HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
__________________
***
__________________
HOÀNG THỊ NHUNG
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT TÁO LAI TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
PHÌ ĐIỀN, HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
HÀ NỘI – 2015
1
1
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
__________________
***
__________________
HOÀNG THỊ NHUNG
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT TÁO LAI TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
PHÌ ĐIỀN, HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên sinh viên
: Hoàng Thị Nhung
Chuyên ngành đào tạo: Kinh tế nông nghiệp
Lớp
: K56 KTNNA
Niên khóa
: 2011 - 2015
Giảng viên hướng dẫn
: GS.TS Nguyễn Văn Song
HÀ NỘI – 2015
2
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này
là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một khóa luận nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ của khóa luận này đã được cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong khóa luận này đều được ghi rõ nguồn gốc, đồng
thời tôi xin cam đoan rằng trong quá trình thực hiện đề tài này tại địa phương
tôi luôn chấp hành đúng mọi quy định của địa phương nơi thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 01tháng 06 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Thị Nhung
3
3
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp vừa qua, để hoàn thành được đề tài
tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm
giúp đỡ của các tập thể, các cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới quý thầy giáo, cô giáo
khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, những
người đã truyền đạt cho tôi rất nhiều kiến thức bổ ích và đã hết sức tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Thầy GS.TS Nguyễn Văn
Song. Thầy đã dành rất nhiều thời gian cũng như tâm huyết, tận tình hướng dẫn
chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban thống kê xã Phì Điền đã cung cấp cho tôi
những số liệu cần thiết và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề
tài tại địa bàn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình và bạn bè đã
khích lệ, cổ vũ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Trong quá trình nghiên cứu vì nhiều lý do chủ quan, khách quan, khóa luận
không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự thông
cảm và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và độc giả để khóa luận được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 06 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Thị Nhung
4
4
TÓM TẮT
Việt Nam là một nước có nền nồng nghiệp truyền thống từ rất lâu đời,
trong những năm qua nông nghiệp trong nước đã gặt hái được rất nhiều thành
tựu quan trọng. Điển hình nổi bật trong ngành nông nghiệp đó là ngành trồng
trọt, trở thành một ngành sản xuất chính trong nông nghiệp nông thôn và mang
lại thu nhập cao cho người dân, đóng góp đáng kể trong thu nhập và cải thiện
mức sống của hộ gia đình.
Nước ta là một nước có khí hậu thổ nhưỡng khá thuận lợi cho việc trồng
và phát triển cây ăn quả. Cây ăn quả là một trong những thế mạnh kinh tế Việt
Nam và có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Vì vậy phát triển
những sản phẩm đặc sản có chất lượng cao đang là một trong những hướng
phát triển bền vững cho nông nghiệp Việt Nam.
Phì Điền là một xã nghèo thuộc một trong bốn huyện miền núi của tỉnh
Bắc Giang. Nói đến Lục Ngạn người ta sẽ nhắc đến kinh tế vườn, đặc biệt là vải
thiều, đặc biệt những năm gần đây ngoài đặc sản vải thiều ra đã có thêm rất
nhiều loại cây ăn quả được trồng như bưởi Diễn, cam Canh,…trong đó, táo lai là
một trong những sản phẩm được xem là bén duyên với mảnh đất đồng của xã Phì
Điền. Người dân xã Phì Điền cho rằng “táo là cây cứu đói và làm giàu của người
dân”, và đang dần trở thành một trong những đặc sản của quê hương Lục Ngạn.
Xuất phát từ thực tiễn tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Phát triển sản
xuất táo lai trên địa bàn xã Phì Điền, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”.
Để thực hiện được điều đó cần đưa ra mục tiêu cho đề tài. Mục tiêu chung của
đề tài là: Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng phát triển sản xuất Táo lai
trên địa bàn xã Phì Điền, từ đó đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
sản xuất táo lai cho địa bàn nghiên cứu trong thời gian tới”. Được cụ thể hóa
bằng bốn mục tiêu cụ thể sau: Thứ nhất, góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và
thực tiễn về phát triển sản xuất táo lai; thứ hai, đánh giá thực trạng phát triển sản
xuất cây táo lai của các hộ nông dân trên địa bàn xã Phì Điền; thứ ba, phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất táo lai của các hộ nông dân trên địa
5
5
bàn xã Phì Điền; thứ tư, đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
phát triển sản xuất Táo lai cho các hộ nông dân trên địa bàn xã Phì Điền
trongthời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động nhằm phát triển sản xuất
Táo lai của các hộ nông dân xã Phì Điền.
