Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Quan niệm tính đảng trong văn học việt nam giai đoạn 1945 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.31 KB, 112 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 giữ một vai trò quan trọng trong
lịch sử văn học dân tộc.Trong đó bộ phận văn học cách mạng là nhân tố chủ
yếu quyết định sự phát triển của nền văn học giai đoạn này.
Từ năm 1945 đến năm 1975, trên đất nƣớc ta diễn ra nhiều sự kiện lớn
lao: cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mƣơi
năm, công cuộc xây dựng cuộc sống mới, con ngƣời mới ở miền Bắc…
Những sự kiện đó đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất,
tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã mở ra trên đất nƣớc ta một thời kì lịch sử mới: thời kì độc lập tự
do gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự kiện lich sử ấy, một nền văn
học mới ra đời phát triển chặt chẽ, toàn diện dƣới sự lãnh đạo của Đảng nên
nó có những đặc điểm, qui luật và thành tựu riêng. Đó là một nền văn học
phát triển thống nhất về tƣ tƣởng, tổ chức, phƣơng pháp sáng tác, thống nhất
về quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn- chiến sĩ. Trong đó tính Đảng là một
yêu cầu đầu tiên của tác phẩm văn học. Đối với nhà văn thì việc xác định lập
trƣờng tƣ tƣởng là quan trọng nhất. Đảng nhấn mạnh lập trƣờng dân tộc, dân
chủ nhân dân, lập trƣờng kháng chiến và yêu cầu văn nghệ sĩ sáng tác phục vụ
cuộc chiến đấu, và cao hơn nữa yêu nƣớc phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội,
tác phẩm phải đạt tới tính Đảng và phải đƣợc sáng tác theo phƣơng pháp hiện
thực xã hội chủ nghĩa.
Sau năm 1975 đến nay, từ những biến đổi to lớn của đời sống xã hội, nền
văn học đã bƣớc sang một giai đoạn mới trên một đất nƣớc hòa bình thống
nhất. Nó mang những đặc điểm mới và phát triển theo những qui luật mới, đã
đƣa đến sự thay đổi các thang chuẩn quan trọng trong việc nhìn nhận các giá

1


trị cuộc sống và văn học nghệ thuật. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân, sự quan tâm


đến con ngƣời trong tính cụ thể cá biệt. Con ngƣời đƣợc đánh giá từ cái nhìn
đa chiều. Tinh thần dân chủ và cảm hứng nhân bản là đặc điểm nổi bật của
văn học thời kì đổi mới. Đòi hỏi của tính Đảng dƣờng nhƣ không đặt ra thành
những nguyên tắc mang tính định hƣớng cho hoạt động văn học. Điều đó
chứng tỏ ngày nay, tính Đảng không còn mang ý nghĩa thời sự. Dù nền văn
học của chúng ta vẫn phát triển theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nhƣng vai
trò tính Đảng đã hòa vào đặc điểm chính trị của xã hội tạo nên sự phát triển
của nền văn học mới đang đi theo hƣớng tự do, tự phát.
Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đƣợc coi là “Giai đoạn
mở đầu cho một thời kì văn học mới chƣa có tiền lệ” [33;10]. Theo Trần Đình
Sử, đó là vì “do nhu cầu đổi mới bức thiết của văn học trong công cuộc đổi
mới chung của đất nƣớc, cũng nhƣ do khát vọng thiết tha muốn tự vƣợt lên
chính mình trong thời kỳ mới”[56,31]. Vấn đề nhìn nhận và đánh giá lại nền
văn học giai đoạn này nảy sinh rất nhiều ý kiến không trùng khớp nhau, thậm
chí phủ định nhau. “Bên cạnh việc khẳng định nền văn học cách mạng giai
đoạn này mà những nhƣợc điểm đƣợc nhận thức sâu sắc hơn, một số hiện
tƣợng văn học từng đƣợc đánh giá cao nay không còn đƣợc giữ nguyên kích
thƣớc nhƣ cũ” [56;31]. Cũng có ý kiến cho rằng văn học 1945 – 1975 là “một
khúc gãy làm gián đoạn tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đã đƣợc dấy
lên từ đầu thế kỷ, nhất là giai đoạn 1930 – 1945, mà mãi tới sau 1986 mới lại
đƣợc tiếp nối” [56;32]. Ý kiến này có lẽ xuất phát từ việc đem “đối lập tuyệt
đối giữa cá nhân và cộng đồng, giữa ý thức xã hội và ý thức nhân bản – đó là
sự đề cao ý thức cá nhân, chú trọng đến việc khám phá cái tôi mà xem nhẹ ý
thức cộng đồng”[34,16]. Có ý kiến cho rằng, văn học giai đoạn này là văn học
“hy sinh nghệ thuật” vì nó phục vụ mục đích chính trị cách mạng. Dƣờng nhƣ
việc phục vụ chính trị, cổ vũ và tuyên truyền là tất cả giá trị của nền văn học

2



này, nền văn học này đã “lạm dụng nguyên lý phản ánh, cốt ghi chép cho
nhiều ngƣời thật, việc thật” và giá trị đích thực của văn học chủ yếu là ở
phƣơng diện tƣ liệu, đời sống [56;32].
Mặc dù có rất nhiều cuộc thảo luận, xuất hiện rất nhiều ý kiến về nhiều
vấn đề liên quan nhƣng chúng ta ít thấy những ngƣời nghiên cứu bàn về tính
Đảng trong văn học.Bốn mƣơi năm đã trôi qua, đất nƣớc đã có nhiều thay đổi,
phát triển theo xu hƣớng hội nhập về mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị , văn
hóa…Đó là khoảng thời gian đủ để một thế hệ trƣởng thành, một thế hệ mới
nhìn nhận, đánh giá nền văn học chiến tranh, và cũng đủ để các thế hệ trƣởng
thành trong chiến tranh nhìn nhận, đánh giá lại nền văn học cách mạng một
thời. Tính chính trị của văn học vẫn là một vấn đề quan trọng, cốt lõi của lý
luận văn nghệ. Chính thể ở Việt Nam vẫn là chính thể do Đảng cộng sản cầm
quyền, nền chính trị của đất nƣớc vẫn phát triển theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy không thể không bàn đến vấn đề tính Đảng. Những cuộc đấu
tranh và phê bình trong văn học, văn nghệ gần đây đã chứng tỏ nguyên tắc
tính Đảng chƣa phải đã hoàn toàn bị bỏ qua.Chính vì vậy trong phạm vi đề tài
này chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề “ quan niệm tính
Đảng trong văn học Việt Nam giai đọan 1945-1975’’, mà đối tƣợng nghiên
cứu của chúng tôi là văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn này.
2. Lịch sử vấn đề
Những năm 1945-1975, khái niệm tính Đảng trong văn học cách mạng
là một vấn đề quen thuộc với nhiều bạn đọc, bài báo của Lê nin “Tổ chức của
Đảng và văn học có tính Đảng”, 1905 đã đƣợc dich ra tiếng Việt và phổ biến
rộng rãi, bên cạnh những sách, tài liệu lý luận, các loại sách dịch thuật, nghiên
cứu nhƣ: Tính nhân dân, tính giai cấp và tính Đảng của nghệ thuật do Viện
Hàn lâm khoa học Liên Xô biên soạn, năm 1961; C.Mác - Ph. Ăngghen - V.I.
Lênin, Về Văn học và nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, năm 1977; C.Mác -

