Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân xã nam cát, huyện nam đàn, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.45 KB, 111 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI : “Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của
người dân xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”

GVHD

: ĐOÀN BÍCH HẠNH

SV THỰC HIỆN

: NGUYỄN VĂN QUYẾT

LỚP

: PTNTC – K56

MSV

: 564544

Hà Nội 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, nội dung, số liệu và kết quả nghiên cứu trong
chuyên đề là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cũng xin cam kết chắc chắn rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực


hiện chuyên đề đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong chuyên đề
đều được chỉ rõ nguồn gốc, bản chuyên đề này là nỗ lực, kết quả làm việc
của cá nhân tôi (ngoài phần đã trích dẫn).
Hà Nội, ngày

tháng
Sinh viên

năm 2015

Nguyễn Văn Quyết

2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi còn
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh
tế & Phát triển nông thôn - Trường Học viện Nông Nghiệp Việt Nam đã hết
lòng giúp đỡ và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá
trình học tập tại trường.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo Đoàn Bích
Hạnh thuộc bộ môn kinh tế môi trường, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn,
Trường Học viện nông nghiệp Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện đề tài.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các hộ gia đình tại các thôn
thuộc xã Đoàn Đào, cán bộ và toàn thể nhân dân xã Nam Cát, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Và tôi cũng không quên nói lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã động viên

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng
Sinh viên

năm 2015

Nguyễn Văn Quyết

TÓM TẮT KHÓA LUẬN

3


Việt Nam là nước đang phát triển, có số dân số hơn 90,5 triệu người,
đứng thứ 13 trên thế giới, hằng năm với mức tăng trung bình khoảng 1 triệu
người, là nước có lợi thế về sức lao động. Trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam đang có nhiều cơ hội phát huy lợi
thế nguồn nhân lực, trao đổi hàng hóa “ Sức lao động’’. Mặt khác, trong điều
kiện đất nước ta hiện nay, hơn 70% lao động sống ở nông thôn, trình độ
chuyên môn tay nghề thấp, tiền công sức lao động rẻ, sức ép việc làm lớn, mỗi
năm cần có khoảng 2,45% người dân cần việc làm. Chính vì vậy, xuất khẩu lao
động không những là chủ trương lớn của đảng và nhà nước, mà còn là một
chiến lược quan trọng lâu dài góp phần giải quyết việc làm cho số người đến
độ tuổi lao động giảm thiểu gánh nặng của quốc gia. Do đó, xuất khẩu lao
động trở thành vấn đề cấp thiết có nội dung kinh tế - xã hội sâu sắc và liên
quan chặt chẽ với các yếu tố kinh tế khác trong định hướng phát triển kinh tế
quốc gia.

Xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong những năm qua, cấp
ủy Đảng chính quyền địa phương coi xuất khẩu lao động là môt trong những
nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu
nhập cho người lao động, làm giàu chính đáng, tăng nguồn thu ngoại tệ và
cũng là một trong những biện pháp xóa đói giảm nghèo, góp phần không nhỏ
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Số lao động của xã Nam
Cát đi xuất khẩu lao động càng ngày càng tăng, nhiều hộ gia đình từng là hộ
nghèo nhưng từ khi có lao động đi xuất khẩu đã trở nên khá giả hơn, xây dựng
nhà cửa khang trang, mua sắm được các tiện nghi sinh hoạt đắt tiền và có vốn
ổn định tăng gia sản xuất, kinh doanh nâng cao thu nhập. Toàn xã hiện có 700
lao động đang làm việc ở nước ngoài tập trung chủ yếu ở các thị trường như:
Angola, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaisia… xuất khẩu lao động đem
lại nguồn thu nhập cho xã Nam Cát mỗi năm hơn 100 tỷ đồng, đời sống người
dân được cải thiện đáng kể.

4


Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn xã Nam Cát đã
mang lại nhiều lợi ích, đời sống của người dân được cải thiện một cách rõ rệt,
nhất là mặt kinh tế của hộ gia đình. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích của
XKLĐ mang lại, thì XKLĐ cũng gây ra một số hệ lụy đến đời sống của người
dân. Để đánh giá đúng và hiểu rõ hơn mức độ tác động của xuất khẩu lao động
cụ thể đến đời sống người dân trong xã nên tôi quyết định chọn đề tài: “Đánh
giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân xã Nam
Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”.
Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về lao động, sức lao động,
giá cả lao động, xuất khẩu lao động, thị trường lao động, các lý luận về đánh
giá, tác động. Các khái niệm và đặc điểm được tìm hiểu qua nhiều góc độ và
cách nhìn nhận của nhiều nhà nghiên cứu trước đây. Từ các khái niệm về đánh

