Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận chủ đề Lý thuyết bộ ba bất khả thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.24 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH

ĐỀ TÀI SỐ 5: BÀI TIỂU LUẬN
LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI

Giảng viên: Ths. Trương Minh Tuấn
Lớp:

Tài chính VB2K17BFN01
Nhóm 10:
HUỲNH HUY TÂM

STT 50

LÊ NGUYỄN NGỌC PHƯỢNG STT 46
NGUYỄN THỊ NGỌC SƯƠNG

STT 48

NGUYỄN TRẦN MI PHƯỢNG

STT 75

TRẦN QUỐC VƯƠNG

STT 71

TPHCM, Ngày 05 tháng 12 năm 2014

1




MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................................................... 2
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................................3

NỘI DUNG ....................................................................................................................................

I/ LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI ..................................................................................... 4

I.1 GIỚI THIỆU VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI. ............................................................................. 4
I.2 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỘC LẬP: ................................................................................ 5
I.3 ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ. ............................................................................................................. 5

I.4 TỰ DO HÓA NGUỒN VỐN(HỘI NHẬP TÀI CHÍNH ................................................... 5

II/ SỰ LỰA CHỌN BỘ BA BẤT KHẢ THI ................................................................................ 7
2.1 ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ - HỘI NHẬP TÀI CHÍNH ............................................................... 7
2.2 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỘC LẬP – HỘI NHẬP TÀI CHÍNH .................................... 14
2.3 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỘC LẬP - ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ .............................................. 15

2


LỜI MỞ ĐẦU
Mức hội nhập của một quốc gia có thể được đánh giá qua sự luân chuyển vào ra dể dàng của
dòng hang hóa, dong vốn và dòng người.
Xét về tốc độ hội nhập thì ta không thể không nói đến 3 yếu tố: Chính sách tiền tệ độc lập, tỷ
giá cố định và tự do hóa dòng vốn(hội nhập tài chính toàn cầu) Hay nói đúng hơn đó là nghiên cứu
về bộ ba bất khả thi này.

Xét về góc độ hội nhập dòng vốn thì tự do hóa hơn. Đó là một yếu tố rất quan trọng và bắt
buộc khi chúng ta mở cửa thị trường tài chính để nền kinh tế hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Hiện nay, không chỉ dòng vốn trong nước được quản lý thông thoáng hơn mà các dòng vốn nước
ngoài cũng được chảy vào dưới nhiều hình thức khác nhau bằng các kênh huy động vốn. như đầu tư
trực tiếp, đầu tư gián tiếp… qua các quỷ đầu tư, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiêp…
bên cạnh có rất nhiều thuận lợi và cũng không ít những khó khăn bất cập, rủi ro và thách thức như
hiện tượng bong bong tài chính, sự sốc vốn, nguy cơ tháo chạy vốn….
Vì vậy làm thể nào để quản lý tốt nhất trong một thị trường như vậy ta phải nghiên cứu xem
bộ ba bất khả thi này như thế nào và đưa ra cách quản lý phù hợp nhất, tốt nhất cho từng môi
trường.

0

3


NỘI DUNG
1. LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI
1.1. Giới thiệu về bộ ba bất khả thi.
Trong nền kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài, ba yếu tố gồm: Dòng vốn chảy vào và chảy ra.
Tỷ giá hối đoái, lạm phát luôn có liên hệ mật thiết với nhau.
Khi tài khoản vốn được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn định thì ngân hàng trung ương
buộc phải tung đồng nội tệ mua đồng ngoại tệ trong trường hợp dòng tiền đi vào quá nhiều. ngược
lại, một lượng ngoại tệ dự trữ sẻ phải bán bớt ra để thu vào đồng nội tệ khi dòng vốn đảo chiều.
Trong bối cảnh như vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền
không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền vào ra quyết định.
Ngược lại khi tài khoản vốn đã được tự do, nếu ngân hàng trung ương muốn có một chính sách
tiền tệ độc lập vì mục tiêu lạm phát thì buộc phải từ bỏ mục tiêu cố định tỷ giá.
Trong kinh tế học, tình huống này được gọi là”bộ ba bất khả thi” theo lý thuyết này một quốc gia
không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc ba mục tiêu chính sách vĩ mô mà chỉ có thể chọn tối đa

hai trong ba mục tiêu:
 Tự do hóa dòng vốn
 Tỷ giá hối đoái cố định
 Chính sách tiền tệ độc lập.
Tự do hóa dòng vốn

