Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC TOÁN 5 GIÚP HỌC SINH TỰ TÌM TÒI, KHÁM PHÁ KIẾN THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.47 KB, 25 trang )

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC TOÁN 5
GIÚP HỌC SINH TỰ TÌM TÒI, KHÁM PHÁ KIẾN THỨC”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp
thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai
đoạn hiện nay.
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập
tích cực cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển
nhu cầu tìm tòi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề
đó, người giáo viên không ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt
động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp
với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát
huy chủ động, sáng tạo.
Mặt khác, bậc tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt
nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn toán cũng
như những môn học khác là cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những
nhận thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển các năng lực nhận thức, hoạt
động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người. Môn toán ở
trường tiểu học là một môn học độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương
trình học của trẻ.
Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu
có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người, là môn
học rất cần thiết để học các môn học khác, nhận thức thế giới xung quanh để
hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn
trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao
tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hoá, khái
1


quát hoá, khả năng phân tích tổng hợp, so sánh, dự đoán, chứng minh.


Môn Toán còn góp phần giáo dục lý trí và những đức tính tốt như: trung
thực, cần cù, chịu khó, ý thức vượt khó khăn, tìm tòi sáng tạo và nhiều kỹ năng
tính toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt
đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.
2. Cơ sở thực tiễn
Chương trình sách giáo khoa toán ở Tiểu học nói chung , ở lớp 5 nói riêng
đã kế thừa chương trình SGK cũ, đồng thời đã được các nhà nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung, nâng cao cho ngang tầm với nhiệm vụ mới, góp phần đào tạo con
người theo một chuẩn mực mới. Trong thực tế giảng dạy, để đạt được mục tiêu
do Bộ và ngành Giáo dục đề ra, đòi hỏi người giáo viên phải thật sự nỗ lực trên
con đường tìm tòi và phát hiện những phương pháp, giải pháp mới cho phù hợp
với từng nội dung dạy học, từng đối tượng học sinh
“Làm thế nào để phát huy được tính tích cực của học sinh trong dạy họcgóp phần nâng cao chất lượng dạy học”.Theo tôi: “Không có phương pháp tốt,
không thể có chất lượng cao”. Nếu biết cách dạy Toán, học Toán thì hiệu quả
dạy học Toán sẽ tăng cao rất nhiều lần.
Xu hướng đổi mới hiện nay là “Tích cực hoạt động của học sinh nhằm
hình thành tư duy tích cực, tư duy độc lập, tư duy sáng sáng tạo trong việc
chiếm lĩnh tri thức” hay là: “Để cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều
hơn và thảo luận nhiều hơn”. Với xu hướng đó, dù không muốn cũng buộc
người giáo viên đứng lớp phải có phương pháp mới trên cơ sở đã có những
phương pháp dạy học truyền thống.
Thực tế cho thấy việc đó đòi hỏi giáo viên phải chủ động lựa chọn nội
dung theo từng đối tượng học sinh, tức là phải dạy học xuất phát từ trình độ,
năng lực, điều kiện cụ thể của từng học sinh. Điều đó có nghĩa là phải “cá thể
hoá” dạy học, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập. Điều đó
2


không có nghĩa là làm giảm vai trò của người giáo viên mà chính là làm tăng vai
trò chủ động, sáng tạo của họ. Điều đó cũng kéo theo sự thay đổi hoạt động học

tập của học sinh. Mục đích của việc làm này là nhằm tạo điều kiện cho mọi học
sinh có thể học tập tích cực, sáng tạo, chủ động theo khả năng của mình trong
từng lĩnh vực. Cách dạy này gọi là: “Dạy học phát huy tính tích cực của học
sinh” (phương pháp dạy học toán).
Vì lý do trên mà trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi đưa ra một số biện
pháp gây hứng thú trong giờ học toán cho học sinh tiểu học bằng cách tổ chức
các hoạt động học tập để học sinh tự tìm tòi khám phá kiến thức mới góp phần
nâng cao chất lượng trong các giờ học toán.