3



Ph. Ăngghen - V.I. Lênin và một số vấn đề lý luận văn học, Hà Minh Đức biên
soạn, Nhà xuất bản Sự thật, năm 1981; Lênin, Bàn về văn học và nghệ
thuật,Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, 1960… Những cuốn sách này là nguồn tài
liệu chính cho những ngƣời làm công tác văn nghệ và sinh viên trong các
trƣờng ngữ văn lúc bấy giờ.
Trong quá trình lãnh đạo văn nghệ , Đảng cộng sản bao giờ cũng dựa
trên cơ sở quan điểm mĩ học mác xít và việc áp dụng nguyên lý tính Đảng đã
đƣợc thể hiện trong những văn kiện quan trọng cụ thể hóa đƣờng lối văn nghệ
của Đảng : Đề cương văn hóa năm 1943 nhận định con đƣờng phát triển tất
yếu của văn hóa Việt Nam là “ Văn hóa xã hội chủ nghĩa”, thƣ của ban chấp
hành trung ƣơng Đảng gửi Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, Nghị quyết
của Đại hội Đảng lần thứ 3(1960), các bức thƣ, bài phát biểu, bài nói chuyện
của các đồng chí lãnh đạo Đảng,đặc biệt là bài phát biểu của Trƣờng Chinh
tại đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III: “Tăng cường tính Đảng, đi sâu vào
cuộc sống mới để phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng tốt hơn nữa”. Tính
Đảng trong văn học cũng đƣợc các nhà nghiên cứu trình bày trong các cuốn
sách lý luận, giáo trình văn học: Cơ sở lý luận văn học, tập 1 của tổ bộ môn
Lý luận văn học các trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Vinh và Đại học tổng
hợp, năm 1976; Nhìn lại nửa thế kỉ lý luận hiện thực xã hội chủ nghĩaPhƣơng Lựu; Cơ sở lý luận văn học, tập I, của nhóm tác giả Nguyễn Lƣơng
Ngọc(chủ biên)- Lê Bá Hán- Phƣơng Lựu- Bùi Ngọc Trác, năm 1980. Các
nhà giáo, các nhà nghiên cứu nhƣ Phan Cự Đệ, Bùi Ngọc Trác(Đại học tổng
hợp Hà Nội) cũng đã có nhiều bài viết trực tiếp bàn về tính Đảng, tính giai
cấp trong văn học. Các bài viết thể hiện quan điểm rõ ràng, nhất quán đề cao
nguyên tắc tính Đảng trong sáng tác văn học của các tác giả Nam Mộc, Vũ
Đức Phúc, Hoàng Xuân Nhị… Một số bài viết trên tạp chí nghiên cứu văn
học số 1, tháng 1 năm 1960(Đặc san kỉ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng):

4



Đặng Thai Mai, Vai trò lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn học ba mươi
năm nay, Phạm Bình, Phan Cự Đệ, Mười năm năm văn học cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng; Hoàng Nhƣ Mai, Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng
tháng Tám; Vũ Đức Phúc, Thơ và cách mạng: nghiên cứu tập thơ “Từ ấy”
của Tố Hữu…Tuy nhiên, nội dung các công trình nghiên cứu trên hoặc là
đánh giá mang tính tổng quát, cung cấp một kiến thức chung nhất hoặc đề cập
tới một khía cạnh nhƣ tính Đảng trong môt khoảng thời gian nào đó của văn
học giai đọan 1945-1975 hay trong sáng tác của một tác giả cụ thể, hoặc là
một số bài viết cách đây nhiều chục năm,nay nhìn lại cũng thấy rõ những hạn
chế trong nhận thức và quan niệm đƣơng thời.Hầu hết các tác phẩm này chƣa
đi sâu thành chuyên đề có tính lý luận cụ thể về tính Đảng trong văn học cách
mạng giai đoạn 1945-1975.
Trong những năm gần đây việc nhìn lại và đánh giá giai đoạn văn học
này trở thành một vấn đề mang tính chất thời sự, xuất hiện nhiều bài viết,
nhiều quan điểm mới mẻ : Phƣơng Lựu “ Thử tự giải đáp đôi điều về đường
lối văn nghệ của Đảng”[37]; Trƣơng Đăng Dung “ Những đặc điểm của hệ
thống lý luận văn học mác xít thế kỉ XX”- tạp chí văn học số 7, 2001; Lã
Nguyên “ Diện mạo văn học Việt Nam 1945-1975 nhìn từ góc độ thi pháp thể
loại”- Tạp chí văn nghệ quân đội số 9, 1995…Tác giả Nguyễn Bá Thành: “
Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà
Nội, 2006; và cuốn “Tư duy thơ Việt Nam hiện đại”, nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội, 2012…cũng bàn nhiều đến khái niệm tính Đảng, tính chính
trị trong văn học cách mạng 1945-1975.
Một số công trình nghiên cứu đã đi sâu bàn về những đặc điểm về nội
dung, hình thức, thuộc tính… của văn học giai đoạn này liên quan đến đề tài
của chúng tôi: Luận án tiến sĩ Ngữ văn của Vũ Hồng Loan, Văn học Việt Nam
tiếp nhận văn học Xô Viết [32], Trần Thị Minh Giới, Quan niệm văn học là vũ

5



khí cách mạng và ảnh hưởng của nó đối với thơ 1945-1985[16]. Luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Thị Thắm, Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách
mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1985[60].Đó chính là vốn tƣ liệu phong phú
cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
3. Đối tƣợng, phạm vi đề tài và mục đích nghiên cứu.
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là quan niệm tính Đảng trong văn học
cách mạng,bắt nguồn từ quan niệm về tính Đảng của hệ tƣ tƣởng mác xít, nó
đã du nhập vào Việt Nam, ảnh hƣởng, chi phối một cách toàn diện đến văn
học cách mạng giai đoạn 1945-1975.
Một số công trình nghiên cứu chọn giai đoạn văn học 1945 đến sau năm
1975 kéo dài đến năm 1985. Nhƣng trong đề tài này chúng tôi chọn văn học
1945-1975 vì nó tồn tại và phát triển trong bối cảnh xã hội đặc biệt-Ba mƣơi
năm kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc, vai trò của Đảng
luôn tỏ rõ tính chất độc tôn của mình trong đƣờng lối lãnh đạo văn nghệ .
Tính Đảng, yêu cầu của Đảng đối với văn học cách mạng đã đƣợc thể hiện
một cách toàn diện, thống nhất mang tính nguyên tắc một cách rõ nét nhất.
Mĩ học Mác- Lênin xem sáng tác văn học nghệ thuật là thể hiện tinh thần
đấu tranh của con ngƣời, do lập trƣờng một giai cấp nhất định chi phối. Nghĩa
là, thế giới quan thống nhất với sáng tác, quyết định sáng tác.Từ thế giới quan
đến phƣơng pháp sáng tác, đến tác giả, tác phẩm, tạo thành một khung định
hƣớng cho hoạt động sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học. Sáng tác văn
học của nhà văn phải tuân theo yêu cầu của tính đảng, tính giai cấp, tính nhân
dân, dân tộc... Vì vậy mục đích nghiên cứu của chúng tôi tiến hành khảo sát
mối quan hệ đồng nhất giữa thế giới quan, lập trƣờng giai cấp và sự tuyệt đối
hóa vai trò của mĩ học mác xít trong sáng tác nghệ thuật dƣới sự lãnh đạo của
Đảng trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1975.