Cơ sở lý luận của đề tài bao gồm các vấn đề: cơ sở lý luận của đề tài bao
gồm vấn đề về phát triển, lý thuyết sản xuất, nội dung về phát triển sản xuất và
cơ cấu chuyển dịch cơ cấu đất nông nghiệp. Theo đó, nội dung của phát triển sản
xuất là quá trình biến động về diện tích, năng suất, sản lượng, giá bán, thị trường
tiêu thụ, chất lượng...qua đó đánh giá được hiệu quả kinh tế từ việc trồng táo của
các hộ nông dân để từ đó tiến hành mở rộng quy mô sản xuất cũng như nâng cao
thu nhập cho hộ nông dân.
Khi nghiên cứu thực tiễn về tình hình sản xuất táo ở một số nước trên thế
giới và nước ta nói chung, nghiên cứu đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho
phát triển sản xuất táo lai trên địa bàn xã Phì Điền, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc
Giang. Ngoài ra nghiên cứu cũng khái quát được đặc điểm địa bàn nghiên cứu và
đưa ra phương pháp nghiên cứu để làm rõ hơn hoạt động phát triển sản xuất táo
laiđược tiến hành trên địa bàn xã.
Kết quả nghiên cứu 60 hộ gia đình trên địa bàn xã Phì Điền, huyện Lục
Ngạn, tỉnh Bắc Giang tập trung tại hai thôn: thôn Chay và thôn Phì. Qua đó cho
thấy tình hình phát triển sản xuất táo lai trên địa bàn xã như sau: Trong những
năm qua việc phát triển sản xuất táo lai cả về diện tích, sản lượng cũng như giá
cả đều tăng lên, đem lại hiệu quả kinh tế cao, và táo lai dần trở thành cây ăn quả
chính của xã sau quả vải thiều (diện tích năm 2012 là 18,01 ha và giá trị sản xuất
là gần 2 tỷ đồng đến năm 2014 diện tích tăng lên là 21,09 ha và tăng giá trị sản
xuất gần gấp đôi so với năm 2014 là 4 tỷ đồng). Thị trường táo đã được mở rộng
đến nhiều khu vực khác trong cả nước nhất là khu vực trung tâm thành phố và
các điểm du lịch trên cả nước. Qua đó thấy được hiệu quả kinh tế táo đem lại
ngày một cao. Bình quân cứ một 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ thu được 6,24 đồng giá
trị sản xuất.
6
6
Bên cạnh những mặt thuận lợi đó thì người nông dân luôn phải đối mặt
với không ít khó khăn trong sản xuất, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản
xuất táo lai như: Ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào như đất đai, lao động, giống
cây; trình độ sản xuất; ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên đã làm ảnh hưởng
không ít đến phát triển năng suất sản lượng của táo lai; ảnh hưởng bởi điệu kiện
kinh tế xã hội như yếu tố về tập quán sản xuất lạc hậu và thói quen tiêu dùng
trong khi nhu cầu sử dụng về sản phẩm của người tiêu dùng ngày một cao, tác
động của thị trường đầu ra, thị trường giá cả đã tác động mạnh đến quá trình
sản xuất của hộ nông dân; những tác động của chính sách hay quy mô sản xuất
làm cho việc mở rộng diện tích đất trồng táo còn gặp nhiều khó khăn.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đẩy mạnh và phát triển cây ăn quả nói
chung và cây táo lai nói riêng đúng với vai trò và tầm quan trọng của nó trong cơ
cấu kinh tế của xã trong những năm tới. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong quá trình phát triển sản xuất táo lai trên địa bàn xã Phì Điền, đề tài đề xuất
một số giải pháp như sau: (1) Tổ chức đầu tư thâm canh nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập; (2) mở rộng thị trường tiêu thụ, hoàn thiện
mạng lưới dịch vụ tiêu thụ sản phẩm; (3) tăng cường quảng bá sản phẩm và xây
dựng thương hiệu để táo lai có thể góp mặt trên thị trường một cách lâu dài và
ổn định; (4) giải pháp về kỹ thuật trong sản xuất như hỗ trợ và đáp ứng đúng
chủng loại và chất lượng giống, chú trọng công tác chăm sóc và phòng trừ sâu
bệnh cho táo lai; (4) bổ sung và hoàn thiện một số chính sách trong nông nghiệp