giá tác động của xuất khẩu lao động, đề tài đã bước đầu khái quát hóa khái
niệm về đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân.
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp chọn
mẫu điều tra nghiên cứu dùng để điều tra thực trạng tác động của xuất khẩu lao
động trên địa bàn xã, mức độ tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống
người dân; phương pháp thu thập số liệu qua điều tra, tổng hợp (số liệu do
UBND xã Nam Cát cung cấp), phương pháp phân tích số liệu dùng trong
nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của xuất khẩu lao động. Phương pháp so
sánh dùng để so sánh giữa các nhóm hộ với nhau, giữa trước và sau khi có xuất
khẩu lao động, từ đó đánh giá mức độ tác động giữa các nhóm.
Qua nghiên cứu thực tế tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống
của người dân xã Nam Cát, nhìn chung xuất khẩu lao động đã có nhiều tác
động tích cực đến đời sống của người dân. Xuất khẩu lao động đã góp phần
vào công cuộc giải quyết việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp ở một số bộ
phận lao động thất nghiệp. Xuất khẩu lao động tác động tích cực đến kinh tế hộ
gia đình nhờ nguồn thu nhập từ lao động xuất khẩu từ đó làm thay đổi đời sống

5


của hộ gia đình theo hướng tích cực hơn. Xuất khẩu lao động được xác định là
mục tiêu hàng đầu nhằm phát triển kinh tế trước mắt của địa phương, xóa
nhanh tình trạng đói nghèo trong xã làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế bền
vững. Tuy nhiên từ những tác động tích cực thì vẫn tồn tại những hạn chế từ
xuất khẩu lao động như: rủi ro trong xuất khẩu lao động, ảnh hưởng tới trật tự
xã hội, mối quan hệ gia đình…
Trước vấn đề đó, khi được điều tra, phỏng vấn thì đại đa số hộ điều tra
đều tham gia trả lời tích cực về thông tin hộ gia đình, người lao động và những
thay đổi kể từ khi có người xuất khẩu lao động. Tìm hiểu về tác động của xuất
khẩu lao động đến đời sống của người dân? Thì tất cả người được hỏi đều trả

lời xuất khẩu lao động có tác động nhất định đến sản xuất và cuộc sống gia
đình của họ. Chính người lao động cũng thừa nhận xuất khẩu lao động cũng
tác động đến mối quan hệ, trình độ tay nghề, ngoại ngữ của họ khi sang làm
việc ở nước ngoài.
Nhận thức được vấn đề này chính quyền xã và người dân xã Nam Cát đã
và đnag cố gắng tích cực thực hiện các giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu lao
động và giảm thiểu, ngăn chặn những hạn chế mà xuất khẩu lao động mang lại.
Đề tài nêu những định hướng, giải pháp đối với cơ quan nhà nước, đối với
chính quyền địa phương nhằm phát triển xuất khẩu lao động ổn đinh, bền vững
hơn. Khuyến khích hộ gia đình và người lao động nâng cao trình độ, học vấn,
tay nghề, nhận thức đúng đắn về xuất khẩu lao động… Thực hiện tốt các giải
pháp này sẽ góp phần ngăn ngừa và giảm thiểu được những hạn chế, tiêu cực
mà xuất khẩu lao động mang lại.

6


MỤC LỤC

7


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT
Từ viết tắt

Ý nghĩa từ viết tắt

XKLĐ

: xuất khẩu lao động


LĐ – TB và XH

: Lao động – Thương binh và Xã hội

HĐH

: Hiện đại hóa

CNH

: Công nghiệp hóa

ILO(International Labour

: Tổ chức Lao động Quốc tế

Organization)
IOM(International Organization for

: Tổ chức di dân quốc tế

Migration)
WB (World Bank)

: Ngân hàng thế giới

ĐH – CĐ

: Đại học – Cao đẳng


CN – TTCC

: Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp

UBND

: Ủy ban nhân dân

TH

: Tiểu học

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

SL

: Số lượng

CC

: Cơ cấu

Trđ


: Triệu đồng

CN - XD

: Công nghiệp - xây dựng

TNBQ

: Thu nhập bình quân

8


DANH MỤC BẢNG

9


PHẦN I
PHẦN MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết
Việt Nam là nước đang phát triển, có số dân số hơn 90,5 triệu người,
đứng thứ 13 trên thế giới, hằng năm với mức tăng trung bình khoảng 1 triệu
ngýời, là nước có lợi thế về sức lao động. Trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam đang có nhiều cơ hội phát huy lợi
thế nguồn nhân lực, trao đổi hàng hóa “ Sức lao động’’. Mặt khác, trong điều
kiện đất nước ta hiện nay, hơn 70% lao động sống ở nông thôn, trình độ
chuyên môn tay nghề thấp, tiền công sức lao động rẻ, sức ép việc làm lớn, mỗi