3


II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. Thực trạng của lớp:
I.1 Thuận lợi
Cơ sở vật chất đảm bảo, đủ ánh sáng thoáng mát.
Các em đã qua chương trình học lớp 1 dến lớp 4 của môn toán và đã làm
quen với các phép tính cơ bản và làm quen với phần phân số,…
Các em được đào tạo theo chẩn mực của học sinh từ những năm trước nên
nề nếp lớp ổn định và các em tương đối ngoan trong các giờ học.
I.2. Khó khăn
Tâm lý học sinh hiện nay, việc học môn toán, các em rất ngại hay nói
đúng hơn là sợ do còn yếu và ít học toán. Thời gian tập trung cho việc học toán
còn ít. Do vậy, học sinh không phát triển được năng lực tư duy, tìm tòi sáng tạo
trong khi học môn toán, không hình thành được kĩ năng khái quát hóa, trừu
tượng hóa của trí lực học sinh. Năm học trước, tôi áp dụng đề tài này cho lớp tôi
và thấy có kết quả rất khả quan nên đến đầu năm học 2011-2012, được sự đồng
ý của Hội đồng khoa học trường, tôi đăng ký thực hiện đề tài này cho học sinh
lớp lớp 5A.
Do đó, vào đầu năm học tôi thống kê các sai lầm của học sinh trong lớp

tôi để tìm ra nguyên nhân và các biện pháp để khắc phục ngay cho môn toán.
Qua thống kê, tôi nhận thấy học sinh của lớp tôi học chưa tốt về môn toán
do những nguyên nhân sau:
Một số em tiếp thu bài còn chậm, ý thức tự học chưa cao.
Chưa hiểu và nắm được đầy các khái niệm trong môn toán và chưa có hứng
thú trong môn học toán.
4


II. Biện pháp thực hiện
II.1. Tự tìm tòi, khám phá kiến thức trong học tập.
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội;
con người không chỉ tiếp thu những cái đã có mà luôn chủ động tìm tòi, khám
phá, sáng tạo ra những cái mới phục vụ cho nhu cầu và cuộc sống của mình.
Tính tích cực trong học tập là tính tích cực trong hoạt động nhận thức, đặc trưng
ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh
nội dung học tập bằng hoạt động tìm tòi, khám phá.
Hoạt động tìm tòi, khám phá là một chuỗi hành động và thao tác để hướng
tới một mục tiêu xác định. Hoạt động tìm tòi, khám phá trong học tập có nhiều
dạng khác nhau, từ mức độ thấp đến mức đọ cao tuỳ theo năng lực tư duy của
từng học sinh và được tổ chức thực hiện theo cá nhân hoặc theo nhóm.
Hoạt động tìm tòi, khám phá trong học tập có thể tóm tắt như sau:
A. Mục tiêu của hoạt động:
- Hình thành kiến thức, kĩ năng mới.
- Xây dựng thái độ, niềm tin cho học sinh.
- Rèn luyện khả năng tư duy, năng lực xử lí tình huống, giải quyết vấn đề.
B. Các dạng hoạt động:
- Trả lời câu hỏi và đặt câu hỏi.(hỏi - đáp)
- Lập bảng, biểu đồ, sơ đồ, phân tích dữ kiện.
- Thảo luận vấn đề nêu ra, đề xuất giả thuyết.

- Thông báo kết quả, kiểm định kết quả.
5


- Đưa ra giải pháp, kiến thức mới.
C. Hình thức tổ chức:
- Hoạt động cá nhân.
- Hoạt động theo nhóm (2 người hoặc 4 người).
- Làm việc chung cả lớp.
- Nhóm A thảo luận, nhóm B quan sát và ngược lại.
- Trò chơi.
II.2. Tác dụng của hoạt động tự tìm tòi khám phá kiến thức mới.
- Giúp học sinh rèn luyện tính chủ động, sáng tạo trong học Toán.
- Học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức nếu như chính mình tìm ra kiến
thức đó hoặc góp phần cùng các bạn tìm tòi, khám phá, xây dựng lên
kiến thức đó.
- Trong quá trình tìm tòi, khám phá học sinh tự đánh giá được kiến thức của
mình. Cụ thể:
+ Khi gặp khó khăn chưa giải quyết được vấn đề, học sinh tự đo được
thiếu sót của mình về mặt kiến thức, về mặt tư duy và tự rút kinh nghiệm.
+ Khi tranh luận với các bạn, học sinh cũng tự đánh giá được trình độ của
mình so với các bạn để tự rèn luyện, điều chỉnh.
- Trong quá trình học sinh tự tìm tòi, khám phá, Giáo viên biết được tình
hình của học sinh về mức độ nắm kiến thức từ vốn hiểu biết, từ bài học cũ; trình
độ tư duy, khả năng khai thác mối liên hệ giữa yếu tố đã biết với yếu tố phải tìm.
- Học sinh tự tìm tòi, khám phá sẽ rèn luyện được tính kiên trì vượt khó
6