như chính sách đất đai, ban hành cơ chế chính sách cho việc chuyển đổi đất trồng
lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả; (5) bổ sung và hoàn thiện một số chính
sách trong nông nghiệp; (6) và một số giải pháp khác như Bảo hiểm cho nông
sản, phát triển cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, môi trường – xã hội…
Cuối cùng, để các giải pháp đưa ra đạt được hiệu quả tôi đưa ra kiến nghị đối
với cơ quan Nhà nước, chính quyền địa phường và người sản xuất. Các kiến nghị
này nếu được thực hiện tốt thì việc phát triển sản xuất táo lai trên địa bàn xã Phì
Điền, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang sẽ đạt được những kết quả đáng khích lệ,
7
7
giải quyết phần nào việc làm cho người lao động đồng thời nâng cao thu nhập và
phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
8
8
MỤC LỤC
9
9
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HỘP
10
10
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
11
11
DANH MỤC VIẾT TẮT
ATTP
An toàn thực phẩm
BVTV
Bảo vệ thực vật
CC
Cơ cấu
CN
Công nghiệp
DT
Diện tích
ĐVT
Đơn vị tính
GTSX
Giá trị sản xuất
Ha
Héc ta
HC
Hành chính
LĐ
Lao động
NN
Nông nghiệp
PTNT
Phát triển nông thôn
SL
Sản lượng
SX
Sản xuất
TMDV
Thương mại dịch vụ
TTCN
UBND
12
Tiểu thủ công nghiệp
Ủy ban nhân dân
12
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Tínhcấpthiếtcủa đềtài
Ngành nông nghiệp của nước ta đang dần khẳng định vai trò và đứng
vững trên thị trường không chỉ trong nước mà còn ngoài nước. Trong những
năm qua, ngành kinh tế nói chung cũng như ngành nông nghiệp nói riêng đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Điển hình là ngành trồng trọt đã và đang trở
thành ngành sản xuất chính trong lĩnh vực nông nghiệp, không chỉ nâng cao thu
nhập cho các hộ nông dân mà còn phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Cây ăn quả là một trong những thế mạnh kinh tế Việt Nam, có vai trò rất
quan trọng trong sự phát triển kinh tế Việt Nam, sản phẩm cây ăn quả cung cấp
không chỉ đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước mà còn xuất khẩu sang các
nước trong khu vực và đang vươn xa tới một vài thị trường lớn trên thế giới như
Châu Âu, và Hoa Kỳ.
Với sự gia tăng về dân số, và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thì
vấn đề ăn no mặc ấm không còn là vấn đề lớn nữa, mà là chú trọng tới vấn đề ăn
ngon mặc đẹp. Vì vậy các sản phẩm về quả ngày càng được sử dụng nhiều trong
đời sống hàng ngày.
Cùng với sự phát triển của xã hội cũng như các ngành công nghiệp
khác,sản phẩm cây ăn quả ở Việt Nam không chỉ sử dụng để ăn tươi mà hiện nay
sản phẩm cây ăn quả cũng được dùng làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến
nhằm đáp ứng không ngừng nhu cầu ngày một cao của con người.
Cây ăn quả nói chung và cây táo lai nói riêng có hàm lượng chất dinh
dưỡng cao, đang được xem là đối tượng quan trọng nhằm chuyển đổi cơ cấu cây
trồng nông nghiệp. Để có một chế độ ăn uống lành mạnh và cân bằng, không thể
bỏ qua các loạitáo. Một quả táo là thực tế chúng ta có thể ăn bất cứ lúc nào hoặc
bất cứ nơi nào. Táo chiếm vị trí rất quan trọng trong kim tự tháp dinh dưỡng
thực phẩm và là một nguồn cung cấp khoáng cần thiết hàng ngày, vitamin,
enzyme và chất sơ của táo có thể trợ giúp để giữ cho cơ thể của chúng ta trong
sự cân bằng.Hơn nữa, các chất chống oxy hóa trong táo cung bảo vệ chống lại
các bệnh nguy hiểm như bệnh tim và ung thư. Táo cótác dụng làm giảm mức độ
cholesterol trong máu của chúng ta và chứa ít calo. Vì vậy, có những lý do đủ để
13
13
có một vài quả Envy "phá vỡ thói quen ăn uống" hàng ngày của con người có
những lợi ích tốt cho sức khỏe .