năm có khoảng 2,45% người dân cần việc làm. Chính vì vậy, xuất khẩu lao
động không những là chủ trương lớn của đảng và nhà nước, mà còn là một
chiến lược quan trọng lâu dài góp phần giải quyết việc làm cho số người đến
độ tuổi lao động giảm thiểu gánh nặng của quốc gia. Do đó, xuất khẩu lao
động trở thành vấn đề cấp thiết có nội dung kinh tế - xã hội sâu sắc và liên
quan chặt chẽ với các yếu tố kinh tế khác trong định hướng phát triển kinh tế
quốc gia.
Xuất khẩu lao động của nước ta bắt đầu từ những năm 1980 thông qua
hình thức đưa lao động sang các nước xã hội chủ nghĩa là việc theo Hiệp định
hợp tác quốc tế về lao động. Từ năm 1991 đến nay, xuất khẩu lao động đã được
chuyển dần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hằng năm số lượng lao động được đưa đi đều tăng lên
và hiệu quả năm sau đều đạt cao hơn năm trước, hiện nay có khoảng hơn 500
ngàn lao động làm việc ở 41 nước và vùng lãnh thổ. Xuất khẩu lao động đối với
nước ta đã thực sự trở thành một giải pháp hữu hiệu đối với công cuộc xóa đói
giảm nghèo và cải thiện đời sống cho một số bộ phận người lao động, đặc biệt ở
khu vực nông thôn. Nguồn lợi kinh tế của công tác xuất khẩu lao động là rất lớn

10


đã tạo ra những chuyển biến làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao mức sống
của nhiều hộ gia đình nông dân.
Xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong những năm qua, cấp
ủy Đảng chính quyền địa phương coi xuất khẩu lao động là môt trong những
nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu
nhập cho người lao động, làm giàu chính đáng, tăng nguồn thu ngoại tệ và
cũng là một trong những biện pháp xóa đói giảm nghèo, góp phần không nhỏ
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Số lao động của xã Nam
Cát đi xuất khẩu lao động càng ngày càng tăng, nhiều hộ gia đình từng là hộ

nghèo nhưng từ khi có lao động đi xuất khẩu đã trở nên khá giả hơn, xây dựng
nhà cửa khang trang, mua sắm được các tiện nghi sinh hoạt đắt tiền và có vốn
ổn định tăng gia sản xuất, kinh doanh nâng cao thu nhập. Toàn xã hiện có 700
lao động đang làm việc ở nước và ngoài tập trung chủ yếu ở các thị trường
như: Angola, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaisia… xuất khẩu lao động
đem lại nguồn thu nhập cho xã Nam Cát mỗi năm hơn 100 tỷ đồng, đời sống
người dân được cải thiện đáng kể.
Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn xã Nam Cát đã
mang lại nhiều lợi ích, đời sống của người dân được cải thiện một cách rõ rệt,
nhất là mặt kinh tế của hộ gia đình. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích của
XKLĐ mang lại, thì XKLĐ cũng gây ra một số hệ lụy đến đời sống của người
dân. Để đánh giá đúng và hiểu rõ hơn mức độ tác động của xuất khẩu lao động
cụ thể đến đời sống người dân trong xã nên tôi quyết định chọn đề tài: “Đánh
giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân xã Nam
Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung

Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống về các mặt kinh tế văn hóa - xã hội của người dân tại xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
1.2.2

Mục tiêu cụ thể

11


- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề cơ sở lý luận và thực
tiễn về xuất khẩu lao động.
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động trên địa bàn xã Nam Cát,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Phân tích tác động của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân
trên địa bàn xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất mục tiêu, định hướng và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao
động nhằm tăng thu nhập đồng thời giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của
xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân trên địa bàn xã Nam Cát,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

- Tác động của xuất khẩu lao động và đời sống của người dân trước và
sau khi có xuất khẩu lao động .
- Khách thể nghiên cứu là các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao
động, các thành viên trong gia đình có người đi xuất khẩu lao động, người dân
và cán bộ tại địa phương.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian
Đề tại được tiến hành nghiên cứu tại xã Nam Cát, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An.
- Phạm vi thời gian
Thông tin, số liệu thứ cấp: từ năm 2011 đến năm 2014.
Thông tin sơ cấp: năm 2015.
Thời gian thực hiện đề tài: từ 14/01/2015 đến 02/06/2015.
- Phạm vi nội dung
Đánh giá tác động của xuất khẩu lao động đến sản xuất và đời sống của
các hộ gia đình trước và sau khi có xuất khẩu lao động, các hộ gia đình có
người đi và các hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động.