SƠ ĐÒ BỘ BA BẤT
KHẢ THI

Chính sách tiền
tệ độc lập

Chính sách tỷ
giá cố định

Sơ đồ bộ ba bất khả thi về tự do hóa dòng vốn

-

Khi ngân hàng TW thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì tỷ giá hối đoái sẻ tăng lên,

khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì tỷ giá giảm đi. Như thế, nếu chỉ thực hiện một chính
sách độc lập và tự do hóa dòng vốn thì chế độ tỷ giá không thể cố định được mà buộc phải linh hoạt
để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ độc lập.

4


-


Giả sử một nước cố gắng thực hiện cả ba chính sách trên đồng thời. Khi kinh tế tăng

trưởng nhanh, vốn nước ngoài sẽ chảy vào trong nước gây ra áp lực tăng giá nội tệ. Khi đó, ngân
hàng TW muốn bảo vệ chế độ tỷ gía cố định thì phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Song
điều này có thể làm tăng lượng cung tiền trong lưu thông dẫn đến tăng tốc lạm phát. Muốn lạm phát
không tăng tốc, thì phải thực hiện chính sách thanh khoản đối ứng. Song như thế thì vốn nước ngoài
càng chảy vào nhiều hơn.
1.2 Chính sách tiền tệ độc lập
Chính sách tiền tệ độc lập là những chính sách mà nhà nước thực hiện để nhằm mục đích điều tiết
kinh tế, nhưng không quan tâm đến những những chính sách đến tỉ giá hay tăng giảm, hay các biến
số kinh tế khác.
Độc lập tiền tệ giúp cho các nha đầu tư và các doanh nghiệp chủ động sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ để thực hiện chính sách phản chu kỳ kinh tế. Chẳng hạn nền kinh tế có dấu hiệu phát
triển nóng, các nhà đầu tư sẻ tăng lãi suất hoặc thắt chặt cung tiền và ngược lại. trong các trường
hợp này thì các nhà đầu tư và doanh nghiệp không quan tâm đến tỉ giá tăng hay giảm và các biến số
kinh tế khác. Chính vì sự độc lập tiền tệ này mà nhiều nhà kinh tế tin rằng chúng sẻ giúp nền kinh tế
tăng trưởng ổn định hơn. Tuy nhiên độc lập tiền tệ quá mức có thể là một các cớ để các nhà đầu tư
và doanh nghiệp thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong ngắn hạn.
Độc lập nhiều hơn sẻ dể dẫn đến bất ổn định trong tăng trưởng và nguy cơ lạm phát cao. Đó là
chưa kể độc lập tiền tệ quá mức.
1.3 Ổn định tỷ giá.
Tỷ gía được quyết định bởi ngân hàng TW. NHTW công bố mức tỷ giá chính thức và cam
kết can thiệp để duy trì một mức tỷ giá cố định, gọi là tỷ giá trung tâm trong một biên độ hẹp đã
được định trước và để duy trì chuyển đổi đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài theo giá
công bố giá đã ấn định thì NHTW phải điều hòa lượng ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để đảm
bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ.
Ổn định tỷ giá giúp tạo ra các neo danh nghĩa giúp cho các doanh nghiệp bình ổn giá cả.Cái
neo này giúp cho các nhà đầu tư bớt đi các rủi ro của nền kinh tế. làm tăng thêm niềm tin trong công
chúng về đồng nội tệ. Tất cả giúp cho môi trường đầu tư tốt hơn. Tuy nhiên tỷ giá cố định hay ổn
định quá mức đều có mặt trái của nó. Tỷ giá ổn định quá mức các doanh nghiệp và các nhà đầu tư

mất đi công cụ hấp thu các cú sóc bên trong và bên ngoài của nền kinh tế. dẫn đến nền kinh tế kém
hấp dẫn. trong một vài trường hợp.
1.4 Tự do hóa nguồn vốn(hội nhập tài chính)

5


-

Lý luận về dòng vốn:

Vốn có vai trò rất quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Theo nghĩa rộng, vốn được hiểu là toàn
bộ của cải vật chất do con người tạo ra, tích lũy lại và những yếu tố tự nhiên được sử dụng vào quá
trình sản xuất. Theo nghĩa hẹp, vốn là một trong những yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản
xuất. Theo nghĩa này vốn tồn tại dưới hai hình thức: vốn hiện vật và vốn tài chính.
Vốn hiện vật tồn tài dưới hình thức vật chất của quá trình sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết
bị, nguyên vật liệu….
Vốn tài chính (vốn tiền tệ) là vốn tồn tại dưới hình thức tiền tệ hay các loại chứng khoán. Ở
đây ta chỉ nghiên cứu yếu tố tự do hóa dòng vốn tiền tệ.
Bộ phận vốn tiền tệ được dành cho một mục đích nhất định được gọi là quỷ tiền tệ.
Quỹ tiền tệ trong nền kinh tế gồm 5 loại:


Quỹ tiền tệ của nhà nước.



Quỹ tiền tệ của khu vực dân cư.




Quỹ tiền tệ của các tổ chức chính trị xã hội.



Quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Đây là quỹ

tiền tệ của khâu trực tiếp sản xuất kinh doanh.


Qũy tiền tệ của các tổ chức tài chính trung gian.

- Lý luận về tự do hóa dòng vốn.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm về quá trình tự do hóa dòng vốn . Mỡ cửa dòng vốn đến mức
độ nào thì được coi là tự do hóa. Tại nước ta, Ngân hàng nhà nước Viết Nam định nghĩa như sau:
“Tự do hóa dòng vốn (còn có tên gọi khác là tự do hóa tài khoản vốn hay tự do hóa thị trường vốn)
là quá trình giảm thiểu và dỡ bỏ dần các biện pháp hạn chế giao dịch vốn ở thị trường, giảm thiểu sự
can thiệp trực tiếp của chính phủ vào các quyết định phát hành và đầu tư vốn trên thị trường chứng
khoán, là việc cho phép rộng rãi các ngân hàng và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia các giao dịch
chứng khoán ở thị trường trong nước, là quá trình dở bỏ kiểm soát các luồn vốn vào và lluồng vốn
ra khoải nền kinh tế.”
Trong đó:
 Các luồng vốn vào gồm: các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI), bao gồm chuyển
tiền và rút tiền của quỹ đầu tư, trả cổ tức, thanh toán hoàn trả các khoản vay trực tiếp với nước
ngoài của các dự án FDI. ….
 Các luồng vốn ra gồm: Luồng vốn FDI ra nước ngoài, bao gồm cả việc mua sắm của các
công dân nước sở tại….

6



Kết luận:
-

Do quá trình giảm thiểu và dỡ bỏ dần các biện pháp hạn chế giao dịch vốn ở thị

trường.
-

Điều này nhằm tạo điều kiện cho dòng vốn được lưu thông trên thị trường từ đó phát

huy tối đa vai trò, chức năng của vốn. vì nếu vốn không được đem ra giao dịch rộng rãi, quay vòng
thì đồng vốn đó đã không được sử dụng hiệu quả, gây tổn thất cho nền kinh tế.
-

Giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào các quyết định phát hành và đầu

tư vốn trên thị trương chứng khoán.
-

Điều này giúp người cần vốn và người thừa vốn dễ dàng tìm đến với nhau. Từ đó thị

trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn hữu hiệu của nền kinh tế.
-

Cho phép rộng rãi các Ngân hàng và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào giao

dịch chứng khoán ở thị trường trong nước.
-


Đây là yêu cầu quan trọng vì việc cho phép các định chế tài chính nước ngoài tham

gia đầu tư sẻ mở cửa dòng vốn vào một cách thông thoáng hơn.
-

Quá trình dõ bỏ kiểm soát các luồng vốn vào và luồng vốn ra khỏi nền kinh tế.