Nước ta là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có nhiều vùng tiểu
khí hậu thích hợp cho phát triển sản xuất nhiều loại cây ăn quả trong đó có cây
Táo cho năng suất cao, chất lượng tốt nếu có hướng đầu tư và kỹ thuật tốt.
Phì Điền là một trong những xã nghèo thuộc huyện miền núi, dân cư sống
thưa thớt, chủ yếu canh tác bằng nghề thuần nông. Là xã có có vị trí địa lý giáp
hồ Giáp Sơn nên có điều kiện thuận lợi cho việc canh tác các loại cây trồng. Điển
hình một số cây trồng như: Vải thiều, táo lai, bưởi Diễn, cam Canh…
Táo là loại cây ưa ẩm, đem lại năng suất cao nên những năm qua đã có
nhiều hộ dân đã mạnh dạn đưa các loại giống cây táo lai như táo Xuân 21, táo
Đài Loan, táo, táo Đại, táo Đào Vàng…vào sản xuất và đạt hiểu quả kinh tế cao.
Theo Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Lục Ngạn (Bắc Giang), năm nay,
toàn huyện có hơn 100 ha táo Đài Loan cho thu hoạch. Diện tích táo tập trung tại
các xã: Biển Động, Phì Điền, Giáp Sơn, Thanh Hải. Sản lượng ước đạt hơn 800
tấn, tăng gấp đôi so với năm ngoái. Thời điểm này, giá bán bình quân 30 nghìn
đồng/kg tại vườn cho thương nhân ở Hà Nội, Bắc Ninh, TP Bắc Giang, doanh thu
từ táo đạt hơn 26 tỷ đồng.(Trịnh Lan, 2015)
Qua đó có thể thấy được, cây táo lai không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao
cho bà con nông dân mà còn giúp nông dân thoát nghèo và vươn lên làm giàu từ
cây Táo lai.
Vì những lý do trên tôi quyết định lựa chọn đề tài “Phát triển sản xuất táo
lai trên địa bàn xã Phì Điền, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”
14
14
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1Mục tiêu chung
Trên cơ sở kết quả phân tích, đánh giá thực trạng phát triển sản xuất táo
lai trên địa bàn xã Phì Điền, từ đó đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
sản xuất táo lai cho địa bàn nghiên cứu trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
-
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển sản xuất táo lai
Đánh giá thực trạng phát triển sản xuất cây táo lai của các hộ nông dân trên địa bàn
-
xã Phì Điền.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất táo lai của các hộ nông
-
dân trên địa bàn xã Phì Điền.
Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển sản xuất táo lai
cho các hộ nông dân trên địa bàn xã Phì Điền trongthời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động nhằm phát triển sản
xuất táo lai của các hộ nông dân xã Phì Điền
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển sản xuất táo lai trong những
năm gần đây, các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển sản xuất táo lai và đưa ra các
giải pháp để phát triển sản xuất táo lai phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương.
1.3.2.2 Phạm vi không gian
-
Đề tài được thực hiện trên địa bàn xã Phì Điền, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
1.3.2.3 Phạm vi thời gian
- Thu thập các thông tin, tài liệu và số liệu thứ cấp thống kê từ năm 2012 đến năm
2014.
- Số liệu sơ cấp sẽ khảo sát năm 2015.
-
Giải pháp định hướng phát triển sản xuất táo lai những năm 2016 – 2020
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
15
15
-
Thực trạng phát triển sản xuất táo lai trên địa bàn xã Phì Điền như thế nào?
Sản xuất táo lai có thật sự mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ nông dân
-
trên địa bàn xã Phì Điền?
Các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển sản xuất táo lai trên địa bàn xã như thế nào?
Các biện pháp nào cần thiết cho sự phát triển sản xuất táo lai để mang lại hiệu
quả cao?
16
16
Phần II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN SẢN
XUẤT TÁO LAI
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Các khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm phát triển
a) Khái niệm
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lenin, quan điểm siêu hình: Phát triển
chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật,
đồng thời phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước
quanh co phức tạp.