khăn và một số phẩm chất tốt của người học Toán như: Tự tin, suy luận có cơ

sở, coi trọng tính chính xác, tính hệ thống...
II.3. Quy trình dạy học để học sinh tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới.
II.3.1. Đặc trưng của cách dạy
- Giáo viên đặt ra bài toán nhận thức chứa đựng mâu thuẫn hoặc mối quan
hệ giữa cái đã biết với cái phải tìm theo cấu trúc một cách hợp lí, tự nhiên.
- Học sinh tiếp nhận mâu thuẫn và được đặt vào tình huống có vấn đề. Khi
đó học sinh được đặt vào trạng thái muốn tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh nội
dung kiến thức.
- Bằng cách giải bài toán nhận thức mà học sinh lĩnh hội được một cách tự
giác và tích cực cả kiến thức và kĩ năng; từ đó có được niềm vui của sự nhận
thức sáng tạo.
II.3.2. Quy trình cụ thể.
Bước 1: Ôn tập tái hiện
Giúp học sinh ôn lại những kiến thức đã học có liên quan đến các kiến
thức mới mà học sinh cần nắm được.
Bước 2: Phát hiện, nêu vấn đề:
Cho học sinh phát hiện ra những vấn đề chưa rõ và xem đó là vấn đề cần
được giải quyết trong tiết học đó.
Bước 3: Tổng hợp, so sánh và đề xuất ý tưởng:
Từ những vướng mắc cần giải quyết ở trên, cho học sinh độc lập suy nghĩ
hoặc thảo luận nhóm để đưa ra các ý tưởng giải quyết vấn đề. Giáo viên nhận
xét, bổ sung thêm để hình thành ý tưởng chung.
7


Bước 4: Dự đoán giả thuyết:
Cho học sinh suy nghĩ tiếp và dự đoán hay đề xuất giả thuyết về nội dung
kiến thức, kĩ năng mới.
Bước 5: Kiểm tra giả thuyết:
Cho học sinh kiểm tra giả thuyết đã đề xuất qua một số ví dụ cụ thể để

khẳng định đó là kiến thức, kĩ năng mới.
Bước 6: Rút ra kiến thức mới:
Sau khi kiểm tra và khẳng định giả thuyết đó là đúng, Giáo viên cho học
sinh phân tích tìm ra kết luận chung về kiến thức, kĩ năng mới.
II.3.3. Một số lưu ý khi thực hiện cách dạy để học sinh tự tìm tòi, khám phá
kiến thức mới.
- Phải chú ý ngay từ việc soạn giáo án. Phải tập trung vào việc thiết kế các
hoạt động của học sinh trước, trên cơ sở đó mới xác định các hoạt động chỉ đạo,
tổ chức của Giáo viên.
- Số lượng hoạt động và mức độ tư duy trong mỗi tiết học phải phù hợp với
trình độ học sinh để có đủ thời gian tổ chức hoạt động tìm tòi, khám phá.
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài học, tìm kiếm các tinh huống có vấn đề, tạo cơ
hội cho học sinh tìm tòi, khám phá.
II.3.4. Một số ví dụ:
II.3.4.1. Ví dụ 1: Tuần 1 - Bài: Phân số thập phân (trang 8 SGK)
I. Mục tiêu.
- Giúp học sinh nhận biết được các phân số thập phân.
8


- Giúp các em biết được một số phân số có thể viết thành phân số thập phận
và biết cách chuyển những phân số đó thành phân số thập phân.
II. Các hoạt động dạy học chủ yếu.
1. Kiểm tra bài cũ: (5 - 6 phút)
- Kiểm tra viết tất cả học sinh trong lớp ( có thể dùng phiếu kiểm tra).
(1 học sinh lên bảng làm , yêu cầu học sinh này trình bày ở
trái.)
Đề bài

Đáp án

(Học sinh làm)

a) So sánh

1
3
với
5
2

3 2
3
=
=
5
5 2

6
10

1 5
1
5
=
=
10
2
25



b)

