu nhằm xác định tư cách pháp lý của
người khởi kiện và ký đơn khởi kiện. Các giấy tờ tài liệu này đối với
trường hợp cá nhân khởi kiện và cơ quan, tổ chức khởi kiện là khác
nhau. Cá nhân khởi kiện thì thường là chứng minh thư nhân dân,
giấy khai sinh, sổ hộ khẩu gia đình. Nếu là cơ quan, tổ chức thì
thường là quyết định thành lập cơ quan, giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp; Quyết định bổ
nhiệm hoặc biên bản bầu người đại diện theo pháp luật…, văn bản
ủy quyền (nếu có).
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh giữa các bên xác lập quan
hệ pháp luật dẫn đến tranh chấp: giấy chứng nhận kết hôn, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài
14
sản, giấy chứng tử; hợp đồng, phụ lục hợp đồng, hóa đơn, chứng
cứ, giấy biên nhận tiền, thanh lý hợp đồng…
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh quá trình thực hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật phát sinh tranh
chấp như giấy biên nhận tiền, giấy tờ về giao hàng phiếu thu, hóa
đơn, văn bản đối chiếu công nợ, biên bản xác định thiệt hại…
- Các giấy tờ, tài liệu về thủ tục tiền tố tụng như biên bản hòa
giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai, văn bản xác định hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ theo quy định của pháp luật
trách nhiệm bồi thường Nhà nước… Các giấy tờ, tài liệu này chỉ áp
dụng đối với một số tranh chấp như tranh chấp đất đai, tranh chấp về
bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ của nhà nước gây ra…
Cần lưu ý, ở thời điểm này người khởi kiện chỉ phải nộp các
tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có
căn cứ và hợp pháp chứ không phải yêu cầu đương sự phải nộp đủ
ngay các tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Do vậy, Thẩm phán
được phân công xem xét việc thụ lý vụ án cần phân biệt sự khác
nhau giữa yêu cầu người khởi kiện phải nộp đủ tài liệu, chứng cứ
kèm theo để giải quyết vụ án với yêu cầu nộp đủ tài liệu, chứng cứ
để thụ lý vụ án để tránh gây phiền hà cho đương sự. Từ đó cần xác
định tính đầy đủ của tài liệu, chứng cứ phải đặt trong bối cảnh đủ
để thụ lý vụ án vì quá trình giải quyết vụ án đòi hỏi các chứng cứ
được thu thập ở những thời điểm khác nhau, từ nhiều nguồn khác
nhau theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
3.2.2. Kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ
Đủ tài liệu, chứng cứ mới là điều kiện “cần” để Tòa án thụ lý
vụ án thì các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện phải
hợp pháp. Khi kiểm tra để xác định tính hợp pháp của tài liệu,
chứng cứ mà người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện Thẩm
phán cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Các tài liệu đọc được nội dung được coi là hợp pháp nếu là
bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc
do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Nếu người
khởi kiện chỉ có một bản duy nhất thì trong thực tế về mặt kỹ năng
Thẩm phán có thể sử dụng bản sao và ghi rõ đã đối chiếu với bản
15
chính thì cũng được coi là hợp pháp. Giấy tờ, tài liệu do cơ quan có
thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận theo quy định của
pháp luật nước ngoài hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam được xác
định là hợp pháp nếu giấy tờ, tài liệu đó đã được hợp pháp hoá lãnh
sự, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập có quy định khác. Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng dân tộc thiểu
số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được
công chứng, chứng thực hợp pháp.
- Các tài liệu nghe được, nhìn được (băng ghi âm, đĩa ghi âm,
băng ghi hình, đĩa ghi hình) được coi là hợp pháp nếu được xuất
trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn
bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
- Vật chứng được coi là hợp pháp phải là hiện vật gốc liên
quan đến vụ việc.
- Tập quán được coi là coi là hợp pháp nếu được cộng đồng
nơi có tập quán đó thừa nhận.