Phép biện chứng duy vật cho rằng: Phát triển là sự vận động theo hướng
đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện của sự vật
Khái niệm “phát triển” và khái niệm “vận động” có sự khác nhau: Vận động
là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống,
tiến bộ hay lạc hậu, còn phát triển là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện
của sự vật. Phát triển là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và
kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật. (Tô
Văn Sông, 2009)
Theo ngân hàng thế giới: “Phát triển trước hết là sự tăng trưởng về kinh
tế, nó còn bao gồm cả những thuộc tính quan trọng và liên quan khác, đặc biệt là
sự bình đẳng về cơ hội, sự tự do về chính trị và các quyền tự do của con người”
(World Bank, 1992).
Theo Raaman Weitz (1995): “Phát triển là một quá trình thay đổi liên tục
làm tăng trưởng mức sống của con người và phân phối công bằng những thành
quả tăng trưởng trong xã hội”.
17
17
Tuy có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển, nhưng giữa các ý kiến
đều có điểm chung khi cho rằng phát triển thuộc phạm trù vật chất, tinh thần và
là hệ thống giá trị trong cuộc sống con người. Mục tiêu chung của phát triển là
nâng cao các quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quyền tự do công
dân.
Phát triển kinh tế là một thành phần quan trọng trong sự phát triển. Phát
triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng
và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Đó là sự tiến bộ, thịnh vượng và cuộc sống
tốt đẹp hơn. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và
chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã
hội ở mỗi quốc gia.
Nói tóm lại, phát triển kinh tế là sự phát triển trong đó bao gồm cả sự tăng
thêm về quy mô, số lượng cũng như sự thay đổi cấu trúc theo chiều hướng tiến bộ
của nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng của sản phẩm để đạt đến đích cuối
cùng đó là tăng hiệu quả kinh tế.
Như vậy, phát triển bên cạnh tăng thu nhập bình quân đầu người, còn bao
gồm cả khía cạnh như nâng cao phúc lợi nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống,
cải thiện giáo dục, cải thiện sức khỏe và đảm bảo sự bình đẳng cũng như quyền
công dân. Phát triển còn là sự tăng bền vững về các tiêu chuẩn sống, bao gồm
tiêu dùng vật chất, giáo dục, sức khỏe và bảo vệ môi trường. Phát triển là những
thuộc tính quan trọng và liên quan khác, đặc biệt là sự bình đẳng về cơ hội, sự tự
do về chính trị và quyền tự do công dân của con người.(Bách khoa toàn thư,
2007)
b. Tính chất cơ bản của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có các tính chất cơ bản sau:
+Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là
18
18
quá trình giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là
thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn con người.
+Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển
diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện
tượng và mọi quá trình; trong mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng.
+Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát
triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng song trong mỗi sự vật,
hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau. Sự vật, hiện tượng tồn tại
trong thời gian, không gian khác nhau có sự phát triển khác nhau.
Trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, các
hiện tượng hay quá trình khác, của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể, sự thay
đổi của các yếu tố tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật.
2.1.1.2 Lý thuyết về sản xuất
Xuất phát từ nhân tố “con người hiện thực”, Các Mác cho rằng, tiền đề đầu
tiên của mọi sự tồn tại của con người là sự việc: “Con người ta phải có khả năng
sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử”. Để được như vậy, con người cần đảm bảo
thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu về cơm ăn, áo mặc, nhà ở, quần áo,... Tất cả
những yếu tố đó chỉ có thể được tạo ra từ sản xuất vật chất, sản xuất vật chất
chính là nền tảng của mọi hoạt động thực tiễn cũng như nhận thức của con
người. Vậy, sản xuất là gì?
Theo quan điểm phổ biến nhất trên thế giới thì sản xuất là quá trình tạo ra
sản phẩm hoặc dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trường, người ta cho rằng bất cứ hành vi nào nhằm
đáp ứng nhu cầu thị trường đều được gọi là hành vi sản xuất. Như vây sản xuất
theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lĩnh vực lưu thông hàn hóa và kinh doanh dịch
vụ (Lương Xuân Chính và Trần Văn Đức, 2011)
Theo Bách khoa toàn thư (2014 ) sản xuất hay sản xuất của cải vật chất là
hoạt động chủ yếu trong các hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá
19
19
trình làm ra sản phẩm để sử dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định
sản xuất dựa vào những vấn đề chính sau: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?
sản xuất cho ai? giá thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và
khai thác các nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm?