6



Quá trình khảo sát, nghiên cứu cũng nhằm đánh giá một cách toàn diện,
khách quan về các giá trị và thành tựu cũng nhƣ hạn chế của văn học giai
đoạn này do điều kiện lịch sử, ý thức của thời đại và những nguyên nhân chủ
quan khác.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Từ đặc điểm của đối tƣợng và mục đích nghiên cứu của luận văn, tôi
thực hiện đề tài theo các phƣơng pháp sau đây:
- Phƣơng pháp lịch sử - xã hội
- Phƣơng pháp nghiên cứu xã hội học văn học
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp và các phƣơng pháp khác nhƣ:,
phƣơng pháp nghiên cứu hệ thống, phƣơng pháp nghiên cứu văn hóa học,
phƣơng pháp liên ngành.
5. Cấu trúc Luận văn
Luận văn gồm 109 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, thƣ mục tham
khảo, phần chính của luận văn đƣợc cấu tạo thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Quan niệm tính Đảng và sự lãnh đạo của Đảng đối với văn
học cách mạng Việt Nam 1945-1975.
Chƣơng 2: Tính Đảng trong lý luận và phê bình văn học cách mạng giai
đoạn 1945-1975.
Chƣơng 3:Quán triệt quan niệm Tính Đảng tới thực tiễn sáng tác trong
văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1975.

7


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. QUAN NIỆM TÍNH ĐẢNG VÀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI VĂN HỌC CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1945-1975

1.1. Quan niệm tính Đảng trong văn học
1.1.1. Khái niệm về tính Đảng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và sự ra đời của quan niệm tính Đảng
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài ngƣời, quần chúng lao
động luôn luôn ƣớc mơ, mong muốn đƣợc sống trong một xã hội bình đẳng,
công bằng, có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Vì vậy, họ liên tục đấu tranh để
thực hiện ƣớc mơ, khát vọng đó. Nhiều tƣ tƣởng tiến bộ và nhân đạo đã hình
thành và phát triển để dẫn dắt cuộc đấu tranh của quần chúng.Đến giữa thế kỷ
XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
chống lại sự áp bức bóc lột của giai cấp tƣ sản phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi có
một lý luận khoa học hƣớng dẫn. Tuyên ngôn Đảng cộng sản ra đời, đây là
bản cƣơng lĩnh cách mạng đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân thế
giới, là tác phẩm lý luận tổng kết toàn bộ quá trình hình thành chủ nghĩa Mác,
trình bày những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học
của giai cấp vô sản. Tác phẩm này do Các Mác (1818 - 1883) và Ăng-ghen
(1820 -1895) soạn thảo vào cuối năm 1847, đƣợc công bố vào tháng 02 năm
1848 và xuất bản vào tháng 3/1848, đã mở đầu bằng một đúc kết mang tính
chân lý: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trƣớc tới nay chỉ là lịch sử đấu
tranh giai cấp”. Mà “ Giai cấp là những tập đoàn ngƣời đông đảo, những tập
đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử, về những quan hệ(phần lớn là do luật pháp qui định và
thừa nhận) của họ đối với tƣ liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao
động, xã hội, và do đó, về những phƣơng thức hƣởng thụ của cải, và về số

8


lƣợng của cải xã hội mà họ chi phối. Giai cấp là những tập đoàn ngƣời mà tập
đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do địa vị khác nhau
mà họ chiếm giữ trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”[51,359].

Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của
xã hội. Ăng-ghen gọi qui luật đấu tranh giai cấp là qui luật vận động vĩ đại
của lịch sử. Học thuyết của Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp là chìa khóa
để nhận thức và phản ánh một cách trung thực, khách quan bản chất của các
quá trình lịch sử. Cuộc đấu tranh giai cấp biểu hiện dƣới nhiều hình thức và
nhiều mức độ khác nhau. Biểu hiện hoàn chỉnh nhất, toàn diện và rõ rệt nhất
là cuộc đấu tranh giữa các chính Đảng.Nhƣ vậy tính Đảng là biểu hiện tập
trung của tính giai cấp. Tính Đảng là bạn đồng hành và là kết quả của cuộc
đấu tranh giai cấp phát triển cao độ. Tính Đảng là biểu hiện tự giác cao nhất
về nhận thức những quan điểm, lợi ích của một giai cấp nhất định, ở đây là
giai cấp vô sản. Trong nghiên cứu khoa học, tính Đảng đƣợc thể hiện ở cuộc
đấu tranh trên nhiều lĩnh vực khác nhau để hiểu biết chân lý, phục vụ những
lợi ích của giai cấp vô sản một cách có ý thức. Tính Đảng cộng sản thể hiện ở
việc công khai bảo vệ lợi ích của quần chúng nhân dân và giai cấp tiêu biểu
nhất là giai cấp vô sản.
Vì vậy tính Đảng là một biểu hiện đặc thù của tính giai cấp trong hoàn
cảnh xã hội có đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Và một khi cuộc đấu
tranh giai cấp phát triển lên đỉnh cao thì phải có Đảng lãnh đạo. Tính Đảng đã
ra đời. Lê nin là ngƣời đầu tiên đƣa ra khái niệm tính Đảng. Lê nin cho rằng:
“ Tính Đảng là kết quả và biểu hiện chính trị của sự đối lập giai cấp phát triển
cao. Tính Đảng là điều kiện của sự phát triển chính trị, càng giác ngộ càng có
ý thức thì nói chung tính Đảng càng cao”[31]. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng
định rằng: Tính Đảng là biểu hiện cao nhất, tập chung nhất, có ý thức sâu sắc
nhất của tính giai cấp. Tính đảng xuất phát từ tính giai cấp, mà tính giai cấp

9


chính là bản chất, qui luật của mọi xã hội, mọi dân tộc từ khi loài ngƣời bị
phân hóa thành những kẻ áp bức bóc lột và những ngƣời bị áp bức bóc lột.

1.1.2. Quan niệm tính Đảng trong văn học.
Tính giai cấp, tính Đảng là những khái niệm cơ bản trong lý luận văn
nghệ mác- xít. Có thể nói đó là những khái niệm mang tính trụ cột, có tính
nền tảng trong những nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Những khái niệm này đã
tồn tại ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa nhƣ Liên Xô, Trung Quốc và các nƣớc
Đông Âu, thịnh hành nhất là những năm 1945-1985, trƣớc khi Liên Xô sụp
đổ. Tính giai cấp, tính Đảng là biểu hiện cao nhất của tính chính trị trong văn
học nghệ thuật. Coi văn học nghệ thuật nhƣ một phƣơng tiện phục vụ cho đấu
tranh tƣ tƣởng, đấu tranh giai cấp.
Tính đảng cộng sản là nguyên tắc tối cao, là linh hồn của toàn bộ nền
nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Tính đảng không gì khác hơn là sự biểu hiện tập
trung nhất và cao nhất của tính giai cấp. Khái niệm tính Đảng đã đƣợc bàn
đến từ hơn một thế kỉ trƣớc đây trong một bài báo rất nổi tiếng của V.I.Lê nin
“Tổ chức của Đảng và văn học có tính Đảng”, in lần đầu tiên trên báo Đời
mới, một tờ báo công khai của Đảng lao động dân chủ Xã hội vào tháng 10
năm 1905, tại Peterbua. Bài báo đã khẳng định :xã hội phân chia giai cấp thì
cá nhân con ngƣời trong xã hội đó bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất
định và mang bản chất giai cấp. Trong đó Lê nin đã chỉ rõ : " và quan điểm
của mọi người bao giờ tất yếu cũng xuất phát từ một môi trường xã hội nhất
định, môi trường đó là vật liệu, là đối tượng đời sống tinh thần của cá nhân
và được phản ánh vào ý nghĩ, tình cảm của cá nhân một cách tiêu cực hay
tích cực, đại diện cho quyền lợi giai cấp xã hội này hay giai cấp xã hội
khác". Lênin cho rằng: "Trong xã hội dựa vào sự phân chia giai cấp thì đến
một mức độ phát triển nhất định của nó, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp thù
địch nhất thiết sẽ trở thành cuộc đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh giữa các