1
3
5
6
>
nên
>
10
10
5
2

3  25
3
75
=
=
100
4
4  25

3
21
với
25
4

21  4

21
84
=
=
100
25
25  4


c)

1234
7
với
8
1000

21
84
75
3
>
nên
>
4
100
100
25

1234

7
< 1;
> 1 nên
8
1000
9

1234
7
>
8
1000

1
bảng bên
2


2. Bài mới
a) Giới thiệu bài:
Dựa vào các bài làm trên bảng, giáo viên dùng thước để chỉ vào những
phân số nói đến: Để so sánh

1
3
với
ta so sánh hai phân số tương đương là
5
2


3
21
5
75
6
với
, để so sánh
với
ta so sánh 2 phân số tương ứng là
với
10
10
100
4
25

1234
84
, những phân số này...... và phân số
(giáo viên dùng phấn màu đóng
100
1000
khung 5 phân số đó) gọi là phân số thập phân. Từ đó giáo viên giới thiệu tên bài
mới
VD: Phân số thập phân
b. Giới thiệu về phân số thập phân: ( 15 - 18 phút)
*) Nhận biết phân số thập phân.
- Dựa vào 5 phân số trên, mỗi học sinh trong lớp viết vào giấy nháp 2 phân
số thập phân và hai phân số không phải là phân số thập phân (1 học sinh A lên
bảng viết).

- Tất cả lớp, dùng bút đánh dấu đặc điểm của phân số thập phân (học sinh A
cũng làm tương tự ở bảng).
- Ba, bốn học sinh nêu đặc điểm mà minh đánh dấu (trong đó có học sinh A)
- Giáo viên tổng kết theo phần a (SGK) và yêu cầu cả lớp cầm bút gạch 1
gạch dưới 3 chữ: Có mẫu số và gạch 2 gạch dưới các số 10;100,1000;... (trong
SGK)

10


- Giáo viên viết sẵn 5 phân số (ở bài 3 trang 8) vào băng giấy rồi gắn lên
bảng. Gọi 1 học sinh lên bảng, yêu cầu dùng bút hãy xoá những phân số không
phải là phân số thập phân trong 5 phân số ở băng giấy đó - tất cả học sinh còn lại
cũng dùng bút xoá tương tự ở bài 3 trang 8 SGK.
- Cũng từ bài làm kiểm tra của học sinh ở trên (đáp án). Giáo viên chỉ và nói
tiếp: Khi so sánh

1
1
3
3
5
6
với ta đã chuyển thành
và chuyển thành , ...
10
10
5
5
2

2

thế là ta đã làm 1 việc là chuyển từ 1 phân số thành 1 phân số thập phân.
*) Chuyển 1 phân số thành phân số thập phân.
Dựa theo cách chuyển như bài kiểm tra trên.
- Từng em trình bày trong giấy nháp, chuyển

14
4

thành phân số thập
50
11

phân.
- Gọi 1 học sinh lên bảng làm.
- Sau đó, từng em viết vào giấy nháp câu dưới đây và nhận xét câu đó: Mọi
phân số đều chuyển được thành phân số thập phân. (không đúng).
- Cả lớp sửa lại câu trên thành 1 câu đúng. (gọi 1 học sinh lên bảng viết câu
đúng đó).
- Giáo viên tổng kết và gắn lên bảng băng giấy đã viết sẵn cách chuyển.
Cách chuyển: Tìm một số khi nhân với mẫu số để được 10, 100, 1000...
rồi nhân số ấy với cả tử số và mẫu số sẽ được phân số thập phân.
c. Thực hành ( 12 - 15 phút).
Bài 1: Đọc phân số thập phân.

11


Từng em trong lớp (gọi một học sinh lên bảng làm) ghi lời đọc cho từng

phân số thập phân ở dưới phân số thập phân đó trong SGK. Theo mẫu.
9
;
10

21
;
100

625
;
1000

2005
;
1.000.000

Chín phần mười
Bài 2: Viết phân số thập phân.
Tiến hành tương tự như trên. Theo mẫu:
7
10

Bảy phần mười; hai mươi phần trăm; bốn trăm bảy mươi lăm phần nghìn; một
phần triệu.
Bài 4. Chuyển phân số thành phân số thập phân.
+ Tất cả học sinh điều làm bài ngay trong sách giáo khoa hoặc vào giấy
nháp (gọi 2 học sinh lên bảng). Giáo viên chú ý kèm cặp, giúp đỡ những em còn
yếu làm bài.
II.3.4.2- Ví dụ 2: Tuần 15 - Bài: Giải toán về tỉ số phần trăm (trang 75 SGK)