Theo kinh tế học cổ điển hay kinh tế học vi mô(2014), bàn về sản xuất với
cách tiếp cận của chủ nghĩa cận biên (marginalism). Sản xuất là việc tạo ra hàng
hóa và dịch vụ có thể trao đổi được trên thị trường để đem lại cho người sản xuất
càng nhiều lợi nhuận càng tốt
Liên hiệp quốc khi xây dựng phương pháp thống kê tài khoản quốc gia đã
đưa ra định nghĩa sau về sản xuất: Sản xuất là quá trình sử dụng lao động và
máy móc thiết bị của các đơn vị thể chế (một chủ thể kinh tế có quyền sở hữu tích
sản, phát sinh tiêu sản và thực hiện các hoạt động, các giao dịch kinh tế với
những thực thể kinh tế khác) để chuyển những chi phí là vật chất và dịch vụ
thành sản phẩm là vật chất và dịch vụ khác. Tất cả những hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất ra phải có khả năng bán trên thị trường hay ít ra cũng có khả
năng cung cấp cho một đơn vị thể chế khác có thu tiền hoặc không thu tiền
Có ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất là sức lao động, đối tượng lao
động và tư liệu lao động
Sức lao động: là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng
trong quá trình lao động. Sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động còn lao
động là sự tiêu dùngsức lao động trong thực hiện.
Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con
người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao
động có hai loại. Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như các khoáng
sản, đất, đá, thủy sản... Các đối tượng lao động loại này liên quan đến các
ngành công nghiệp khai thác. Loại thứ hai đã qua chế biến nghĩa là đã có sự tác
động của lao động trước đó, ví dụ như thép phôi, sợi dệt, bông... Loại này là đối
tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến.
Tư liệu lao động: là một vật hay các vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác
động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động
thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Tư liệu lao động lại gồm bộ
20
20
phận trực tiếp tác động vào đối tượng lao động theo mục đích của con người, tức
là công cụ lao động, như các máy móc để sản xuất), và bộ phận trực tiếp hay gián
tiếp cho quá trình sản xuất như nhà xưởng, kho, sân bay, đường xá, phương tiện
giao thông. Trong tư liệu lao động, công cụ lao động giữ vai trò quyết định
đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Nói tóm lại, bản chất của sản xuất là quá trình con người sử dụng công cụ
lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm, hàng hóa và
dịch vụ, thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.(Bách khoa toàn
thư, 2014)
2.1.2 Nội dung phát triển sản xuất táo lai và quá trình chuyển dịch cơ cấu
đất nông nghiệp
Phát triển sản xuất là một quá trình tăng lên về mọi mặt của quá trình sản
xuất trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng lên về quy mô sản
lượng và sự tiến bộ về mặt cơ cấu.
Phát triển sản xuất bao gồm phát triển theo chiều rộng và phát triển theo
chiều sâu. Phát triển theo chiều rộng như việc tăng lên về diện tích, sản lượng,
giá trị (sản phẩm hàng hóa) muốn vậy ta phải tăng diện tích đất cho sản xuất,
đầu tư thêm về giống, khoa học kỹ thuật, tập huấn kỹ thuật, tăng cường đội ngũ
lao động.
Phát triển theo chiều sâu như việc tăng đầu tư thâm canh, từng bước nâng
cao chất lượng sản phẩm đồng thời giá thành của sản phẩm ngày càng hợp lý,
đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu của thị trường trong nước tương lai hướng tới
xuất khẩu, thu hút được nhiều việc làm cho người lao động (chú ý đến đội ngũ lao
động có trình độ), chống suy thoái các nguồn tài nguyên, đảm bảo phát triển bền
vững.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn tạo ra sự tăng trưởng
và tích luỹ từ nông nghiệp nông thôn; góp phần ổn định chính trị - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất tinh thần của cư dân nông thôn nói chung và trực tiếp giải
quyết tại chỗ vấn đề đói nghèo, giảm nghèo nhanh, thiết thực và hiệu quả.
21
21
Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cần lưu ý
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ; đảm bảo tính cân đối hài hoà
giữa trồng trọt và chăn nuôi, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung.