-

Đây là quá trình cao nhất của tự do hóa dòng vốn. Là điều kiện hoàn hảo của thị

trường vốn do thị trường tự nó vận động và không cần sự can thiệp của chính phủ thông qua các
biện pháp kiểm soát vốn. Tuy nhiên trong sự biến động của nền kinh tế toàn cầu, hầu như chưa một
quốc gia nào đạt đến sự dỡ bỏ hoàn toàn kiểm soát luồng vốn vào và luồng vốn ra vì bản thân mỗi
nền kinh tế luôn có sự tác động lẩn nhau. Nên dù hệ thồng an ninh tài chính của một quốc gia có tốt
đến mấy cũng chịu ảnh hưỡng dù ít dù nhiều từ các nền kinh tế khác.
2. SỰ LỰA CHỌN BỘ BA BẤT KHẢ THI
2.1 tỷ giá cố định – hội nhập tài chính
Khu vực Euro ví dụ, tác động đối với kinh tế các nước EU và thế giới :
Đối với các nước EU :
Khu vực đồng tiền chung châu Âu là mối quan hệ đối tác dựa trên đàm phán giữa các quốc
gia tham gia Liên minh châu Âu (EU) nhằm chia sẻ những lợi ích kinh tế và chính trị thường chỉ các
nước lớn hơn mới có. Những kỳ vọng hiệp đồng và dự báo về tính kinh tế theo quy mô từ sự thỏa
thuận giữa các nước này nhằm đem lại một tác động tích cực, lâu dài cho tất cả các quốc gia thành
viên. Bản thân Liên minh châu Âu đã bắt đầu phát triển ngay sau khi thế chiến thứ hai kết thúc với
vai trò thúc đẩy một châu Âu hòa bình và kinh tế ổn định.

7



Liên minh châu Âu đem lại: sự chung sống hoà bình, giảm các hạn chế về biên giới, cho
phép du lịch miễn phí, tổng hợp sức mạnh và ảnh hưởng trên quy mô toàn cầu, gia tăng thịnh vượng
(mặc dù không đồng đều giữa các quốc gia), thúc đẩy quyền con người đa phương, thúc đẩy những
ý tưởng mới để giảm sự nóng lên toàn cầu, và đáng chú ý nhất là, việc sử dụng một đồng tiền chung
châu Âu - euro.
Đồng euro được thiết kế để đơn giản hóa quá trình cung cấp dịch vụ, vận chuyển hàng hóa và
di chuyển vốn giữa các quốc gia sử dụng đồng euro. Các mục tiêu của đồng euro thì rất cao cả
nhưng kết quả đạt được thì không phải lúc nào cũng tốt đẹp.
Việc 11 nước ban đầu tham gia với 290 triệu dân sẽ hình thành một thị trường rộng lớn trên
thế giới và nền kinh tế gần tương đương với Mỹ có trình độ phát triển kinh tế cao. Như vậy các
nước EU sẽ trở thành một khối kinh tế vững mạnh hơn, liên kết chặt chẽ hơn, và do đó địa vị của
EU sẽ được nâng cao, nhất là trong quan hệ kinh tế với Mỹ.
Đồng EURO ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá trình liên
kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu, tiến tới
thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần hoàn thiện thị
trường chung châu Âu, góp phần gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại, tác động tích cực đến
hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo bản báo cáo năm 1988 và Uỷ
ban châu Âu, việc thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem lại lợi cho các nước EU khoảng 200 ty
ECU và giúp làm tăng thêm 1% GDP của các nước thành viên.
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của việc phá
giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng như việc các nhà đầu cơ tiền
tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của
toàn khối.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) năm 1992 là một ví dụ. Để thu hút ngoại
tệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh tế bị phá sản của Đông Đức, nước
Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm cho các nhà tư bản quốc tế bị lợi nhuận quyến rũ
đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó, với mục tiêu chống lạm phát, Pháp muốn duy trì lãi suất thấp vừa
phải. Nhưng do tất cả các đồng tiền trong EMS vốn liên quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể
đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức
(DM). Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào tấn

công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá giá và làm cho cả EMS bị lung lay. Cuộc khủng hoảng hệ
thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào năm 1992-1993 đã làm cho hệ thống tiền tệ châu Âu cũng như nền