Qua kiểm tra, nếu tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện
không đáp ứng các điều kiện nêu trên thì Thẩm phán phải hướng dẫn
cho người khởi kiện thực hiện đúng quy định của pháp luật.
3.3. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; bổ sung tài
liệu, chứng cứ
Sau khi kiểm tra, nếu xét thấy đơn khởi kiện không đầy đủ các
nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS và tài liệu,
chứng cứ còn thiếu hoặc không phù hợp thì Toà án thông báo cho
người khởi kiện biết. Việc thông báo phải được lập thành văn bản
và nêu rõ, cụ thể những nội dung còn thiếu trong đơn khởi kiện,
những tài liệu, chứng cứ cần bổ sung đồng thời yêu cầu họ sửa đổi,
bổ sung trong một thời hạn cụ thể nhưng không quá ba mươi ngày;
trong trường hợp đặc biệt có thể gia hạn nhưng không quá mười
lăm ngày. Trong thông báo phải xác định rõ hậu quả của việc
không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; bổ sung tài liệu, chứng cứ
đúng thời hạn. Hậu quả thường là trả lại đơn, tài liệu chứng cứ kèm
theo và coi như không có việc khởi kiện. Thông báo được giao trực
tiếp cho đương sự hoặc gửi qua đường bưu điện. Việc giao hoặc gửi
này phải có sổ theo dõi. Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung
16
đơn khởi kiện không được tính vào thời hiệu khởi kiện, ngày khởi
kiện vẫn tính là ngày nộp đơn khởi kiện hoặc dấu bưu điện nơi gửi.
Trong thực tế các Toà án thường thông báo bằng miệng cho
các đương sự và yêu cầu họ sửa đổi bổ sung ngay, điều này dẫn đến
tình trạng không có căn cứ theo dõi quá trình giải quyết đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn của Thẩm phán.
Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện theo đúng quy định thì Toà án thụ lý vụ án. Nếu tranh
chấp mà nguyên đơn có quyền lựa chọn nhiều Toà án giải quyết,
Thẩm phán hướng dẫn cho người khởi kiện cam kết trong đơn khởi
kiện chỉ khởi kiện ở Toà án mà họ đã lựa chọn không khởi kiện tại
các Toà án khác.
4. Kiểm tra các điều kiện thụ lý vụ án dân sự
Kiểm tra, xác định các điều kiện thụ lý vụ án dân sự không
tách rời với hoạt động kiểm tra đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo. Đây là hoạt động tư duy của Thẩm phán và là hoạt động
nghiệp vụ quan trọng trong việc thụ lý vụ án dân sự. Thẩm phán
được phân công thụ lý vụ án dân sự phải tiến hành kiểm tra các
điều kiện thụ lý để quyết định có thụ lý hay không thụ lý vụ án. Để
thực hiện quá trình này được đúng đắn cần phải căn cứ vào quy
định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự.
4.1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự phải có quyền khởi kiện và
năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. Hai yếu tố này tạo thành
điều kiện cần và đủ đối với điều kiện về chủ thể khởi kiện vụ án.
Về quyền khởi kiện của người khởi kiện Thẩm phán cần kiểm tra,
xác định các yếu tố:
- Người khởi kiện có quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự
không? Về nguyên tắc, quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự chỉ có
được khi các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung (quan
hệ dân sự, hôn nhân gia đình…). Theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự, quyền khởi kiện vụ án dân sự có thể do chủ thể có
quyền lợi bị tranh chấp tự mình thực hiện hoặc thông qua người đại
diện hợp pháp. Do đó, đối với trường hợp cá nhân khởi kiện thông
qua người đại diện theo pháp luật thì người đại diện là người khởi
17
kiện nhưng Thẩm phán cần phải kiểm tra xác định quyền và lợi ích
hợp pháp dân sự của cá nhân. Quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm hoặc tranh chấp có thể là quyền tài sản hoặc quyền nhân thân.
- Quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khởi kiện có bị xâm
phạm hoặc có tranh chấp chưa? Có quyền và lợi ích dân sự hợp
pháp của chủ thể khởi kiện chỉ là điều kiện cần trong quyền khởi
kiện của chủ thể khởi kiện. Mặc dù người khởi kiện có quyền và lợi
ích dân sự nhưng quyền đó chưa bị xâm phạm thì cũng chưa đủ
điều kiện về chủ thể khởi kiện.
Do việc xác định quyền lợi của chủ thể có bị xâm hại hay
không phải được khẳng định trong bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật. Khi bản án, quyết định của Tòa án chưa có
hiệu lực pháp luật khẳng định vấn đề đó, thì quyền và lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện mới chỉ dừng lại là giả thiết bị xâm phạm.
Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự của chủ thể
khởi kiện bị xâm phạm hoặc có tranh chấp là điều kiện cần và đủ
của quyền khởi kiện. Tòa án thụ lý vụ án khi người khởi kiện có
căn cứ ban đầu chứng minh được mình có quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.
Ngoài điều kiện kiện về quyền khởi kiện, người khởi kiện
phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Không phải tất cả các chủ
thể khởi kiện đều được tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ tố
tụng tại Tòa án. Chủ thể khởi kiện trong tố tụng dân sự phải có đầy
đủ năng lực hành vi tố tụng. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng bởi những người không có năng lực hành vi tố tụng thì
không có hiệu lực. Người khởi kiện trong vụ án dân sự là cá nhân
(công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không có quốc
tịch). Họ phải là người đạt độ tuổi nhất định, sức khỏe bình thường,
không bị mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
Đánh giá năng lực hành vi tụng dân sự của cá nhân phải căn cứ vào
quy định tại Điều 57 BLTTDS. Để kiểm tra điều kiện này Thẩm
phán căn cứ vào giấy tờ tùy thân, các giấy tờ chứng minh quan hệ
đại diện. Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thực hiện quyền và
nghĩa vụ khởi kiện thông qua người đại diện hợp pháp tham gia tố
tụng. Nếu cơ quan, tổ chức bị sáp nhập, phân chia, giải thể thì cơ
18
quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ thực hiện quyền
khởi kiện. Kiểm tra tư cách chủ thể khởi kiện này, đối với trường
hợp có việc ủy quyền khởi kiện, Thẩm phán cần lưu ý kiểm tra thủ
tục ủy quyền theo đúng quy định của pháp luật
4.2. Sự việc chưa được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu
lực pháp luật hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của tòa án nhưng người khởi kiện có
quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Để đảm bảo việc thực hiện bản án, quyết định, điểm c khoản 1
Điều 168 BLTTDS quy định nếu vụ án dân sự đã được giải quyết
bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì các đương sự
không được quyền khởi kiện nữa, trừ một số trường hợp sau đây:
- Trường hợp Tòa án đã bác đơn xin ly hôn của người chồng
xin ly hôn vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng
tuổi, thì Tòa án chỉ thụ lý lại vụ án xin ly hôn của người chồng khi
đã đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện quy định tại khoản 2 Điều 85 của
Luật Hôn nhân và Gia đình ;
- Trường hợp bản án, quyết định về ly hôn có giải quyết quan
hệ về con, mức cấp dưỡng. Sau khi bản án, quyết định này có hiệu
lực pháp luật, nếu điều kiện nuôi con thay đổi, thì người bố hoặc
mẹ có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu thay đổi người nuôi
con. Hoặc nếu có yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng thì các bên có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn; đòi nhà cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ
điều kiện khởi kiện, thì khi đã đủ điều kiện do pháp luật quy định,
nguyên đơn có thể khởi kiện lại;
- Trong các vụ án bồi thường thiệt hại, đương sự có thể khởi
kiện lại yêu cầu Tòa án xem xét lại mức bồi thường.