10


đảng phái là biểu hiện hoàn chỉnh, đầy đủ, rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh

chính trị giữa các giai cấp"[31]. Ðấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới tổ chức
đảng. Nếu nhƣ Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp thì tính đảng
chính là biểu hiện tập trung nhất, cao nhất của tính giai cấp. V.I.Lênin nói:
"Tính đảng nghiêm túc là người bạn đường và là kết quả của cuộc đấu tranh
giai cấp phát triển đến cao độ, và ngược lại vì mục đích đấu tranh giai cấp
công khai và rộng rãi cần phải phát huy tính đảng nghiêm túc"[30; 104]. Là
một vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp trong xã hội,
khi mà cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến cao độ, bản thân văn chƣơng tự
nó đã mang tính đảng - theo nghĩa rộng rãi nhất của nó.
Khi nhà văn có ý thức sâu sắc về quyền lợi và địa vị của giai cấp mình,
họ công khai và kiên quyết dùng văn học nhƣ một thứ vũ khí đấu tranh cho sự
thắng lợi của một giai cấp. Lúc đó tính giai cấp đã phát triển thành tính
đảng.Vì vậy, tính đảng của văn chƣơng là khái niệm phản ánh mối liên hệ
giữa văn chƣơng với giai cấp và đảng của nó.
Khái niệm tính Đảng là tính giai cấp biểu hiện một cách cao nhất, tập
trung nhất trong tác phẩm văn học, chứng tỏ tác giả đã tự giác, thẳng thắn,
công khai đứng về lập trƣờng của một giai cấp nhất định. Các giai cấp khác
nhau có tính Đảng khác nhau…Ý thức đƣợc sứ mệnh lịch sử, giai cấp vô sản
công khai tuyên bố tính Đảng của mình…Nếu tính giai cấp là thuộc tính thì
tính Đảng cộng sản là phẩm chất của văn học. Điều đó chứng tỏ rằng: trong
xã hội có giai cấp, văn học cũng có tính giai cấp. Văn học không phục vụ lợi
ích của giai cấp này thì phục vụ lợi ích của giai cấp khác, Văn học là một vũ
khí đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị, là tiếng nói của một giai cấp và một
khuynh hƣớng giai cấp nhất định. Không có văn học siêu giai cấp, phi chính
trị. Chính Đảng là tổ chức tự giác của giai cấp, là bộ tham mƣu chỉ huy toàn
bộ giai cấp trong cuộc đấu tranh để bảo vệ lợi ích giai cấp.

11



Tính Đảng là sự biểu hiện cao độ của tính giai cấp. Sự khác nhau giữa
tính Đảng và tính giai cấp cũng nhƣ sự khác nhau giữa Đảng và giai cấp.
Trong “Tuyên ngôn cộng sản”, Mác và Ăng-ghen đã phân biệt sự khác nhau
đó ở chỗ Đảng là bao gồm những ngƣời kiên quyết nhất và sáng suốt nhất của
giai cấp. Cho nên tính Đảng theo quan niệm của VI. Lê nin chính là tính kiên
quyết nhất và tính sáng suốt nhất của giai cấp vô sản. Về nguồn gốc lý luận,
tính Đảng trong văn học đã đƣợc V.I. Lê nin nêu lên thành một nguyên tắc
hoạt động, một phẩm chất bắt buộc cần phải có đối văn học vô sản Nga ở
những năm đầu thế kỉ XX. Tính Đảng là một hệ quả tất yếu của một quan
niệm có tính triết học về chính trị về ,văn hóa, về lịch sử. Từ quan niệm về
lịch sử xã hội loài ngƣời chỉ là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, từ bản
chất con ngƣời là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, đấu tranh giữa ngƣời bị
bóc lột với kẻ đi bóc lột là một cuộc đấu tranh vĩnh viễn…chủ nghĩa Mác- Lê
nin đi đến kết luận, văn học nghệ thuật luôn luôn phản ánh bản chất giai cấp
của con ngƣời và cuộc đấu tranh giai cấp vĩnh viễn đó.
Nguyên lý tính Đảng trong văn học nghệ thuật cũng có một quá trình
hình thành và phát triển. Bắt đầu từ tính khuynh hƣớng chính trị trong văn
học, Đô-bơ-rô-li-u-bốp, một nhà dân chủ cách mạng Nga, khi phân tích văn
học đƣơng thời, ông đã viết “… Trong các tác phẩm văn học đó, nếu ngƣời ta
giải thích về sự vật có liên quan trực tiếp đến nhân dân…thì không phải ngƣời
ta giải thích theo quan điểm của nhân dân, mà nhất định giải thích theo khía
cạnh lợi ích riêng của một Đảng phái, một giai cấp”(Trích theo Hoàng Ngọc
Hiến- Văn học Xô Viết bước vào thời kì xã hội chủ nghĩa phát triển) [19,88].
Tiếp đến là Mác- Ăngghen đã nêu lên yêu cầu “tính khuynh hƣớng” và sau đó
phát triển thành “tính khuynh hƣớng xã hội chủ nghĩa” đã đặt ra những yêu
cầu rất cao về phƣơng diện thẩm mỹ và lịch sử. Nó đòi hỏi phải bảo vệ các lợi
ích và những nguyên tắc của Đảng. Nhƣng Mác và Ăng ghen mới đặt vấn đề

12



khi bàn về những tác phẩm và từng nghệ sĩ riêng lẻ , và tình hình khách quan
lúc đó, Mác Ăng ghen thấy chƣa thật cần thiết đề xuất nguyên tắc tính Đảng
một cách công khai và thẳng thắn. Trong thƣ gửi cho Mina Caoxki, Ăngghen
viết: “ Trong hoàn cảnh hiện thời, tiểu thuyết viết ra chủ yếu là cho độc giả
thuộc các giới tƣ sản, nghĩa là những giới không phải trực tiếp là giới của
chúng ta” và nhƣ thế theo ý ông “cần làm lay chuyển đƣợc tính lạc quan của
giới tƣ sản, bắt ngƣời ta phải nghi ngờ sự trƣờng cửu của trật tự hiện có”, cho
dù “ tác giả không trực tiếp đề ra giải pháp, và cũng có khi tác giả không biểu
lộ rõ rệt ý định của mình”. Cho nên Mác- Ăngghen chƣa đặt vấn đề tƣ tƣởng
trong mối tƣơng quan tới vấn đề tổ chức một cách trực tiếp nhƣ Lê nin sau
này.Tuy nhiên “tính khuynh hƣớng xã hội chủ nghĩa” có tính chất tiếp cận,
mở đƣờng nhƣng chƣa phải là tính Đảng cộng sản.
Sau khi Mác, Ăng ghen qua đời, VI Lê nin đã kiên trì kế thừa có phát
triển quan niệm của Mác, Ăng ghen hoàn chỉnh hơn và sâu sắc hơn. Ở đây
tuyệt nhiên không hề có sự khác nhau về mặt thiên tài mà là bắt nguồn sâu xa
từ những nhu cầu của thời đại. Mác, Ăng ghen sống trong thời kì cách mạng
vô sản mới phát triển, nói chung còn sử dụng “vũ khí phê phán” là chủ yếu.
Thời đại Lê nin là thời đại bão táp cách mạng, hai loại “vũ khí phê phán” và
“sự phê phán bằng vũ khí” phải tiến hành song song. Và muốn cho sự “phê
phán bằng vũ khí” giành đƣợc thắng lợi, thì hơn lúc nào hết cần phải mài sắc
“vũ khí phê phán”. Từ “tính khuynh hƣớng xã hội chủ nghĩa” phát triển thành
“tính Đảng cộng sản”- lý do sâu xa là ở đó. Đặt vấn đề tƣ tƣởng trong mối
liên hệ gắn bó hữu cơ với vấn đề tổ chức, Lê nin viết: “ Giai cấp vô sản xã hội
chủ nghĩa phải đề ra nguyên tắc văn học có tính Đảng, và phải phát triển
nguyên tắc đó, thực hiện nguyên tắc đó đến một hình thức thật hết sức đầy đủ
và trọn vẹn”[30, 99]. Lê nin còn giải quyết các mối quan hệ giữa tính Đảng
với tính giai cấp và tính nhân dân.Lê nin đã đặt vấn đề tổng quát với toàn bộ