8


kinh tế các nước thành viên bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu
đã làm cho các nước thành viên EU bị mất 1,5 triệu việc làm trong năm 1995.
Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung ương châu
Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành viên, với mục tiêu thực hiện một
chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển không còn lạm phát,
đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên
minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước
mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí
chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh tế cho rằng việc này sẽ tiết kiệm được
một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các nước thành viên. Hơn nữa, khi đồng
EURO được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hoá bày bán trong các nước thành viên đều được
niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ làm giảm sự chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái
giữa các đồng tiền quốc gia. Người ta dự đoán là có thể sẽ xuất hiện một hiện tượng bùng nổ mua
sắm và như vậy sẽ kích cầu rất mạnh và làm tăng trưởng kinh tế khu vực.
Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên việc sử dụng
một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước EU và ít bị ảnh
hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ không còn tình trạng đồng tiền này mất giá
so với USD trong khi đồng tiền khác lại lên giá.
Tuy nhiên, việc ra đời và duy trì đồng tiền chung ổn định và mạnh không chỉ có những mặt
thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho những nước tham gia:
- Trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ; Việc ngân hàng Trung ương châu Âu đảm
nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các nước tham gia mất đi
công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng
hoảng.

- Việc duy trì được một đồng EURO mạnh là một vấn đề khó khăn cho các nước tham gia vì
các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau, mỗi nước đều có những khó
khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là một cuộc đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả
hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, để đảm bảo vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn
đấu đảm bảo các chỉ tiêu áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt nghèo
trong ngân sách chi tiêu, chính sách thuế... phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu cho phúc lợi
xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là trong tầng lớp dân

9


nghèo, trong ngành giáo dục, như đã từng diễn ra ở nhiều nước Tây Âu trong mấy năm gần đây, và
sẽ gây khó khăn cho các chính phủ đương quyền mỗi khi các cuộc bầu cử đến gần.
Đối với thế giới :
Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế kỷ qua sẽ bị
thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và đồng EURO chi
phối. Với một nền kinh tế phát triển của 11 nước châu Âu có 290 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân
chiếm tới 19,6% của thế giới và 18,6% thương mại toàn cầu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền
ngoại tệ lớn và là đối thủ đáng gờm đối với đồng USD. Các nước EU có 370 triệu dân với GDP
7.900 tỷ USD, chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu dân với
GDP là 8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Nếu đồng EURO giữ
được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày càng bị
suy giảm mạnh.
Sự thách thức của đồng EURO đối với đồng USD thể hiện trên các lĩnh vực dự trữ ngoại tệ,
trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán.
Về dự trữ ngoại tệ : Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở thành nội
thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu về dự trữ ngoại tệ
của Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh. Do đó, nhiều khả năng Ngân hàng Trung ương
châu Âu sẽ bán đi một số lượng lớn USD. Mặt khác khi đồng EURO trở thành đồng tiền chung của

một khối kinh tế mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD)
sẽ giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để mua thêm đồng EURO (mức độ ít nhiều còn tuỳ
thuộc vào khả năng ổn định của đồng EURO). Đây có thể là một nhân tố gây tác động làm giảm giá
đồng đô la Mỹ. Thêm vào đó nhu cầu dự trữ về vàng cũng sẽ giảm vì trước đây các nước chủ yếu dự
trữ bằng vàng và USD, nay lại có thêm một đồng tiền mạnh và ổn định có thể được sử dụng để dự
trữ, do vậy trong tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà
chúng ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ của ta sau này.
Về ngoại thương, trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60% xuất khẩu) dùng
nhiều USD (ngay cả những nước như Pháp và Hà Lan vốn rất gắn chặt với đồng mác Đức cũng có
xu hướng thanh toán với nhau bằng USD hơn là bằng mác Đức) nay chuyển sang thanh toán bằng
đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị giảm sút đáng kể. Hiện nay
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD chiếm 48%, bằng tiền của các nước
EU chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU gần tương đương Mỹ, nhưng tổng giá trị