Ngoài ra, trường hợp Toà án quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án theo quy ðịnh tại ðiểm c, e và g khoản 1 Ðiều 192 BLTTDS bao
gồm: Ngýời khởi kiện rút ðõn khởi kiện và ðýợc Toà án chấp nhận
hoặc ngýời khởi kiện không có quyền khởi kiện; nguyên ðõn ðýợc
triệu tập hợp lệ ðến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; ðã có quyết định của
19
Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một
bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến
nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó thì theo quy định tại
khoản 1 Điều 193 BLTTDS đương sự có quyền khởi kiện lại.
Do vậy, Toà án chỉ được giải quyết những việc trước đó chưa
được giải quyết bằng bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật
hoặc trong trường hợp được quyền khởi kiện lại. Điều kiện này
nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định, sự ổn định của các
quan hệ xã hội. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, khi xác định
điều kiện này Toà án phải căn cứ vào các tài liệu do đương sự cung
cấp về quá trình xảy ra tranh chấp để xác định sự việc đã giải quyết
hay chưa.
4.3. Điều kiện về thẩm quyền của tòa án
Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án là một trong
những yêu cầu quan trọng khi kiểm tra điều kiện thụ lý vụ án dân
sự. Việc kiểm tra điều kiện thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự,
Thẩm phán cần phải kiểm tra xác định rõ thẩm quyền theo loại
việc, thẩm quyền theo cấp xét xử và thẩm quyền theo lãnh thổ.
Kiểm tra điều kiện này Thẩm phán cũng cần phải căn cứ quy định
của luật tố tụng và luật nội dung .
4.3.1. Thẩm quyền theo loại việc
Việc xác định đúng thẩm quyền theo loại việc của Tòa án có ý
nghĩa quan trọng trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án.
Theo các điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS, Toà án có thẩm quyền
giải quyết các vụ án phát sinh từ bốn loại quan hệ pháp luật như
những vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, những vụ án
phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, những vụ án
phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanh- thương mại, những vụ
án phát sinh từ quan hệ pháp luật lao động.
Kiểm tra điều kiện về thẩm quyền theo loại việc, Thẩm phán
cần phải có kỹ năng phân biệt rõ thẩm quyền của Tòa án giải quyết
vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự và tố tụng hành chính. Thẩm
quyền của Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự và
thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước.
20
Ví dụ khi giải quyết các tranh chấp về đất đai thì theo Luật
Đất đai năm 2003, Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự là các tranh chấp về đất đai mà đất đó có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định
tại khoản 1, 2 và khoản 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003. Đối với
đất tranh chấp đất đai mà đất đó không có các loại giấy tờ nêu trên
thì thẩm quyền giải quyết thuộc UBND. Tuy nhiên, Luật Đất đai
năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01/7/2014 đã mở rộng hơn thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Điều 203 Luật Đất đai năm
2013 quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất. Đối với tranh chấp đất đai mà
đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các
loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ
được lựa chọn một trong hai hình thức hoặc là nộp đơn yêu cầu giải
quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc khởi
kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Như vậy, theo quy định
mới này thì Tòa án cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các
loại giấy tờ quy định tại Điều 100, nếu đương sự lựa chọn khởi kiện
ra Tòa.
Trong trường hợp người sử dụng đất không có Giấy chứng
nhận hoặc một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai
năm 2013 nhưng họ lại có các hành vi như xây dựng trái phép công
trình trên đất không được phép của UBND và đã bị UBND xử lý
hành chính như buộc tháo dỡ công trình… thì đương sự có quyền
khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính đó đối với chủ
tịch UBND cấp có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra Tòa hành chính để
giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Trường hợp đất đó
không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các giấy tờ quy định tại
Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 nhưng trên đất có các tài sản như
nhà ở, cây cối lưu niên… đương sự không tranh chấp quyền sử
dụng đất mà chỉ tranh chấp về tài sản trên đất và có yêu cầu Tòa án
giải quyết thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân theo
thủ tục tố tụng dân sự, nếu đương sự không tranh chấp về tài sản
21
trên đất mà chỉ tranh chấp về quyền sử dụng đất đó thì đương sự có
quyền lựa chọn yêu cầu UBND giải quyết hoặc khởi kiện ra Tòa án.