12



PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận về xuất khẩu lao động
2.1.1 Một số khái niệm

2.1.1.1 Lao động


Lao động
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó tạo ra của cải
vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng
và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, xã hội, gia
đình và bản thân mỗi người lao động. Bất cứ một chế độ xã hội nào, lao động
của con người cũng là một trong những yếu tố quyết định nhất, năng động nhất
trong sản xuất.Lao động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của loài người, là
cơ sở của sự tiến bộ kinh tế, vă hóa và xã hội. Nó là nhân tố quyết định bất kì
quá trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình phát triển kinh tế, xã
hội quy tụ lại là ở con người, con người với lao động sáng tạo của họ đang là
vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Nguyễn Vân Điềm và Nguyễn Nguyễn Ngọc Quân (2004), lao
động chính là hoạt động có mục đích có ý thức của con người nhằm biến đổi
những vật thể tự nhiên, biến đổi tự nhiên để phù hợp với với mục đích nhất
định của mình. Lao động là sự vận động của sức lao động, là quá trình kết hợp
giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội, lao
động là yếu tố chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo hình thức đào
tạo thì lao động được chia thành lao động đã qua đào tạo nghề và lao đông
không qua đào tạo nghề.
Lao động đã qua đào tạo nghề

13



Theo Công văn số 4190 ngày 29/11/2010 của Bộ lao động – Thương
binh và Xã hội: Lao động đã qua đào tạo nghề là những người đã hoàn thành ít
nhất một chương trình đào tạo của một nghề tại một cơ sở dạy nghề (gồm cả
các cơ sở sản xuất kinh doanh) và được cấp văn bằng chứng chỉ nghề hoặc
được thừa nhận theo các kiến thức hiện hành.
Như vậy, lao động qua đào tạo nghề hiện không chỉ có công nhân kỹ
thuật được đào tạo từ trường, lớp dạy nghề, mà bao gồm lao động được đào tạo
ở 3 cấp trình độ (theo Luật dạy nghề) trong nhà trường và được dạy nghề bởi
doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề ngoài nhà trường hoặc tự học, được truyền
nghề và được thừa nhận bởi các quy định hiện hành.
Nhóm lao động chưa qua đào tạo nghề được hiểu là những người chưa
có bất kỳ loại văn bằng chứng chỉ nghề nào và thực tế cũng không đảm nhận
một công việc nào đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật từ 3 năm trở lên hoặc công
việc đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật nhưng kinh nghiệm chưa đủ 3 năm.
Nhóm lao động này thường là đối tượng khó xác định. Theo thống kê lao động
việc làm hằng năm của Bộ LĐ – TB và XH thì lao động chưa qua đào tạo
không bằng, không chứng chỉ là những người tuy chưa qua một trường lớp đào
tạo nhưng do tự học, do được truyền nghề hoặc vừa làm vừa học nên họ đã có
được kỹ năng, tay nghề tương đương với bậc của lao động đã qua đào tạo có
bằng cùng nghề và thực tế đã làm công việc đang làm từ 3 năm trở lên.


Sức lao động
Theo Nguyễn Vân Điềm và Nguyễn Nguyễn Ngọc Quân (2004), sức lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong
một con người đang sống và được đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất một giá
trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều
kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lýợng sản xuất sáng tạo

chủ yếu của xã hội.



Nguồn nhân lực

14


Theo David Begg (1995): “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên
môn mà con người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại
thu nhập trong tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực
là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương
lai”.
Theo Phạm Minh Hạc (2007): “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm
năng lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được
chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động
nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung),
bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động,
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH”.
Theo Nguyễn Hữu Dũng (2003):“Nguồn nhân lực được xem xét dưới
hai góc độ năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn
nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng
nhất của dân số, có khả năng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát triển
nguồn nhân lực để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực xã hội của nguồn
nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên nếu chỉ
dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó phải
chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn nhân lực, tức là nâng
cao tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và

giải phóng triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận nếu
được tự do phát triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao
động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác phát huy trở thành nguồn vốn vô
cùng to lớn”.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm
khác nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội
dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con

15


người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là
nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được
xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả
số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà
là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên,
cải tạo xã hội.
Vì vậy, có thể định nghĩa: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất
lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm
chất đạo đức –tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã,
đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến
bộ xã hội.


Lực lượng lao động
Theo Luật số 10/2012/QH13: Lực lượng lao động bao gồm những người
từ 15 tuổi có việc làm và những người thất nghiệp song đang có nhu cầu tìm
việc làm.