13



trào lƣu văn học: “ Toàn bộ văn học xã hội- dân chủ phải thành văn học có
tính Đảng”[30,96]. Bài báo của Lê nin “Tổ chức Đảng và văn học có tính
Đảng” đăng ngày 13/4/1905 trên báo Đời mới đã nêu lên những nguyên tắc
căn bản nhất của văn học. Những nguyên tắc đó đã thúc đẩy cho văn học cách
mạng Nga trở thành một nền văn học lớn và có một ảnh hƣởng vô cùng sâu
sắc đối với nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1975 dƣới sự lãnh đạo
của Đảng với nhiệm vụ chủ yếu là phê phán đấu tranh những quan điểm thù
địch,đƣợc xác định và xác lập cả về hai mặt tƣ tƣởng và tổ chức, đƣợc quán
triệt ở hai lĩnh vực tu dƣỡng nhà văn và hoạt động sáng tác.Theo quan điểm
của Đảng, nền văn học thấm nhuần tính Đảng cộng sản là nền văn học phải
trở thành một bộ phận hữu cơ trong sự nghiệp đấu tranh của Đảng : “ Sự
nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận trong sự nghiệp chung của giai
cấp vô sản, phải thành một bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc nhỏ trong bộ máy
xã hội- dân chủ vĩ đại, thống nhất, do toàn đội tiên phong giác ngộ của toàn
bộ giai cấp công nhân điều khiển”[30,96].
Ở Việt Nam giai đoạn 1945-1975, trong quá trình lãnh đạo đƣờng lối văn
nghệ, Hồ Chủ tịch khẳng định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt
trận…Văn hóa, nghệ thuật cũng nhƣ các hoạt động khác không thể đứng
ngoài mà phải ở trong kinh tế, chính trị”[43]. Đồng chí Trƣờng Chinh viết “
Học thuyết Mác Lê nin cho rằng trong xã hội có giai cấp thì văn nghệ phản
ánh cuộc đấu tranh giai cấp, có giai cấp rõ rệt và phục vụ một đƣờng lối chính
trị rõ rệt…Văn nghệ của chúng ta đứng hẳn về quyền lợi dân tộc, của nhân
dân lao động và thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam. Đó
chính là một đặc điểm của phong trào văn nghệ Việt Nam trong thời đại của
chúng ta ngày nay. Đó chính là Đảng tính (hay tinh thần Đảng) của văn nghệ
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa”[8]. Tính Đảng trƣớc hết biểu hiện ở tính


14


khuynh hƣớng sâu sắc, tập trung và có ý thức, chủ yếu là khuynh hƣớng tƣ
tƣởng chính trị. Tính Đảng vô sản trong văn học thể hiện ở khuynh hƣớng
cách mạng triệt để. Nó xuất phát từ hệ tƣ tƣởng Mác- Lê nin từ thế giới quan
khoa học và nhân sinh quan cộng sản. Nó phục vụ đƣờng lối chính sách của
Đảng tiền phong của giai cấp công nhân.
Tính Đảng gắn bó chặt chẽ với các nguyên lý tính giai cấp, tính nhân
dân, tính dân tộc, đồng thời nó còn liên quan chặt chẽ đến các vấn đề nội
dung, tƣ tƣởng , phƣơng pháp sáng tác…Tính Đảng trƣớc hết biểu hiện ở tính
khuynh hƣớng.Văn học cách mạng dƣới sự lãnh đạo của Đảng là văn học có
khuynh hƣớng rõ ràng, khuynh hƣớng đó là triệt để phục vụ các nhiệm vụ
chiến lƣợc, sách lƣợc trong từng giai đoạn cách mạng. Đảng đã vận dụng
quan điểm của Ăng ghen về tính khuynh hƣớng và quan điểm của Lê nin về
tính Đảng trong việc hƣớng văn học đi theo đƣờng lối của Đảng. Tính Đảng
đã quán triệt sâu sắc thế giới quan trong sáng tác của nhà văn, yêu cầu nhà
văn phản ánh hiện thực đời sống, dùng sáng tác của mình làm vũ khí chiến
đấu. Vậy nên tính Đảng là biểu hiện cao nhất, tập trung nhất của tính giai cấp,
tính nhân dân, tính dân tộc trong văn học cách mạng 1945-1975.
1.1.3. Tính Đảng và các thuộc tính của văn học (tính dân tộc, tính
nhân dân, tính giai cấp).
Tính Đảng cộng sản là đòi hỏi cao nhất, song cũng chỉ là một tính qui
định của nền văn học vô sản. Do đó thật sự muốn xác định thực chất của tính
Đảng, không thể không đặt nó trong mối tƣơng quan với các khái niệm hữu
quan và bản chất xã hội của văn học nhƣ tính nhân dân, tính dân tộc, tính giai
cấp…
Tính Đảng với tính nhân dân: Trong lịch sử phát triển của một dân tộc,
nhân dân bao giờ cũng là ngƣời chủ nhân chân chính của đất nƣớc. Nói đến
nhân dân là nói đến những lực lƣợng xã hội đông đảo trong xã hội quần chúng


15


nhân dân lao động, những ngƣời sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và giá trị tinh
thần cho xã hội. Họ là lực lƣợng chính của lịch sử. Ngoài ra nhân dân còn là
những thành phần xã hội khác mang xu thế tiến bộ của thời đại. Đứng về mặt
pháp luật thì những ngƣời đƣợc thừa nhận quyền công dân đều là thành phần
trong nhân dân.
Văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975, thái độ nhà văn đối với hiện
thực liên quan một cách mật thiết đến thái độ của nhà văn đối với nhân dân.
Nhƣng vấn đề tính nhân dân chỉ đƣợc đặt ra một cách đúng đắn từ khi có
Đảng lãnh đạo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin. Lênin đã từng chỉ
rõ: “Nghệ thuật là của nhân dân. Nó phải bắt rễ hết sức sâu xa trong quảng đại
quần chúng lao động, nó phải đƣợc quần chúng ấy hiểu và ƣa thích. Nó phải
liên hợp đƣợc tình cảm, ý chí của quần chúng ấy và nâng họ lên một trình độ
cao hơn”[30]. Tính nhân dân là một trong những phẩm chất của văn học. Một
mặt nó thể hiện ý thức và sự gắn bó của nhà văn đối với nhân dân. Mặt khác
nó phản ánh tƣ tƣởng, tình cảm và quyền lợi của nhân dân cùng với những
ƣớc mơ, hoài bão của họ. Những nhà văn lớn trong lịch sử đều biểu thị sự tôn
trọng nhân dân và phấn đấu để tác phẩm gắn bó với tƣ tƣởng, tình cảm, ƣớc
vọng của nhân dân. Đảng đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong lịch
sử và phê phán những quan điểm của giai cấp tƣ sản về quần chúng nhân dân.
Nhân dân là động lực chính, góp phần quyết định sự phát triển của dân tộc, do
đó nghệ thuật phải gắn bó với nhân dân. Đảng đã đề ra yêu cầu đối với văn
học: Văn học phải tiếp nhận những giá trị to lớn của nhân dân, mặt khác văn
học phải góp phần nâng cao trình độ của quần chúng.Tính nhân dân trong một
tác phẩm văn học đƣợc biểu hiện qua nhiều yếu tố. Trƣớc hết tác phẩm văn
học phải đề cập đến những vấn đề thiết thân của nhân dân, những vấn đề cơ
bản của thời đại: đó là công cuộc trƣờng chiến chống thực dân và đế quốc mà