Bên cạnh đó cũng cần phân biệt thẩm quyền của Tòa án giải
quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự với thẩm quyền giải quyết
của Trọng tài thương mại như các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
kinh doanh, thương mại nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài thì
thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Khoản 1 Điều 5 Luật
Trọng tài thương mại quy định “Tranh chấp được giải quyết bằng
Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài
có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”. Khi một
bên khởi kiện tại Tòa án thì Toà án phải từ chối thụ lý vụ án trừ
trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài
không thể thực hiện được.
Ngoài ra cần lưu ý là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS năm 2011 quy định bổ sung Điều 32a về thẩm quyền của
Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức như sau:
“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết
định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải
quyết. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền của cơ quan, tổ chức đó có quyền và nghĩa vụ tham gia tố
tụng.
2. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá
biệt bị yêu cầu hủy quy định tại khoản 1 Điều này, thì quyết định cá
biệt đó được Tòa án xem xét trong cùng vụ việc dân sự. Thẩm
quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự đó được xác định
theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Luật tố tụng hành chính.”
Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS
năm 2004 đã bộc lộ những bất cập cần phải bổ sung theo quy định
tại Điều 32a BLTTDS năm 2011. Trong quá trình xét xử nhiều vụ
án dân sự Tòa án xét thấy có những quyết định cá biệt của cơ quan,
tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó rõ ràng trái
pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
trong vụ án dân sự và đương sự có yêu cầu hủy, nhưng Tòa án
22
không có căn cứ để giải quyết. Trước đây, theo quy định tại Điều
12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì Tòa án có
quyền hủy quyết định này: “Khi xét xử vụ án dân sự, Tòa án có
quyền hủy quyết định rõ ràng là trái pháp luật của cơ quan tổ chức
khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà
Tòa án có nhiệm vụ giải quyết”, nhưng BLTTDS năm 2004 không
quy định vấn đề này, nên Tòa án không có thẩm quyền hủy quyết
định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác. Vì
vậy, đương sự nếu có yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền của cơ
quan, tổ chức đó thì họ phải khởi kiện vụ án hành chính. Mặt khác,
trong những trường hợp như vậy nhiều vụ án dân sự phải tạm đình
chỉ việc giải quyết vụ án bởi cần phải đợi kết quả giải quyết vụ án
hành chính mới có thể tiếp tục giải quyết được vụ án dân sự nên
gây phiền hà cho đương sự và kéo dài việc giải quyết vụ án.
Một kỹ năng rất quan trọng khi thụ lý giải quyết vụ án dân sự
có liên quan đến việc hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức,
người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó là việc nhận biết
quyết định cá biệt là gì? Quyết định đó có rõ ràng trái pháp luật hay
không? Và đương sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt đó không?
Chúng ta có thể hiểu Quyết định cá biệt có thể bị Tòa án tuyên hủy
vì rõ ràng trái pháp luật là các quyết định thuộc đối tượng có thể bị
khiếu kiện theo quy định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính và
theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQHĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật khi quyết định đó được ban
hành không đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục hoặc nội dung do
pháp luật quy định xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ việc dân sự Tòa án đang có nhiệm vụ giải quyết;
có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự đó.