Giá cả lao động
Theo giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin (Vũ Anh Tuấn và Phạm
Đức Hạnh, năm 2005): Giá cả lao động (gọi một cách chính xác là giá cả của
hàng hóa sức lao động) là toàn bộ số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động phù hợp với lượng giá trị sức lao động mà người đó đã
cống hiến, phù hợp với cung cầu về lao động trên thị trường lao động. Toàn bộ
số lượng tiền tệ nói đến ở đây là sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và
người lao động. Đó là tiền lương (tiền công) danh nghĩa. Lượng tiền này chưa
phản ánh mức sống của người lao động vì còn phụ thuộc vào yếu tố giá cả tại
thời điểm và khu vực mà người đó tiêu dùng. Số lượng tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ mà người lao động có thể trao đổi (mua) được từ số lượng tiền có thể

16


sử dụng (tiền lương danh nghĩa sau khi trừ đi các khoản thuế, bảo hiểm, chi phí
khác theo quy định) là tiền lương thực tế. Khi đó, mức sống của người lao
động được đánh giá thông qua tiền lương thực tế.

2.1.1.2 Xuất khẩu lao động
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu lao động (XKLĐ). Nếu như
trước đây với thuật ngữ “hợp tác quốc tế lao động” (Nghị quyết số 362/CP 29/11/1980), XKLĐ được hiểu là sự trao đổi lao động giữa các quốc gia thông qua
các hiệp định được thoả thuận và ký kết giữa các quốc gia đó hay là sự di chuyển
lao động có thời hạn giữa các quốc gia một cách hợp pháp và có tổ chức. Trong
hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước XKLĐ, còn nước tiếp
nhận sử dụng lao động thì được coi là nước nhập khẩu lao động.
Theo ILO (1930) xuất khẩu lao động: Thực chất là xuất khẩu hàng hóa sức
lao động, được hiểu là sự di chuyển lao động có tổ chức đi làm việc trong thời hạn
nhất định ở nước ngoài thông qua các hiệp định về XKLĐ và các thỏa thuận giữa

các quốc gia nhập và xuất khẩu lao động.
Ngày nay với cách sử dụng thống nhất thuật ngữ XKLĐ để nhấn mạnh hơn
đến tính hiệu quả kinh tế cuả hoạt động này, từ các khái niệm trên có thể hiểu:
“XKLĐ là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động
cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất
pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động”.
Trong nền kinh tế thị trường, XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại,
mang đặc thù của xuất khẩu nói chung. Thực chất XKLĐ là một hình thức di
cư quốc tế. Tuy nhiên, đây chỉ là sự di cư tạm thời và hợp pháp.

17


Xuất khẩu lao động ra nước ngoài, thường gọi tắt là xuất khẩu lao động,
là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động ra nước ngoài theo hợp
đồng có thời hạn, phục vụ cho nhu cầu nhân công lao động của doanh nghiệp
nước ngoài.
Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong đó
diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên là
người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này được thoả thuận trên cơ sở
mối quan hệ lao động như tiền lương, tiền công, điều kiện làm việc...thông qua
một hợp đồng làm việc bằng văn bản hay bằng miệng.
Khi cung và cầu lao động nảy sinh ngoài biên giới một quốc gia thì gọi
là thị trường lao động quốc tế. Thị trường lao động quốc tế là bộ phận cấu
thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ nước này có thể di
chuyển sang nước khác thông qua hiệp định, các thỏa thuận giữa hai hay nhiều
quốc gia trên thế giới.
2.1.1.3 Đánh giá, tác động
 Đánh giá


Theo tổ chức xã hội dân sự thế giới (CIVICUS, 2007): Đánh giá là quá
trình đánh giá một cách có hệ thống và khách quan một dự án, chương trình
hoặc một chính sách đang được thực hiện hoặc đã hoàn thành từ giai đoạn thiết
kế đến triển khai và các kết quả đạt được. Mục đích của việc đánh giá là để xác
định tính phù hợp và mức độ hoàn thành các mục tiêu, tính hiệu quả, tác động
và tính bền vững. Quá trình đánh giá cần cung cấp thông tin đáng tin cậy và
hữu ích, cho phép lồng ghép những bài học kinh nghiệm vào quá trình ra quyết
định của các nhà tài trợ và của đối tượng tiếp nhận tài trợ.