I. Mục tiêu.
Giúp học sinh:
- Biết cách tìm tỷ số phần trăm của hai số.

12


- Biết vận dụng để giải các bài toán đơn giản có nội dung tìm tỷ số phần
trăm của hai số.
II. Các hoạt động dạy học chủ yếu
* Hoạt động 1: Tổ chức cho học sinh nhắc lại khái niệm tỉ số phần trăm.
chẳng hạn: GV nêu bài toán tương tự ví dụ 2 trang 74 trong SGK, ghi tóm
tắt lên bảng:
Số HS toàn trường: 400
Số học sinh nữ: 208
Sau đó hỏi học sinh: Tỉ số phần trăm của số học sinh nữ và số học sinh toàn
trường là bao nhiêu? Hay: Số HS nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số HS toàn
trường? (Kết quả là 52%).
* Hoạt động 2: Giới thiệu hoặc hướng dẫn HS cách tìm tỉ số phần trăm của
hai số 315 và 600.
- Gợi ý để HS có thể viết tỷ số của số HS nữ và số HS toàn trường (315 :
600).
- Giao việc cho HS làm thế nào để đưa tỉ số (315 : 600) về tỉ số phần trăm.
Từ đó xuất hiện vấn đề cần phải giải quyết.
- Giúp HS tự tìm đọc cách giải quyết là thực hiện phép chia. Nếu không thì
yêu cầu HS thực hiện phép chia (315 : 600 = 0,525).
- Hướng dẫn để HS tự tìm thấy được là để chuyển tỉ số về tỉ số phần trăm
thì phải nhân kết quả đó với 100 và chia cho 100.
0,525 x 100 : 100 = 52,5 : 100 = 52, 5%.


13


- Từ đó dẫn dắt giúp học sinh nêu được quy tắc:
+ Chia 315 cho 600.
+ Nhân thương đó với 100 và viết kí hiệu % vào bên phải tích vừa tìm được.
* Hoạt động 3: Hướng dẫn HS vận dụng để giải bài toán có nội dung tìm tỉ số
phần trăm.
- GV đọc bài toán hoặc gọi HS đọc bài toán trong SGK và giải thích: Khi 80 kg
nước biển bốc hơi hết thì thu được 2,8 kg muối. Tìm tỉ số phần trăm của lượng
muối trong nước biển.
- Hướng dẫn học sinh trình bày lời giải bài toán:
Bài giải
Tỉ số phần trăm của lượng muối trong nước biển là:
2,8 : 80 = 0,035
0,035 = 3,5 %
Đáp số : 3,5 %
* Hoạt động 4: Tổ chức cho HS luyện tập thực hành qua 3 bài tập.
Bài 1: Cho HS nêu bài toán, GV giới thiệu mẫu. Yêu cầu HS làm vào vở, sau đó
trao đổi kết quả với nhau.
0,3 = 30%; 0,234 = 23,4 %; 1,35 = 135 %.
Bài 2: Giáo viên giới thiệu mẫu (cho HS thực hiện tính 19 : 30, dừng lại ở 4 chữ
số sau dấu phẩy, viết 0,6333... = 63,33%). Cho HS tự làm bài, gọi 1 vài HS trình
bày trên bảng rồi chữa bài. Kết quả là:
45 : 61 = 0,7377... = 73,77 %;
14


1,2 : 26 = 0,0461 ... = 4,61 %.
Bài 3: Hướng dẫn HS tìm hiểu đề bài, tóm tắt bài toán, làm vào vở. GV chú

ý giúp đỡ học sinh còn lúng túng. Có thể cho HS trao đổi theo nhóm để giải
toán. Gọi HS trình bày trên bảng hoặc bảng phụ.
Bài giải
Tỉ số phần trăm của số HS nữ và số HS của lớp học là.
13 : 25 = 0,52.
0,52 = 52%
Đáp số: 52%
II.3.4.3- Ví dụ 3: Tuần 18 - Bài: Diện tích hình tam giác (trang 87 SGK)
I/- Mục tiêu.
- HS tự hình thành được công thức tính diện tích của hình tam giác.
- Biết vận dụng công thức để tính diện tích hình tam giác.
II/- Các hoạt động dạy học chủ yếu
Hoạt động 1: Hình thành công thức tính diện tích hình tam giác.
Bước 1: Tạo tình huống có vấn đề.
GV: Đưa hình tam giác chuẩn bị sẵn (như hình vẽ 1), yêu cầu HS tính
diện tích của hình tam giác (xem hình 1).