10


ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Theo các nhà phân tích kinh tế, sau khi ra đời, đồng EURO có thể
chiếm khoảng 35-40% các khoản giao dịch và buôn bán quốc tế. Trong buôn bán với Mỹ, các nước
EU cũng sẽ buộc Mỹ phải sử dụng đồng EURO, nên Mỹ cũng sẽ phải dự trữ cả EURO. Đối với
thương mại thế giới khi đồng EURO ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ
có xu hướng các nước cũng sẽ sử dụng EURO thay thế USD trong thanh toán một số giao dịch
ngoại thương với nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm giảm nhu cầu sử
dụng USD trong thương mại thế giới.
Dung lượng và khả năng thị trường tài chính của EU và Mỹ là gần tương đương nhau...
Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm 40%,
bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật chiếm 12%. Theo dự đoán của một số chuyên gia tài
chính, có khả năng sau năm 2002 có khoảng 3000 tỷ đô la vốn đầu tư quốc tế sẽ chuyển sang đồng
EURO, trong đó có từ 700 đến 1000 tỷ là từ đồng đô la Mỹ. Do đó, khi EURO xuất hiện trên thị
trường tài chính thế giới thì trong các giao dịch tại thị trường chứng khoán và trong việc phát hành

công trái, các nước trước hết là các nước EU sẽ dùng EURO, do vậy nhu cầu về USD trên thị trường
tài chính sẽ giảm một cách đáng kể.
Tóm lại, sau khi đồng EURO ra đời hệ thống tài chính thế giới sẽ bị thay đổi cơ bản. Những
thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả các giao dịch
thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự trữ ngoại tệ ở các quốc gia. Hơn nữa, bên cạnh
việc sử dụng USD như trước đây, trên thị trường sẽ xuất hiện thêm EURO, do đó trong tương lai
không xa, nhu cầu sử dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc giảm giá của USD, và như vậy việc
ra đời của EURO không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực kinh tế và
chính sách kinh tế của các quốc gia.
Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra một số rạn nứt trong
quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm trong quan hệ quốc tế phát triển.
Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của đồng EURO
và EMU, nhưng thực tế bên trong cũng hết sức lo ngại. Trước hết như đã phân tích, đồng EURO ra
đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và từng bước làm giảm vị trí truyền
thống của đồng USD. Để đảm bảo cho đồng EURO ổn định và vững mạnh, các chính phủ các nước
tham gia EMU cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ cần phải có những chính sách bảo vệ
và khuyến khích sử dụng đồng EURO, điều này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho vị trí của
đồng USD ở châu Âu và do đó sẽ gây một số thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở châu lục này. Cuộc đấu

11


tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở châu Âu giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt
hơn.
Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát triển cao
và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các nước EU sẽ mạnh hơn trên
các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có thể thấy trước được là một phần vốn đầu
tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng EURO ra đời. Trong mấy năm qua, các công
ty lớn của Mỹ và Nhật đã có những biện pháp và chuẩn bị cho sự kiện này và họ đã ít nhiều thiết lập
được chỗ đứng của mình thông qua các đối tác nội địa để tận dụng được lợi thế của việc sản xuất tại

chỗ đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tránh được thuế nhập khẩu khi liên minh hình thành.
- Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành viên là tỷ lệ
chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO. Tuy đồng ECU đã tồn tại trong
thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định chuyển đổi ngang bằng với đồng EURO làm dễ
dàng phần nào những giao dịch thương mại mới, nhưng những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư... bằng
đồng tiền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc
gia sang đồng EURO là cố định, nhưng lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia . Cho
nên điều quan trọng là các nước nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất
một tỷ lệ lãi suất thích hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO./.
VẤN ĐỀ CỦA CÁC NƯỚC SỬ DỤNG ĐỒNG EURO
Một vấn đề liên quan đến đồng euro là sự sai lệch so với những tiêu chí ban đầu khi tham gia
EU. Vấn đề khó giải quyết nhất là nợ. Các giới hạn ban đầu đã được thiết lập ở mức tối đa là 60%
các khoản nợ của chính phủ so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP), một số nước có tỷ lệ nợ trên
GDP đạt trên 100% GDP (xem đồ thị).