Táo lai là cây trồng có hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi người sản xuất đầu tư
vốn và kỹ thuật chăm sóc không cao. Vì vậy, việc phát triển sản xuất táo lai sẽ
đưa giá trị của ngành nông nghiệp tăng lên, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về
loại quả chất lượng cao của người tiêu dùng; dẫn đến cơ cấu chuyển kinh tế
trong nông nghiệp là tỷ trọng các nông sản có giá trị cao, tỷ trọng hàng hoá lớn
tăng lên.
Việc chuyển dịch một số diện tích cây trồng có năng suất, chất lượng thấp
sang trồng cây ăn quả như táo lai sẽ tạo ra những vùng chuyên môn sản xuất
hàng hoá, tạo thêm công ăn việc làm cho người dân nông thôn, tăng thu nhập
cho người nông dân. Từ đó thúc đẩy kinh tế hàng hoá (kinh tế thị trường) phát
triển ở khu vực nông thôn.
Phát triển sản xuất cây ăn quả nói chung, cây táo lai nói riêng góp phần
làm cho ngành công nghiệp chế biến phát triển, tạo thêm công ăn việc làm cho
một phần lao động nông nghiệp dôi dư ở khu vực nông thôn trở thành công nhân,
thực hiện chủ trương chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp của
Đảng và Nhà nước; đồng thời cung cấp nguồn quả nhanh, chất lượng, quanh năm
cho nhân dân.
Phát triển sản xuất táo lai còn góp phần thúc đẩy việc tìm tòi và áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và sáng tạo trong việc cấy ghép lai tạo
giống cây trồng mới.
Tóm lại, việc phát triển cây ăn quả nói chung và táo lai nói riêng đã góp
phần tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn,
chuyển dịch cơ cấu lao động và là một hướng giảm nghèo hiệu quả.
2.1.3 Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật cây táo lai
2.1.3.1 Đặc điểm kinh tế
22
22
Táo lai chứa nhiều chất chống lão hóa, không sử dụng chất bảo quản nên
rất uy tín trên thị trường cả nước. Với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa rất
thuận lợi cho cây táo phát triển.
Cây táo là loại cây dễ trồng và đầu tư không cao, nhiều năm trước người
nông dân trồng nhỏ lẻ trong vườn nhà thu hoạch quả chủ yếu ăn tươi và tiêu thụ
theo kiểu tự phát. Nhưng những năm gần đây, các loại táo Xuân 21, táo Đào
Vàng, táo lai lê (hay còn gọi là táo Đài Loan), táo Đại, … đã được người dân
mạnh dạn áp dụng vào trồng và đem lại hiệu quả caotrên đất đồng ruộng nên
được nhiều người biết đến hơn, thị trường tiêu thụ được mở rộng nên người dân
trong xã tập trung đầu tư thâm canh mở rộng diện tích.
Trong quá trình sản xuất, hộ nông dân không sử dụng chất kích thích cũng
như hóa chất bảo quản sau thu hoạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo
sức khỏe cho người tiêu dùng. Thị trường tiêu thụ táo lai từng bước được mở rộng ra
các tỉnh thành trong cả nước.
Đặc biệt là trong những năm gần đây, nhờ đưa cây táo lai vào sản xuất mà
đời sống của nhân dân trong xã Phì Điền, huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) đã được
cải thiện đáng kể.
Với giá bán trung bình từ 8-11 nghìn đồng/kg, tính ra 1 ha táo người dân
thu về khoảng 270 triệu đồng. Nhờ hiệu quả kinh tế cao, cây Táo lai đã thực sự
bén duyên, không chỉ góp phần tích cực vào việc xoá đói giảm nghèo mà đã trở
thành cây làm giàu cho nhiều hộ dân ở nơi đây.(Đức Thọ, 2010)
2.1.3.2 Đặc điểm kỹ thuật
a) Đặc tính:
Táo có thể nhân giống bằng hạt, cắm hom, chồi rễ, chiếc và ghép. Phổ biến
hiện nay là phương pháp ghép mắt và ghép áp. Nên dùng táo chua làm gốc ghép.