Tòa án đồng thời giải quyết việc hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái
pháp luật đó trong cùng vụ án dân sự khi có yêu cầu của đương sự
và tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ
quan, tổ chức đó vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
23
Tuy nhiên, trong quá trình thụ lý vụ án dân sự cần xem xét
yêu cầu hủy quyết định cá biệt thì đương sự đã khởi kiện vụ án
hành chính hay khiếu nại theo thủ tục hành chính về quyết định cá
biệt đó hay chưa? Trong trường hợp đương sự không khởi kiện vụ
án hành chính hay khiếu nại theo thủ tục hành chính thì Tòa án mới
xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt đó trong cùng một vụ án
dân sự. Trong trường hợp một vụ án dân sự có một người vừa có
yêu cầu hủy quyết định cá biệt vừa khiếu nại theo thủ tục hành
chính và khởi kiện vụ án hành chính thì Tòa án phải yêu cầu đương
sự lựa chọn một trong ba loại tài phán đó. Trường hợp quyết định
cá biệt có liên quan đến nhiều người mà có người khởi kiện vụ việc
dân sự, có người có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại, có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có
thẩm quyền, thì Toà án có văn bản yêu cầu các đương sự thỏa thuận
bằng văn bản lựa chọn hình thức giải quyết đối với quyết định cá
biệt để khẳng định việc sẽ tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, hay khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa
án có thẩm quyền hay đề nghị giải quyết trong vụ việc dân sự để từ
đó tòa án có căn cứ để tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự
theo quy định tại khoản 4 Điều 189 BLTTDS để chờ kết quả giải
quyết vụ án hành chính hay kết quả giải quyết khiếu nại theo thủ
tục hành chính hoặc tiếp tục giải quyết yêu cầu hủy quyết định rõ
ràng trái pháp luật trong vụ án dân sự.
4.3.2. Thẩm quyền của Tòa án các cấp
Theo các điều 33 và 34 BLTTDS, Toà án có thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm gồm có Tòa án nhân dân
cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện. Theo các quy định nêu trên
hầu hết các loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án đều
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Xác định thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện cần
căn cứ vào Điều 33, 34 BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số
03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
nhất “những quy định chung” của BLTTDS (sau đây gọi tắt là Nghị
quyết số 03/2012/NQ-HĐTP). Hiện nay, theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTDS thẩm quyền của Tòa án cấp huyện đã
24
được mở rộng hơn so với BLTTDS 2004. Nhiều tranh chấp kinh
doanh -thương mại thuộc thẩm quyền của toà án cấp tỉnh trước đây,
nay theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thuộc
thẩm quyền của toà án cấp huyện giải quyết.
Theo quy định tại Điều 33 BLTTDS năm 2004 thì Toà án
nhân dân cấp huyện chỉ có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại từ điểm a đến
điểm i Khoản 1 Điều 29 BLTTDS giữa các tổ chức, cá nhân có
đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Song,
theo Luật sửa đổi, Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải
quyết tất cả các tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc Khoản 1
Điều 29 BLTTDS và theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP thì
các chủ thể có đăng ký kinh doanh hay không nhưng nếu đều có
mục đích lợi nhuận thì xác định là các tranh chấp về kinh doanh
thương mại. Vì thế, các tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu,
trái phiếu; những tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng tín dụng có
liên quan đến ngân hàng; những tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm
cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự... hiện nay thuộc thẩm quyền
giải quyết của toà án nhân dân cấp huyện. Đây chính là việc tăng
thẩm quyền cho toà án cấp huyện giải quyết các tranh chấp dân sự
theo lộ trình tăng thẩm quyền mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
Kiểm tra điều kiện về thẩm quyền của Tòa án nhân dân các
cấp, Thẩm phán cần lưu ý quy định riêng biệt tại khoản 3 Điều 102
Luật Hôn nhân và gia đình về thẩm quyền giải quyết của Tòa án
cấp huyện đối với các tranh chấp về ly hôn, quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và
giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với
công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với
Việt Nam.
4.3.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Xác định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ phải căn cứ vào
Điều 35 và Điều 36 BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết
03/2012/NQ-HĐTP. Ví dụ: Đối với tranh chấp mà đối tượng tranh
chấp là bất động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án
25