3cm

15


4cm
Bước 2: Tổ chức cho HS phát hiện và tìm hiểu vấn đề (hoạt động theo nhóm
nhỏ).
- GV gợi ý để HS phát hiện được: Vấn đề được đặt ra là gì? (tính diện
tích của hình tam giác). HS tìm cách giải quyết vấn đề?
Bước 3: Tổ chức cho học sinh hoạt động giải quyết vấn đề.
- HS thảo luận đề xuất hướng giải quyết và thực hiện (hoạt động theo
nhóm). HS có thể giải quyết vấn đề bằng các cách:



Cắt tam giác ghép thành hình chữ nhật (hình 2).



Sử dụng hai tam giác bằng nhau, ghép thành hình bình hành (hình

3).


Sử dụng hai tam giác bằng nhau, ghép thành hình chữ nhật (hình 4).



Hoặc đếm số ô vuông nằm trọn trong tam giác (hình 1).

Hình 2

Hình 3

Hình 4

- Các nhóm trình bày cách giải quyết vấn đề của nhóm mình và trao đổi ý
kiến về các cách đó để tự rút ra được: Có 2 cách là thuận lợi hơn cả, đó là:
Cách 1: Sử dụng 2 tam giác bằng nhau ghép thành 1 hình bình hành.
Cách 2: Sử dụng 2 tam giác bằng nhau cắt, ghép thành hình chữ nhật.
(các cách khác nhau không thuận lợi bằng). GV có thể hướng dẫn:
Theo cách 1:


Dùng 2 tam giác bằng nhau ghép lại để tạo thành hình bình hành ABCD
(như hình vẽ)
16


A
H

H

Cho học sinh so sánh, đối chiếu các yếu tố hình học trong hình để thấy:
Hình bình hành ABCD gổm 2 hình tam giác bằng nhau ghép lại nên có diện tích
gấp 2 lần diện tích hình tam giác ABC. Hình bình hành ABCD và hình tam gíc
ABC có chung đáy BC và đường cao AH.
Tính diện tích hình bình hành ABCD bằng cách: lấy đáy x chiều cao, tức
là BC x AH.
Rút ra cách tính diện tích hình tam giác ABC là:
Từ đó nêu quy tắc và công thức tính như SGK
Theo cách 2 (là cách trong SGK):
 Sử dụng mô hình chuẩn bị trước: Lấy ra 2 tam giác bằng nhau (trong đó
có một tam giác đã chia làm hai mảnh) rồi ghép thành hình chữ nhật.
 Hoặc sử dụng giấy (đã chuẩn bị sẵn ở trên ), cắt đồng thời 2 tam giác bằng
nhau (gấp đôi mảnh giấy, cắt theo hình tam giác đã vẽ), rồi cắt một tam
giác (theo đường cao) được 2 tam giác nhỏ ghép vào tam giác kia để được
hình chữ nhật.
Bước 4: Tổ chức cho HS phân tích vấn đề và khái quát hoá vấn đề (hoạt động cá
nhân kết hợp hoạt dộng chung cả lớp).
+ GV mô tả hoạt động cắt, ghép trên bằng hình vẽ:
Đường cắt
1


1

2

2

+ GV hướng dẫn HS so sánh, đồi chiếu các yếu tố hình học trong hình
vừa ghép để nhận thấy: Chiều rộng của hình chữ nhật bằng chiều cao của hình
17


tam giác, chiều dài của hình chữ nhật bằng cạnh đáy của hình tam giác. Từ đó,
GV có thể gợi ý:
* Viết ngắn gọn cách tính diện tích của hình chữ nhật? (Chiều cao x đáy).
* So sánh diện tích của hình tam giác với diện tích của hình chữ nhật và
rút ra cách tính diện tích của hình tam giác (chiều cao x đáy: 2);
+ GV nhận xét kết quả làm việc của HS, hướng dẫn HS khái quát hoá: S
= a x b : 2, trong đó a là độ dài đáy, h là chiều cao tương ứng với đáy a (a và h
có cùng đơn vị đo) S là diện tích (kèm hình vẽ).