nhân dân là ngƣời tham dự vào sự kiện lịch sử xã hội đó.Những tác phẩm

16


thực sự có giá trị không bao giờ né tránh những vấn đề cơ bản nhất, bản chất
nhất, quan trọng nhất của thời đại họ đang sống. Một tác phẩm có tính nhân
dân phải nói lên đƣợc tƣ tƣởng tiến bộ nhất trong từng thời kì lịch sử, cách
đánh giá của ngƣời dân trƣớc hiện tƣợng xã hội. Văn học Việt Nam giai đoạn
1945-1975, là một nền văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và
kháng chiến, hƣớng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân
dân, thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tƣơng lai tất thắng của cuộc
kháng chiến. Tính nhân dân trong văn học cách mạng 1945-1975 là sự liên hệ
với nhân dân, là sự phản ánh cuộc sống của nhân dân, là sự biểu hiện tƣ
tƣởng, tình cảm, nguyện vọng và lợi ích của ngƣời lao động trong sản xuất,
chiến đấu. Việc biểu hiện đó theo quan điểm của giai cấp vô sản dƣới sự
lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy tính nhân dân và tính Đảng cộng sản có
quan hệ mật thiết trong nền văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn này. Do
đó không phải tính giai cấp nào cũng gắn liền với tính nhân dân, mặc dù tính
nhân dân của bất kỳ loại văn học nào cũng mang nội dung giai cấp cụ thể.
Trong một thời kỳ lịch sử nhất định, tính nhân dân cao nhất đƣợc biểu hiện
tập trung ở giai cấp tiên phong. Các giai cấp khác sẽ đƣợc đánh giá về tính
nhân dân tùy theo vai trò của mình trong hàng ngũ nhân dân. Nhƣ thế cũng có
nghĩa là những tiêu chuẩn tƣ tƣởng - thẩm mỹ cao nhất của tính nhân dân
trong văn học cũng biến đổi tùy theo sự thay đổi vị trí của các giai cấp tiên
phong trong lịch sử.
Tính đảng cộng sản và tính nhân dân thống nhất với nhau trong văn học
cách mạng 1945-1975. Vì tính đảng đƣợc coi là tính giai cấp tiến bộ nhất,
giác ngộ nhất trong nhân dân lao động. Hơn nữa đảng cộng sản Việt Nam
"ngoài lợi ích của nhân dân ra Ðảng ta không có một lợi ích nào khác"( Hồ

Chí Minh). Vì thế lấy tiêu chuẩn tính nhân dân để đánh giá các tác phẩm hiện
nay thì nó đã bao hàm tính đảng rồi - tính đảng là biểu hiện cao độ của tính

17


nhân dân (tiêu chuẩn tính nhân dân cao nhất mọi thời kỳ phải đo bằng lực
lƣợng xã hội tiên tiến nhất thời kỳ đó).Tuy nhiên, không thể đồng nhất tính
nhân dân và tính đảng.Cách mạng có quy luật phát triển không đều, ở đâu giai
cấp vô sản chƣa nắm đƣợc chính quyền thì ở đó văn chƣơng vô sản chƣa ở
mức quy mô, công khai hợp pháp, toàn dân. Hơn nữa đề ra tính đảng là đề ra
một tiêu chuẩn cao nhất cho sáng tác.Tính nhân dân là dấu hiệu quan trọng
nhất nói lên sức sống lâu bền, phi thƣờng và bất diệt của nghệ thuật, là niềm
tự hào chân chính của các thế hệ nhà văn, chỉ có liên hệ một cách sâu xa, rộng
lớn, lâu bền với nhân dân thì văn chƣơng nghệ thuật mới đƣợc tồn tại và phát
triển lành mạnh. Dƣới chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, với tính đảng vô sản,
văn chƣơng có điều kiện khắc phục những hạn chế của văn chƣơng nhân dân
quá khứ và phát triển mạnh mẽ, toàn diện tính nhân dân của mình.
Tóm lại đối với mỹ học Mac- Lê nin, tính Đảng cộng sản gắn chặt với
tính nhân dân trong sáng tạo nghệ thuật. Vì văn học có tính Đảng là văn học
liên hệ chặt chẽ với đời sống của nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân, và
văn nghệ là sự nghiệp của nhân dân.
Tính Đảng với tính dân tộc: Tính dân tộc là một đặc tính chung của một
cộng đồng ngƣời có chung một lãnh thổ, một ngôn ngữ, phƣơng thức sản xuất
và chế độ chính trị qua sự phát triển lâu dài của lịch sử.Tính dân tộc đó biểu
hiện trong các hoạt động thực tiễn mà trƣớc hết là biểu hiện trong nền văn hóa
của dân tộc đó. Nói đến tính dân tộc là nói đến sự hài hòa giữa cái cũ, cái
truyền thống với cái mới, cái đƣợc chọn lọc từ cái cũ và đồng hóa từ cái bên
ngoài. Giữa tính dân tộc và tính nhân loại có mối quan hệ biện chứng. Tính
dân tộc là thuộc tính và còn đƣợc xem nhƣ một phẩm chất của văn học. Từ

sau cách mạng tháng Tám, Đảng ta chủ trƣơng nâng cao tính dân tộc trong
văn học nghệ thuật. “Đề cƣơng văn hóa Việt Nam”(1943) do Trƣờng Chinh
soạn thảo đã nhấn mạng ba phƣơng châm lớn của văn hóa văn nghệ là: dân

18


tộc, khoa học, đại chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn văn nghệ
sĩ: “Phải trau dồi văn hóa Việt Nam cho thật có tinh thần thuần túy Việt
Nam’’.Chính vì vậy tính dân tộc của một tác phẩm văn học trƣớc hết biểu
hiện ở nội dung phản ánh đúng đắn và chân thực cuộc sống và chiến đấu của
nhân dân trong ba mƣơi năm trƣờng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ. Những tác phẩm văn học cách mạng giai đoạn 1945-1975 đều mang đậm
tính dân tộc vì đã phát huy tinh thần yêu nƣớc, đề cao niềm tự hào dân tộc,
khơi dậy lòng căm thù quân xâm lƣợc, kêu gọi đấu tranh giành độc lập, tự do
cho tổ quốc. Đất nƣớc Việt Nam là một dải đất hẹp nằm trên bán đảo Đông
Dƣơng, dân tộc Việt Nam phải chịu đựng dồn dập thiên tai và nạn ngoại xâm.
Hoàn cảnh ấy đã tạo cho con ngƣời Việt Nam tinh thần bất khuất và lòng
nhân ái bao la.Tinh thần bất khuất bộc lộ trong ý thức tự chủ, tinh thần tự lực,
tự cƣờng chống mọi sự đàn áp, tinh thần đoàn kết, quyết tâm chống giặc
ngoại xâm giành lại độc lập tự do…là những tƣ tƣởng đƣợc biểu hiện sâu sắc
trong các tác phẩm văn học giai đoạn này. Giữ gìn và phát huy bản sắc của
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của tác phẩm văn học. Giai đoạn 1945-1975,
tính dân tộc thể hiện trong bản chất của văn học cách mạng đó là giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nƣớc.
Tính Đảng với tính giai cấp: Đảng luôn nhấn mạnh đến mối quan hệ
giữa văn học và kinh tế, chính trị“Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy”, “văn hóa
nghệ thuật cũng nhƣ mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải đứng
trong kinh tế, chính trị”[44]. Do đó văn học bao giờ cũng có một bản chất xã
hội nhất định, thuộc về một giai cấp nhất định.Lênin nói: “Trong xã hội dựa