Tác động
Theo tổ chức xã hội dân sự thế giới (CIVICUS, 2007): Tác động là những
hệ quả lâu dài của dự án, chương trình hay hoạt động có thể là ảnh hưởng tích

18


cực hay là tiêu cực.Tác động đến đời sống người dân là những ảnh hưởng tới
cuộc sống của người dân có thể là cải thiện đời sống hay có khi là hạn chế mức
sống của người dân sau khi có chương trình hay một dự án nào đó.
2.1.2 Các hình thức xuất khẩu lao động
Hình thức xuất khẩu lao động là cách thức thực hiện việc đưa người lao
động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do Nhà
nước qui định.
Các hình thức đưa lao động Việt Nam ở nước ngoài gồm có: (1) Cung
ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài; (2) Đưa lao động đi
làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra
nước ngoài; (3) Theo hợp đồng lao động giữa các cá nhân người lao động với
người sử dụng lao động nước ngoài.
Cung ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài. Đây là

trường hợp các tổ chức kinh tế Việt Nam được phép XKLĐ tuyển dụng lao
động Việt Nam để đưa đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cung ứng lao
động. Hình thức này tương đối phổ biến, được thực hiện rộng rãi trong các
năm vừa qua và những năm tới. Đặc điểm của hình thức này là: Tổ chức kinh
tế Việt Nam tổ chức tuyển chọn lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc
cho người sử dụng lao động ở nước ngoài và các yêu cầu về tiêu chuẩn về lao
động do phía nước ngoài đặt ra. Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp
luật của nước nhận lao động. Quá trình làm việc ở nước ngoài, người lao động
Việt Nam chịu sự quản lý trực tiếp của người sử dụng lao động nước ngoài,
các điều kiện và quyền lợi của người lao động do phía nước ngoài bảo đảm.
Chính vì vậy, việc thích ứng của người lao động Việt Nam với môi trường lao
động nước ngoài có những hạn chế.

19


Đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở
nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài. Đây là trường hợp doanh nghiệp tuyển lao
động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện hợp đồng
kinh tế với bên nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán
công trình ở nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh, liên kết chia sản
phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác ở nước ngoài. Những năm vừa qua, hình
thức này tuy chưa phổ biến nhưng theo chủ trương chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, mở rộng và tăng cường kinh tế đối ngoại thì hình thức này
sẽ ngày càng phát triển. Đặc điểm của hình thức này là: Việc tuyển người lao
động là để thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp Việt Nam; yêu cầu về tiêu
chuẩn lao động, các điều kiện lao động do doanh nghiệp Việt Nam đặt ra, doanh
nghiệp Việt Nam sử dụng lao động có thể trực tiếp tuyển dụng lao động hoặc uỷ
quyền cho doanh nghiệp cung ứng lao động tuyển lao động. Doanh nghiệp Việt
Nam đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, quản lý, sử dụng lao động ở nước

ngoài đảm bảo các quyền lợi cho người lao động làm việc ở nước ngoài. Do đặc
điểm và hình thức sử dụng lao động này nên quan hệ lao động tương đối ổn
định. Việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động của người lao
động khi làm việc ở nước ngoài có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, do hợp đồng
được thực hiện ở nước ngoài nên ít nhiều có sự ảnh hưởng của pháp luật, phong
tục tập quán của nước ngoài. Ngoài việc tuân thủ pháp luật Việt Nam, cả doanh
nghiệp Việt Nam quản lý sử dụng lao động và người lao động Việt Nam còn
phải tuân thủ các quy định của pháp luật nước ngoài.
Theo hợp đồng lao động giữa các cá nhân người lao động với người sử
dụng lao động nước ngoài. Hình thức XKLĐ này ở nước ta chưa phổ biến vì
muốn ký được hợp đồng với phía nước ngoài, người lao động phải có những
hiểu biết cần thiết về nhiều mặt như các thông tin về đối tác nước ngoài, về
ngôn ngữ, khả năng giao tiếp với người nước ngoài... Trong khi đó, trình độ

20


hiểu biết các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội và pháp luật của người lao động
Việt Nam còn những hạn chế nhất định.
2.1.3 Đặc điểm của xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế. Bởi vì, nó nhằm thực hiện
chức năng kinh doanh, thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp, đồng
thời để thỏa mãn lợi ích kinh tế của người lao động đi làm việc ở nước ngoài,
góp phần tăng thêm nguồn ngân sách của Nhà nước.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội. Nói
xuất khẩu lao động thực chất là xuất khẩu sức lao động không tách khỏi người
lao động. Do vậy, mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động
phải kết hợp với các chính sách xã hội. Phải đảm bảo làm sao để người lao
động ở nước ngoài được lao động như đã cam kết trong hợp đồng lao động,
cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi họ hoàn

thành hợp đồng ở nước ngoài và trở về nước.
Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước và sự chủ động tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất khẩu lao động.
Nếu như trước đây (giai đoạn 1980 – 1990) Việt Nam tham gia thị
trường lao động, về cơ bản Nhà nước vừa quản lý Nhà nước vừa quản lý về
hợp tác lao động với nước ngoài, Nhà nước làm thay cho các tổ chức kinh tế về
hoạt động xuất khẩu lao động. Ngày nay, trong cơ chế thị trường và hội nhập
quốc tế thì hầu như toàn bộ hoạt động xuất khẩu lao động đều do các tổ chức
xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hợp đồng đã ký. Đồng thời, các tổ
chức xuất khẩu lao động phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về hiệu quả kinh tế
trong hoạt động xuất khẩu lao động của mình. Như vậy, các hiệp định, các thoả