12


Trớ trêu ở chỗ các nước EU đã thỏa thuận tăng hạn mức đi vay với kỳ vọng mức đòn bảy đó
có thể được sử dụng để thúc đẩy nhu cầu cụ thể của mỗi nước. Nợ luôn luôn là một con dao hai lưỡi
và nếu được dùng đúng cách nó thực sự hữu ích. Ví du, với quyền đi vay được gia tăng, Italy đã có
thể nâng cao cả mức sống và trình độ học vấn của nước này để trở nên cạnh tranh trong nền kinh tế
toàn cầu. Tuy nhiên, thành công này đã đi kèm với chi phí tài chính lâu dài nghiêm trọng và cuối
cùng có thể buộc Ý phải tái cơ cấu, tái thiết hoặc có thể mất khả năng thanh toán đối với khoản nợ
của mình.
Hy Lạp có tỷ lệ nợ trên GDP tương tự như Italy và đã rơi vào suy thoái khi hỗ trợ phát triển
cơ sở hạ tầng quốc gia đồ sộ bằng cách tạo công ăn việc làm cho một nửa dân số và đánh thuế ở
mức tối thiểu.
Trái ngược với Hy lạp khi Tây Ban Nha bắt đầu sử dụng đồng Euro, thì không những là Tây
Ba Nha không bị tích lũy nợ mà còn tăng trưởng nhanh chóng với nguồn vốn mới. Tây Ban Nha đã

chọn một con đường khác, chủ yếu dưới hình thức phát triển khu vực kinh tế tư nhân vốn trì trệ kể
từ khi kết thúc Thế chiến II. Tuy nhiên mặc dù tỷ lệ nợ trên GDP của Tây Ba Nha không bị tăng vọt
như Hy Lạp nhưng thay vào đó thâm hụt thương mại của nước này lại gia tăng đáng kể khi tốc độ
phát triển không còn bền vững và không thể bù đắp cho mất cân bằng trong cán cân thương mại.
Chính vì vậy mà bây giờ Tây Ban Nha đang phải đối mặt với những thách thức trong việc chuyển
hướng những nỗ lực của mình để phát triển một nền kinh tế cân đối hơn, bao gồm mức xuất khẩu
cao hơn. Có thể sẽ mất nhiều năm để nước này đạt được sự cân bằng mong muốn.
Dù bằng con đường nào đi chăng nữa thì tỷ lệ nợ cao đã phủ một bóng đen lên đồng euro. Và
những hoạch định nền tảng, tiêu chí hay các quy định vạch ra cho cho nước thành viên thực chất đã
phản tác dụng. Vậy thì tại sao hy vọng rằng các quốc gia khác nhau về ngôn ngữ, phong tục, lịch sử
khác nhau lại có thể có chung một đồng tiền và thậm chí là tiến bộ và phát triển với một tốc độ như
nhau.
Theo góc nhìn từ phía doanh nghiệp và nhà đầu tư:
Ưu điểm : cầu tiêu dùng tăng do có một thị trường rộng lơn, có thể so sánh giá cả hàng hóa
dịch vụ các doanh nghiệp với nhau một cách dễ dàng hơn, thúc đẩy giao lưu buôn bán, phát triển
thị trường hàng hóa và dịch vụ. Các doanh nghiệp phải tính toán để hạ chi phí sản xuất dẫn đến hạ
giá thành sản phẩm nhưng vẫn mang lại hiệu quả cao.
Xu hướng xác nhập quy mô lớn sẽ diễn ra đây là bước khởi đầu cho cuộc cách mạng năng suất lao
động tạo tiền đề tạo tiền đề cho khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Thêm vào đó

13


mọi hàng hóa được bày bán trong khu vực chung châu âu sẽ đều được niêm yết bằng đồng euro dẫn
đến cuộc bùng nổ trong mua sắm đây là cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất
Nhược điểm: do chính phụ không tham gia liên minh châu âu không thể áp dụng chính sách
tiền tệ cho riên mình do vậy cũng không thể can thiệp vào vào các chính sách về phát tiển kinh
tế,như :
Lạm phát : chi phí nguyên vật liệu gia tăng do không thuộc sự kiểm soát trong nước (nếu có
sự gia tăng giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới các doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ chi