vào sự phân chia giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp đối địch,
đến một trình độ phát triển nhất định của nó, tất yếu sẽ biến thành cuộc đấu
tranh chính trị. Biểu hiện hoàn chỉnh nhất, trọn vẹn nhất và có hình thức rõ
ràng nhất của đấu tranh chính trị giữa các giai cấp là đấu tranh của Đảng

19


phái”[30, 103]. Lê nin muốn nhấn mạnh tính Đảng cộng sản mà ngƣời đề
xƣớng trong văn học luôn gắn bó với tính giai cấp vô sản. Cái trƣớc chính là
biểu hiện tập trung cao độ của cái sau.Nền văn học có tính Đảng nhằm phục
vụ quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động và nâng cao sự giác ngộ của
nhân dân về mọi mặt, không những về chính trị mà còn về văn hóa thẩm mỹ.
Tính Đảng cộng sản gắn liền với tính nhân dân: “ Đó sẽ là văn học tự do vì
rằng nó không phải là để phục vụ các bà ăn uống phè phỡn….mà là để phục
vụ hàng triệu và hàng chục triệu nhân dân lao động tức là tinh hoa, lực lƣợng,
tƣơng lai của đất nƣớc”[30,99]. Với Lê nin, một nền văn học có tính Đảng
phải đƣợc vũ trang bằng tƣ tƣởng của giai cấp công nhân, phải phục vụ tuyệt
đại đa số nhân dân, bồi dƣỡng và nâng cao họ. Tính Đảng cộng sản do đó
thống nhất với tính giai cấp và tính nhân dân, nhƣng là một sự thống nhất biện
chứng. Không phải là nền văn học có tính giai cấp, hoặc có tính nhân dân, vị
tất đã có tính Đảng. Mà phải là nền văn học có tính giai cấp vô sản tự giác dồi
dào, có tính nhân dân cao độ hƣớng theo tinh thần của thời đại cách mạng xã
hội chủ nghĩa mới đạt đến trình độ tính Đảng cộng sản.
Tính Đảng cộng sản là linh hồn của nền văn học cách mạng của giai cấp
vô sản vì tính Đảng là biểu hiện đặc thù của tính giai cấp. Tính Đảng xuất
phát từ tính giai cấp. Tính giai cấp trƣớc kia còn tiềm tàng, tự phát, tản mạn,
thì ngày nay trở thành một ý thức giai cấp sâu sắc và nhạy bén, tập trung hơn,
nhất quán hơn- đó là tính Đảng. Tính Đảng là tính giai cấp tự giác nhất, triệt
để nhất, có ý chí chiến đấu không khoan nhƣợng cho một mục tiêu xác định.

Hay nói theo Lê nin “ Tính Đảng là kết quả và là sự biểu hiện về chính trị của
những sự đối lập về giai cấp phát triển đến cao độ. Ngƣợc lại, để tiến hành
một cuộc đấu tranh giai cấp công khai và rộng rãi, nhất thiết phải phát triển
tính Đảng triệt để” ”[30]. Những luận điểm quan trọng của tính Đảng đƣợc
thể hiện trong tác phẩm nổi tiếng của V.I. Lênin về Tổ chức Đảng và văn học

20


có tính Đảng viết năm 1905. Qua những quan điểm của Lênin có thể rút ra
rằng, khi tính giai cấp đƣợc biểu hiện một cách cao nhất, tập trung nhất trong
tác phẩm văn học, chứng tỏ các tác giả đã tự giác, thẳng thắn, công khai đứng
về lập trƣờng của một giai cấp nhất định thì tính giai cấp đƣợc nâng lên thành
nguyên tắc tính Đảng trong văn học.
Trong thực tiễn văn nghệ cách mạng Việt Nam, ngay từ năm 1943, trong
Đề cƣơng văn hóa Việt Nam, Đảng Cộng sản đã khẳng định dứt khoát vai trò
lãnh đạo của mình đối với sự nghiệp văn hóa dân tộc. Văn học có tính Đảng,
trƣớc hết là văn học phục vụ cách mạng, phải trở thành “một bánh xe nhỏ và
một cái đinh ốc nhỏ” trong bộ máy dân chủ vĩ đại thống nhất do đội tiền
phong hoàn toàn giác ngộ của giai cấp công nhân điều khiển”[30,87]. Văn
học phải gắn chặt với nhiệm vụ, với công tác cách mạng. Nhiệm vụ của cách
mạng thay đổi trong từng giai đoạn, phụ thuộc vào đƣờng lối chiến lƣợc và
sách lƣợc của Đảng.
1.2. Sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với văn
học cách mạngViệt Nam 1945-1975
1.2.1. Quan niệm văn học phục vụ chính trị, phục vụ sự nghiệp cách
mạng.
Tính Đảng trong văn học đã ảnh hƣởng trực tiếp, góp phần làm nên diện
mạo riêng của nền văn học cách mạngViệt Nam 1945 - 1975. Khác với giai
đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám, nền văn học nghệ thuật giai đoạn này phát

triển trong bối cảnh cuộc chiến tranh khốc liệt. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã phổ
biến sâu rộng ở Việt Nam và làm nền tảng, kim chỉ nam cho văn hóa Việt
Nam, xuất phát từ nguyên lý Mác- Lê nin: “Lịch sử, cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng”, “ Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng”, không có tƣ tƣởng, tình cảm cách mạng thì không có hành động cách
mạng; lý luận, tƣ tƣởng, tình cảm trở thành sức mạnh vật chất có khí thế dời

21


non lấp biển. Đƣờng lối lãnh đạo của Đảng đã xác định nhiệm vụ của văn
học là vũ khí sắc bén đấu tranh giai cấp, giáo dục, động viên nhân dân đứng
dậy đấu tranh giải phóng dân tộc và lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội.Các
nhà lãnh đạo cách mạng coi văn hóa văn nghệ là một mặt trận quan trọng.
Toàn bộ nền văn nghệ Việt Nam lúc bấy giờ đƣợc đặt dƣới sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng. Mục tiêu chính của văn nghệ là phục vụ các nhiệm vụ chính
trị trƣớc mắt, cổ vũ chiến đấu và lao động sản xuất, hƣớng về phục vụ đại
chúng, trƣớc hết là công nông binh. Đây là một nền nghệ thuật theo quan
điểm "nghệ thuật vị nhân sinh", khác với loại "nghệ thuật vị nghệ thuật" từng
giữ địa vị chủ đạo trong văn học hợp pháp trƣớc 1945.
Đáp ứng yêu cầu của lịch sử, vì mục tiêu chung của toàn dân tộc, văn
học Việt Nam từ năm 1945-1975 chủ yếu vận động theo hƣớng cách mạng
hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nƣớc, phục vụ chính trị, phục
vụ sự nghiệp cách mạng.
Nền văn học mới đƣợc khai sinh cùng với sự ra đời của nhà nƣớc nhân
dân còn non trẻ, lại trải qua ba mƣơi năm chiến tranh ác liệt chống thực dân
Pháp và đế quốc Mĩ, vận nƣớc có lúc ngàn cân treo sợi tóc nên sớm đƣợc kiến
tạo theo mô hình “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”(Hồ Chí Minh)
cùng với kiểu nhà văn mới: nhà văn- chiến sĩ. Ý thức, trách nhiệm công dân
của ngƣời nghệ sĩ đƣợc đề cao. Gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nƣớc,