21


thuận song phương mà Chính phủ ký kết chỉ mang tính chất nguyên tắc, thể
hiện vai trò và trách nhiệm của nhà nước ở tầm vĩ mô.
Xuất khẩu lao động diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt. Tính gay gắt trong cạnh tranh của xuất khẩu lao động xuất phát từ hai
nguyên nhân chủ yếu. Một là, xuất khẩu lao động mang lại lợi ích kinh tế khá
lớn cho các nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm, do vậy, đã buộc các
nước xuất khẩu lao động phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị trường ngoài
nước. Hai là, xuất khẩu lao động đang diễn ra trong môi trường suy giảm kinh
tế trong khu vực: Nhiều nước trước đây thu nhận nhiều lao động nước ngoài
như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…cũng đang phải đối đầu với tỉ lệ thất
nghiệp ngày càng gia tăng. Điều này hạn chế rất lớn đến việc tiếp nhận lao
động và chuyên gia nước ngoài trong thời gian những năm đầu của thế kỷ
21.Như vậy, các chính sách và pháp luật của Nhà nước cần phải lường trước
được tính chất cạnh tranh gay gắt trong xuất khẩu lao động để có chương trình
đào tạo có chất lượng cao để xuất khẩu.

Xuất khẩu lao động phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ xuất
khẩu lao động. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, lợi ích kinh tế của Nhà nước
là khoản ngoại tệ mà người lao động gửi về, các khoản thuế, lợi ích của các tổ
chức xuất khẩu lao động là các khoản thu được chủ yếu là các loại phí giải quyết
việc làm ngoài nước, còn lợi ích của người lao động là khoản thu nhập thường là
cao hơn nhiều so với lao động ở trong nước. Do vậy, các chế độ chính sách của
Nhà nước phải tính toán sao cho đảm bảo được sự hài hoà lợi ích của các bên,
trong đó phải chú ý đến lợi ích trực tiếp cuả người lao động.
Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến đổi. Bởi vì, hoạt động xuất
khẩu phụ thuộc rất nhiều vào các nước có nhu cầu nhập khẩu lao động, do
vậycần phải có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước ngoài đang và sẽ được

22


thực hiện để xây dựng chính sách đào tạo và chương trình đào tạo giáo dục,
định hướng phù hợp và linh hoạt. Chỉ có những nước nào chuẩn bị đội ngũ
công nhân với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận lợi hơn trong việc
chiếm lĩnh thị phần lao động ở ngoài nước và cũng chỉ có nước nào nhìn xa,
trông rộng, phân tích đánh giá và dự đoán đúng tình hình mới không bị động
trước sự biến đổi của tình hình đưa ra chính sách đón đầu trong hoạt động xuất
khẩu lao động.
Không có sự giới hạn theo không gian đối với hoạt động xuất khẩu lao
động. Thị trường xuất khẩu lao động với một quốc gia xuất khẩu lao động càng
phong phú và đa dạng bao nhiêu thì càng tốt. Nó làm tăng các loại ngoại tệ,
giảm rủi ro trong xuất khẩu lao động và nó cũng thể hiện khả năng cạnh tranh
mạnh mẽ của quốc gia đó.
2.1.4 Vai trò của xuất khẩu lao động đến đời sống của người dân
Xuất khẩu lao động đóng một vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình
phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt là những nước có nền kinh tế chậm và

đang phát triển như Việt Nam.
Xuất khẩu lao động có một vai trò đặc biệt trong việc giải quyết việc
làm và ổn định thị trường lao động. Đối với các quốc gia có nền kinh tế chưa
phát triển khối lượng việc làm tạo ra trong xã hội là rất hạn chế so với khối
lượng lao động trong độ tuổi rất dồi dào của họ bởi vậy thất nghiệp và giải
quyết việc làm luôn là vấn đề đau đầu của các nhà lãnh đạo quốc gia.
Ở Việt Nam, hiện nay có trên 500.000 người lao động và chuyên gia làm
việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề. Theo
số liệu mới nhất từ Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội), trong 5 năm (2010 – 2014) trung bình mỗi năm hơn 88.000
lao động ra nước ngoài làm việc, tính riêng năm 2014 cả nước đã đưa được
106.840 lao động đi làm việc ở nước ngoài, tăng 18,7% so với kế hoạch đề ra