h

a
* Lưu ý HS: Cần ghi nhớ công thức, cách thành lập công thức để vận
dụng trong những trường hợp khác sẽ gặp sau này.
+ Học sinh áp dụng công thức (vừa thành lập) để tính diện tích tam giác
đã nêu trong bước 1 (3 x 4 : 2 = 6 (cm2))
Hoạt động 2: : Thực hành
Bài 1: Tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều cao có cùng đơn vị

đo.
+ HS tự làm và nêu kết quả. HS khác nhận xét (cách tính và kết quả).
a)

8 x 6 : 2 = 24 cm2;

b)

2,3 x 1,2 : 2 = 1, 38 dm2.

+ GV tổ chức cho HS khá, giỏi giúp đỡ bạn. Nhận xét về đơn vị đo (đáy
và chiều cao đều có đơn vị đo là cm (dm)), diện tích có đơn vị đo là cm2 (dm2).

18


Bài 2: Tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều cao không có cùng
đơn vị đo (1 bài) và 1 bài tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều
cao có cùng đơn vị đo, số đo là số thập phân nhưng số chữ số ở phần nguyên
khác nhau.
+ HS tự làm và nêu kết quả? HS khác nhận xét.
a) 5m = 50 dm; hoặc 24 dm = 2,4 m.
50 x 24 : 2 = 600 (dm2); hoặc 5 x 2,4 : 2 = 6 (m2).
b) 42,5 x 5,2 : 2 = 110,5 (m2)
+ HS phát hiện thêm vấn đề: số đo độ dài đáy và chiều cao không cùng đơn vị
đo (câu a).+ GV tổ chức cho HS khá, giỏi giúp đỡ bạn. GV nhận xét, kết luận và
nêu vấn đề: trước khi áp dụng công thức tính diện tích hình tam giác cần lưu ý
điều gì? (đổi số đo độ dài đáy và chiều cao về cùng số đo)

19



III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1- Kết quả đạt được:
Nhờ vận dụng những biện pháp tạo tình huống có vấn đề trong tiết dạy
Toán ở trên tôi thấy chất lượng môn Toán của lớp tôi tăng lên rất nhiều. Tôi đã
đối chiếu bài kiểm tra cuối học kỳ II với bài kiểm tra Khảo sát đầu năm học năm
như sau:
Lớp 5A

GIỎI
SL

KHÁ
TL(%) SL

TRUNG BÌNH
TL(%) SL

Sĩ số:31

20

TL(%)

YẾU
SL

TL(%)



IV. KẾT LUẬN
Các biện pháp tạo ra tình huống có vấn đề trong tiết dạy Toán là rất quan
trọng, nó mang lại rất nhiều lợi ích cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy
học.
- Về nhận thức: đa số giáo viên trong nhà trường đều hiểu và xác định được
vai trò và sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học trong quá trình lên
lớp. giáo viên, tổ chuyên môn đều xây dựng các giờ dạy thử, các giờ dạy mẫu
nhằm định hình cho mình một phương pháp dạy học phù hợp trong từng bài dạy,
tiết dạy. nếu trước kia giáo viên đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm của bản thân thì nay dựa vào cơ sở khoa học và định hướng của đề
tài mà giáo viên có một cách nhìn tổng thể để đổi mới phương pháp dạy học,
nhờ đó mà thực hiện dễ dàng và hiệu quả hơn. Cách dạy này có một số ưu
điểm sau:
+ Học sinh nắm chắc được kiến thức trọng tâm của bài.
+ Phát huy được tính chủ động, tích cực trong học tập.
+ Giáo viên không phải nói nhiều mà thay vào đó học sinh sẽ được thực
hành nhiều.
+ Các tồn tại của những năm học trước đã được khắc phục ở năm học này.
+ Tiết học đảm bảo đúng thời gian quy định (không kết thúc sớm), tránh
được sự đơn điệu trong bài học, thu hút sự chú ý của học sinh.
Trên đây là toàn bộ nội dung SKKN “ Một số biện pháp dạy học toán 5 để
học sinh tự tìm tòi khám phá kiến thức mới”; với mục đích: “đưa học sinh vào vị
21