dùng ngòi bút để phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến đấu là đòi hỏi, yêu cầu của
thời đại, đồng thời cũng là tình cảm, ý thức tự giác của nhà văn. Hiện thực đời
sống cách mạng và kháng chiến đã đem đến nguồn cảm hứng lớn, những
phẩm chất mới cho văn học: “ Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhƣng chính
kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang
đúc nên văn nghệ mới của chúng ta”( Nguyễn Đình Thi, Nhận Đường).

22


Gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nƣớc nên quá trình vận
động, phát triển của nền văn học mới ăn nhịp với từng chặng đƣờng lịch sử
của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nƣớc. Văn học cách
mạng Việt Nam từ năm 1945- 1975 tập tung vào đề tài tổ quốc: bảo vệ đất
nƣớc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc. Toàn bộ nền văn
học, từ thơ ca, truyện, kí đến nghệ thuật sân khấu, đều tập trung khai thác
xung đột mâu thuẫn giữa ta và địch; đặt lợi ích của tổ quốc, của toàn dân tộc
lên trên hết. Nhân vật trung tâm của văn học là ngƣời chiến sĩ trên mặt trận vũ
trang và những lực lƣợng trực tiếp phục vụ chiến trƣờng nhƣ dân quân du
kích, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến…Tổ quốc trở thành niềm
cảm hứng lớn, một đề tài chủ yếu, xuyên suốt trong những bài thơ của Tố
Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam, Thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Pham
Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm…; trong những truyện ngắn của Nguyễn Thi,
Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Sáng và trong tiểu thuyết của Anh
Đức, Phan Tứ, Nguyễn Minh Châu…
Cùng với đề tài tổ quốc, chủ nghĩa xã hội cũng là một đề tài lớn của văn
học Việt Nam giai đoạn này. Miền Bắc đƣợc giải phóng, sau mấy năm hàn
gắn vết thƣơng chiến tranh đã bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới,
con ngƣời mới. Chủ nghĩa xã hội là mơ ƣớc, là cái đích hƣớng tới của toàn
dân tộc, là khát vọng vƣơn tới những tầm cao mới của cuộc sống. Trung tâm

chú ý của nhà văn là hình ảnh con ngƣời mới, là mối quan hệ giữa ngƣời lao
động, là sự hòa hợp giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và tập thể. Văn
học giai đoạn này đề cao lao động, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của
ngƣời lao động. Lao động cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng trên
mặt trận sản xuất và xây dựng đất nƣớc. Những tiểu thuyết của Nguyễn Khải,
Đào Vũ, Chu Văn, những bài thơ của Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân
Diệu, Hoàng Trung Thông…là những sáng tác tiêu biểu.

23


Nhƣ vậy có thể coi văn học nhƣ một tấm gƣơng phản chiếu những vấn
đề lớn lao, trọng đại nhất của đất nƣớc và cách mạng từ năm 1945-1975: Đấu
tranh thống nhất đất nƣớc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế thì hai đề tài
lớn này không có sự tách bạch hoàn toàn mà gắn bó mật thiết với nhau trong
sáng tác của từng tác giả, thậm chí có sự hòa quện trong cùng một tác phẩm.
Giai đoạn này cũng có một số sáng tác viết về đề tài khác, nhƣng đó không
phải là những tác phẩm thuộc dòng chủ lƣu. Nhìn chung, Tổ quốc và chủ
nghĩa xã hội là đề tài bao quát toàn bộ nền văn học Việt Nam từ năm 1945
đến năm 1975, làm nên diện mạo riêng của văn học giai đoạn này.
1.2.2. Sự lãnh đạo của Đảng về tư tưởng, quan điểm, đường lối văn nghệ
Đƣờng lối văn nghệ của Đảng là một bộ phận hữu cơ trong toàn bộ
đƣờng lối cách mạng nói chung đã góp phần quyết định sự phát triển của văn
học.Từ trƣớc Cách mạng tháng Tám, Đảng xác định con đƣờng phát triển của
văn hóa Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh những năm từ 1939-1945, chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Pháp bại trận, Nhật chiếm Đông Dƣơng. Nhân
dân ta chịu một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của phát-xít Nhật, Pháp. Chính vì
vậy trên văn đàn công khai càng ngày càng thƣa thớt và vắng bóng những tác
phẩm hiện thực, lành mạnh, bao trùm lên tất cả là văn hóa phát xít. Trƣớc tình
hình đó, hội nghị Thƣờng vụ trung ƣơng ngày 25-2-1943 quyết định cần phải

bồi dƣỡng cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa để gây dựng phong trào
văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc, phải dùng hình thức công khai hoặc bán
công khai để đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức, nêu lên những nhiệm vụ
cần kíp của những nhà văn hóa mác xít Việt Nam nhằm mục tiêu chống lại
văn hóa phát xít .Đồng thời Đảng công bố Đề cương văn hóa. Trong bản đề
cƣơng này Đảng đã nhận định con đƣờng phát triển tất yếu của văn hóa Việt
nam là “văn hóa xã hội chủ nghĩa”. Đề cƣơng dƣới hình thức cô đọng vạch rõ
phạm vi vấn đề về văn hóa; quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị; thái độ

24


của Đảng đối với vấn đề văn hóa: “ Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa
vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển”, đồng thời
Đảng cũng xác định rằng cách mạng văn hóa có tác dụng ngƣợc trở lại đối với
cách mạng xã hội: “ Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành
đƣợc cuộc cải tạo xã hội”. Đặc biệt Đảng đề ra ba nguyên tắc dân tộc hóa,
khoa học hóa, đại chúng hóa. . Năm 1944, Trƣờng Chinh đã cụ thể hóa
những nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa bằng bài viết “ Mấy nguyên
tắc lớn của cuộc vân động văn hóa Việt Nam mới lúc này”. Quan điểm văn
nghệ cách mạng phải có tính chiến đấu đƣợc các đồng chí lãnh đạo xác định
rõ ràng, nhất quán, sinh động:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
( Hồ Chủ tịch- Cảm tƣởng đọc Thiên gia thi)
“Dùng ngọn bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”
( Sóng Hồng- Là thi sĩ)
Năm 1947 trong bức thƣ gửi các nhà văn hóa và trí thức Nam Bộ, Hồ
Chủ tịch viết: “Ngòi bút của các bạn cũng là những thứ vũ khí sắc bén trong

sự nghiệp phò chính, trừ tà mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng nhƣ
là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền
thống nhất và độc lập cho tổ quốc”[43,178].
Nói rõ hơn về tính chiến đấu của văn nghệ, Hồ Chủ tịch luôn nhấn
mạnh “ Cũng nhƣ các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất
định tức là phụng sự kháng chiến phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân trƣớc
hết là công nông binh” [37,125].
Hồ Chủ tịch cho rằng : phục vụ quần chúng nhân dân tức là giáo dục,
giải thích, tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện những chủ trƣơng

25


×