23


(90.000 người). Đây là số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài cao nhất
trong những năm gần đây.
Bảng 2.1 Số lượng lao động sang nước ngoài làm việc hằng năm giai đoạn
(2011 – 2014)
Năm
2011
2012
Số lao động (người)
88 298
80 320
(Nguồn: Bộ lao động và thương binh xã hội)

2013
88 135


2014
106 840

Biểu đồ 2.1 Số lượng lao động sang nước ngoài làm việc giai đoạn (2011 –
2014)
Với những con số ấn tượng trên chúng ta có thể nhận thấy rằng XKLĐ đã giải
quyết được việc làm cho một khối lượng lớn lao động, tỷ lệ lao động trong
tổng số lao động được giải quyết việc làm ngày một tăng. Còn đối với các
quốc gia nhập khẩu lao động thì việc nhận thêm lao động sẽ giúp họ giải quyết
được tình trạng thiếu hụt lao động trong những ngành nghề mà lao động trong
nước không muốn làm như lương thấp, vất vả nặng nhọc hoặc những công việc
cần lao động thủ công hay thiếu hụt lao động do nguồn lao động trong nước ít.
Xuất khẩu lao động làm tăng thu nhập và góp phần vào công cuộc xóa
đói giảm nghèo ở địa phương. Không chỉ đơn thuần mang tính chất giải quyết
việc làm cho số lao động dư thừa mà xuất khẩu lao động còn góp phần rất lớn
và công cuộc xóa đói giảm nghèo của đất nước nhờ có khoản thu nhập cao hơn
rất nhiều so với mức lương ở trong nước điển hình như thu nhập tại các quốc
gia: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Australia…Với con số ngoại tệ gửi về
nước trong những năm gần đây trung bình mỗi năm gửi về từ 1,6 tỷ đến 2
tỷ USD. Trong đó từ Hàn Quốc trên 700 triệu USD, Nhật Bản hơn 300 triệu
USD Năm 2010, Việt Nam đứng thứ 16 trong 30 quốc gia có lượng kiều hối
chuyển về nhiều nhất, là một trong 10 quốc gia có thu nhập lớn từ xuất khẩu
lao động. Không dừng lại ở đó, xuất khẩu lao động còn góp phần tăng ngân
sách nhà nước nhờ có những khoản thuế thu từ hoạt động của các doanh
nghiệp XKLĐ và từ khoản ngoại tệ lao động gửi về nước. Như vậy XKLĐ vừa

24



trực tiếp lẫn gián tiếp góp phần thúc đẩy sự phát triển, ổn định xã hội và thực
sự XKLĐ đã trở thành một giải pháp hữu hiệu đối với công cuộc xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao
động đặc biệt ở khu vực nông thôn. Nguồn lợi về kinh tế của công tác xuất
khẩu lao động là rất lớn đã tạo ra những chuyển biến cơ bản làm thay đổi bộ
mặt nông thôn, nâng cao mức sống cho nhiều hộ nông dân.
Xuất khẩu lao động đã làm nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn và
lao động sẽ được tiếp cận với nhiều công nghệ, máy móc hiện đại hơn. Lao
động khi làm việc ở nước ngoài sẽ học hỏi được nhiều kiến thức, tác phong
làm việc, kinh nghiệm thực tế, sau đó là trình độ nhận thức cũng được nâng
lên. Do đó tình trạng lao động nông thôn có trình độ chuyên môn thấp, ít
chuyên sau được cải thiện phần nào. Thông qua đó quốc gia có lao động đi
xuất khẩu sau khi về nước sẽ có được một đội ngũ lao động có tay nghề trình
độ cao, có tác phong công nghiệp và ý thức kỷ luật cao hơn.
Hoạt động XKLĐ còn là cầu nối để các quốc gia tăng cường quan hệ
hợp tác về mọi mặt giúp cho sự giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới
ngày càng mở rộng. Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực XKLĐ là vô cùng quan
trọng. Nhờ đó mà quan hệ nước cung ứng lao động và nước tiếp nhận lao động
trở nên gắn bó, hiểu nhau hơn tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Hoạt
động XKLĐ trên cơ sở hai nước cùng có lợi, là cầu nối để các quốc gia tăng
cường quan hệ hợp tác mọi mặt, giúp cho sự giao lưu giữa các nền văn hóa
trên thế giới này càng được mở rộng.
Tóm lại công tác XKLĐ có một vai trò rất lớn đối với một quốc gia bởi
vậy Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đây là một trong những công tác trọng
điểm mang tính chiến lược cho quốc gia trong thời gian tới.
2.1.5 Các nhân tố tác động đến xuất khẩu lao động


Điều kiện kinh tế chính trị, tình hình dân số, nguồn lao động của nước tiếp
nhận lao động


25


×