Hạt trước khi gieo nên đập loại bỏ vỏ rắn ở ngoài để mau nẩy mầm. Gieo hạt vào
23
23
bầu ny lon, sau khoảng 6 tháng là cây có thể ghép được. Mắt ghép lấy ở cành bánh
tẻ, vỏ còn màu đỏ. Nếu ghép áp thì dùng gốc ghép ương trong bầu, cắt cụt ngọn
cách gốc khoảng 20-30 cm vót thành hình nêm rồi luồn vào một lát cắt xiên trên
cành ghép cho vừa khít, dùng dây quấn chặt lại, sau khoảng 15-20 ngày thì liền vỏ.
Sau khi ghép 2-3 tháng là có thể cắt đi trồng. (Khuyết danh, 2011)
b) Điều kiện ngoại cảnh:
Táo có thể ở sống nhiều loại đất nhưng thích hợp đất thịt pha cát, phù sa
ven song. Nhiệt độ thích hợp từ 25 – 30 0C, cần nhiều ánh sáng và đủ ẩm, pH từ 57. Bộ rễ phát triển mạnh, ăn sâu nên chống gió bão tốt, có thể dùng làm cây chắn
gió. (Phạm Dũng, 2015)
c) Giống:
Ở nước ta có nhiều giống táo như táo chua, táo Thiện Phiến ngọt, táo Gia
Lộc..., mới nhập vào giống táo Thái Lan.
- Táo Thiện Phiến: trái to, cơm dày khi chín có màu vàng., cơm màu trắng
hột nhỏ, khỏang 35 – 40 trái/kg, có sức chống chịu tốt, năng suất cao.
- Táo Gia Lộc: trái hình xoan có vị ngọt, chín màu vàng đẹp, khoảng 40 -45
trái/kg, năng suất cao.
- Táo Lào: trái hình xoan, đuôi nhọn, chín màu vàng, khỏang 35 – 40
trái/kg.
- Táo chua: trái hình cầu hoặc hình trái xoan, trái nhỏ khoảng 90-100 trái/kg,
khi chín có mùi thơm, sức chống chịu tốt nên thường được dùng làm gốc ghép.
- Táo Hồng xanh: trái hình tráng, da xanh sậm, có vị chua ngọt, khoảng 3540 trái/kg.
24
24
- Táo Thái Lan (có 2 giống): giống quả tròn và giống quả dài, các giống táo
này trái to, vị chua ngọt.
- Các loại táo lai như táo Xuân 21, táo Đài Loan, táo Đào Vàng, táo Đại…
mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Có nhiều cách nhân giống táo, có thể từ hạt hoặc chiết, ghép cành, nhưng
phổ biến hiện nay là ghép nêm. Gốc ghép là táo chua, có thích nghi điều kiện đất
đai khắc nghiệt.
Táo có thể nhân giống bằng hạt, cắm hom, chồi rễ, chiếc và ghép. Nhân
giống bằng hạt biến dị nhiều nên hiện chỉ dùng làm gốc ghép. Các phương pháp
cắm hom, dùng chồi rễ hoặc chiết còn dùng nhưng ít.
Phổ biến hiện nay là phương pháp ghép mắt và ghép áp. Nên dùng táo
chua làm gốc ghép. Hạt trước khi gieo nên đập loại bỏ vỏ rắn ở ngoài để mau nẩy
mầm. Gieo hạt vào bầu ny lon, sau khoảng 6 tháng là cây có thể ghép được. Mắt
ghép lấy ở cành bánh tẻ, vỏ còn màu đỏ.
Nếu sản xuất nhiều có thể trồng riêng một vườn táo để lấy mắt ghép. Nếu
ghép áp thì dùng gốc ghép ương trong bầu, cắt cụt ngọn cách gốc khoảng 20 30cm vót thành hình nêm rồi luồn vào một lát cắt xiên trên cành ghép cho vừa
khít, dùng dây quấn chặt lại, sau khoảng 15 - 20 ngày thì liền vỏ. Chỉ cần trên
cành ghép có một mắt với một lá là ghép được với một bầu gốc ghép, vì vậy 1
cành ghép có thể buộc nhiều gốc ghép. Sau khi ghép 2 - 3 tháng là có thể cắt đi
trồng, cộng lại từ khi gieo hạt đến khi trồng chỉ 5 - 6 tháng. Phải chăm sóc tốt cây
ghép trước khi trồng. (Phạm Dũng, 2015)
d) Kỹ thuật trồng:
25
25