trí chủ thể của hoạt động nhận thức. học sinh được hoạt động nhiều hơn, suy
nghĩ nhiều hơn” như mục đích của chương trình tiểu học năm 2000 đã đề ra. Vì
thời gian có hạn nên SKKN này sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót,
kính mong các thầy cô giáo cùng bạn đọc góp ý, bổ sung để SKKN được hoàn

thiện hơn.
Tôi xin trân thành cảm ơn
Người viết

Nguyễn Ngọc Ánh

22


V. KIẾN NGHỊ
1. Đối với nhà trường:
- Nâng cao vai trò và trách nhiệm của tổ chuyên môn trong việc tổ chức và
triển khai các hoạt động chuyên môn trong đó có nhận xét, đánh giá việc đổi
mới phương pháp dạy học của giáo viên trong tổ. nếu công việc này được làm
thường xuyên, có kế hoạch thì chắc chắn sẽ có tác dụng và hiệu quả cao.
- Ngay từ đầu năm phải xây dựng được kế hoạch hoạt động riêng cho nội
dung đổi mới phương pháp dạy học, kế hoạch phải rõ ràng, chi tiết và dễ thực
hiện. định kì, kết hợp với tổ chuyên môn để rút kinh nghiệm và định hướng cho
các công việc tiếp theo.
- Có đầu tư hợp lí cho việc mua sắm phương tiện dạy học và các tài liệu
chuyên môn phục vụ cho dạy và học. thường xuyên tổ chức các chuyên đề, hội
thảo tập trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học, lấy đó là một trong những
tiêu chí nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
2. Đối với các cấp quản lí:
- Nên tổ chức nhiều chuyên đề "đổi mới phương pháp dạy học" hơn nữa,
trong mỗi chuyên đề nên tập trung vào việc làm cụ thể, tránh mang nặng tính lí
thuyết khó vận dụng.
- Có kế hoạch cung ứng sách giáo khoa , các tài liệu tham khảo và đồ dùng
dạy học sớm hơn, ngay từ khi kết thúc năm học cũ, để giáo viên có thời gian
nghiên cứu, tìm hiểu trước khi tham gia các lớp bồi dưỡng thường xuyên trong

hè.

23


VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Đặng Bá Lâm, Phạm Thành Nghị. Chính sách và kế hoạch trong quản lí
giáo dục - NXB Giáo dục - 1999.
2- Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục – NXB Giáo dục – 1990.
3- Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thành. Tâm lí học lứa tuổi và
tâm lí học sư phạm - Đại học quốc gia Hà Nội – 1999.
4- Nghị quyết 04 – Ban chấp hành TW Đảng khoá VII về đổi mới sự nghiệp
giáo dục.
5- Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ hai khoá VIII.
6- Nghị quyết Đại hội đại biểu lần IX của Đảng về định hướng chiến lược
phát triển GD - ĐT trong thời kì CNH – HĐH đất nước.
7- Tạp chí Giáo dục - năm 2005 - 2007
8- Tạp chí: “Thế giới trong ta” năm 2005 - 2007
9- Tạp chí: “Giáo dục và đào tạo Hải Dương” - năm 2005 - 2007
10- Sách giáo khoa TOÁN lớp 5 năm học 2006 - 2007
- Sách hướng dẫn giảng dạy môn Toán lớp 5 (tập 1+2)
- Sách thiết kế bài giảng môn Toán lớp 5. (tập 1+2)
- Vở bài tập và sách giáo khoa môn Toán lớp 5. (tập 1+2)
- Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 5 (tập 1+2) của (NXB- GD)
- Hỏi - đáp về dạy học Toán 5.(NXB-GD)
- Cuốn tạp chớ Thế giới trong ta – Chuyên đề 62 + 63 số ra trong tháng 4 + 5
năm 2007
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III - Nhà Xuất bản Giáo dục

24



VII. MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

4

1) Cơ sở lí luận

4

2) Cơ sở thực tiễn

4

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1) Tự tìm tòi, khám phá kiến thức trong học tập

6

2) Tác dụng của hoạt động tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới

6

3) Quy trình dạy học để học sinh tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới

7

4) Một số lưu ý khi thực hiện cách dạy để học sinh tự tìm tòi, khám 8
phá kiến thức mới

5) Một số ví dụ

9

PHẦN III: KẾT LUẬN

9

I/ Kết luận chung
II. Những khó khăn và hướng khắc phục

26

III. ý kiến đề xuất

26

1. Đối với nhà trường

26

2. Đối với các cấp quản lí

25


×