phí cao hơn nếu do dùng các nguyên liệu này cho quá trình sản xuất), thiếu hụt nguồn tài nguyên
không tránh khỏi tình giá tăng cao.
Thất nghiệp: do có sự di chuyển của lao động từ những nơi, khu vực có năng suất lao động
cao đến những nơi có năng suất lao động thấp.
2.2 Chính sách tiền tệ độc lập – hội nhập tài chính
Theo nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi để có được mục tiêu chính sách tiền tệ độc
lập và tự do hóa dòng vốn thì phải hi sinh tỷ hệ thống tỷ và khi đó thì phải thực hiện biện pháp để
tỷ giá thả nổi. Do đó, mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và hội nhập tài chính hoàn toàn có thể khả
thi với đỉnh tỷ giá thả nổi.
Sự gia tăng của lạm phát
Trong bối cảnh thị trường mở hiện nay, thì số tiền mà NHNN thu về thong qua việc mua bán
các chứng khoán gần như không đáng kể so với khối lượng cung tiền đã tung ra, điều này đã dẫn
đến sự gia tăng trong lạm phát.
Về vấn đề lãi suất
Sự khan hiếm khiến cho nhiều ngân hàng tham gia vào cuộc đua huy động lãi suất , buộc
NHNN phải đưa ra trần lãi suất. Nguyên nhân của hiện tượng này là do tác động của dòng vốn
ngoại. Sự gia tăng của dòng vốn ngoại đã làm tăng nhu cầu chuyển đổi từ ngoại tệ sang nội tệ để
đầu tư vào thị trường chứng khoán và bất động sản. Việc thị trường chứng khoán trở thành một
kênh đầu tư có mức sinh lợi cao đã khiến các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay cầm cố chứng
khoán, nhằm kiềm chế hoạt động này các ngân hàng lập tức tăng dư nợ tín dụng để đạt mục tiêu dư
nợ cho vay cầm cố . Sự gia tăng của hoạt động tín dụng đã khiến cho các ngân hàng nhanh chóng
rơi vào tình trạng khan hiếm VNĐ. Và buộc phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất
cao hoặc tăng lãi suất huy động.
Để giải quyết vấn đề này theo nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi thực hiện chính
sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để

14


kiềm chế lạm phát, điều hành và kiểm soát để đảm bảo tốc độ tăng trưởng. Thông qua chính sách

tiền tệ độc lập mà các doanh nghiệp hoặc nhà đầu tư có thể điều tiết kinh tế của họ và họ không
quan tâm đến tỷ giá hay tăng giảm và nó giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động sử dụng các công
cụ chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, nền kinh tế có dấu hiệu phát triển nóng, chúng ta có thể tăng lãi
suất hoặc thắc chặt cung tiền và ngược lại. Chính vì sự độc lập tiền tệ này, sẽ giúp cho nền kinh tế
tăng trưởng và ổn định hơn. Tuy nhiên độc lập tiền tệ quá mức có thề dẫn đến bất ổn định trong tăng
trưởng và có nguy cơ lạm phát cao.
2.3 Chính sách tiền tệ độc lập – tỷ giá cố định
Chính sách tiền tệ độc lập và chế độ tỷ giá cố định kết hợp với lựa chọn thị trường vốn đóng(
phải hy sinh dòng vốn ra vào tự do ) , lựa chọn này có nghĩa là chính phủ phải thiết lập kiểm soát
vốn .
Độc lập tiền tệ là sử dụng chính sách tiền tệ để ổn định nền kinh tế, thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. NHTW có thể tăng cung tiền và giảm lãi suất khi nền kinh tế
suy thoái và giảm cung tiền, tăng lãi suất khi nền kinh tế phát triển quá nóng.
Duy trì tỷ giá ổn định giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện pháp ổn
định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của nền kinh tế giảm đi,
làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ. Tất cả giúp làm cho môi trường đầu tư tốt
hơn.
Bằng cách giả định chu chuyển vốn là hoàn hảo, Mundell-Fleming (1963) đã chỉ ra rằng
chính sách tiền tệ không thể phát huy hiệu quả dưới chế độ tỷ giá cố định trong khi chính sách tài
khóa không có tác dụng dưới cơ chế tỷ giá thả nổi.
Ngược lại, chính sách tài khóa phát huy hiệu quả cao trong cơ chế tỷ giá cố định và chính
sách tiền tệ có tác dụng mạnh dưới chế độ tỷ giá thả nổi. Điều này có nghĩa, nếu chu chuyển vốn là
hoàn hảo thì chính sách tiền tệ hoàn toàn không có hiệu lực nếu chính phủ theo đuổi mục tiêu ổn
định tỷ giá nhưng sẽ có hiệu lực cao nếu chính phủ thả nổi tỷ giá.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. />[2]. />[3]. />[4]. />

16



×