Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Thái độ học tập của sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.08 MB, 132 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC

L Ê N G Ọ C PH Ư Ơ N G

THÁI ĐỘ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN






TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM KỸ THUẬT


«

*



HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC s ĩ
Đ A' HC C QuC .

HA

rr?uN G TÃ '/ THONC- '1


\ỉ-- L

lí GẠ

Chuyên ngành l âm lý học
Mã số: 50602

Người hướng dần khoa học: GS. TS. NGUYÊN NGỌC PHÚ

HÀ NỘI - 2005


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kì một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn Ngọc Phú,
người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận vãn này
Xin chân thành cảm ơn Khoa Tâm lý học, Phòng Đào tạo sau đại học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, xin cảm ơn các thầy, cô,
các bạn đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Tác giả luận văn

Lê Ngọc Phương


BẢNG VIẾT TẮT


SL

: số lượng người trả lời

%

: số phần trăm

n

: tổng số người được hỏi

ĐHSPKT

: Đại học Sư phạm Kỹ thuật

sv

: Sinh viên

TĐHT

: Thái

độ học tập


M Ụ C LỤ C

LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 1


1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1

2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................3

3. Giả thiết nghiên cứu.....................................................................................3
4. Nhiệm vụ nghiên cứ u...............................................................................,4

5. Đối tượng, khách thể nghiên cứ u............................................................... 4

6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 5
Chương 1. C ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THựC TIÊN CỦA VẤN ĐỂ NGHIÊN c ứ u ..........7

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đ ề .........................................................................7
1.1.1. Nghiên cứu thái độ và thái độ học tập trong tâm lý học phương Tây

............................................... ............................................................................ 7

1.1.2. Nghiên cứu thái độ và thái độ học tập ở Liên Xô trước đây..............9
1.1.3. Nghiên cứu Thái độ học tập ở Việt N am ....................................... 13

1.2. Những khái niệm cơ b ả n .......................................................................... 15

1.2.1. Thái đ ộ ..................................................................................................15
1.2.2. Học tậ p .................................................................................................20
1.2.3. Thái độ học tập.................................................................................... 24
1.3. Chức năng của Thái độ học tập. Môi quan hệ của thái độ học tập

với các hiện tượng tâm lý khác.......................................................................25


1.3.1. Chức năng của Thái độ học tập..........................................................25
1.3.2. Mối quan hệ của thái độ học tập đối với các hiện tượng tâm lý

khác................................................................................................................. 27
1.4. Câu trúc của tháỉ độ học tập.................................................................. 33
1.5. Đặc điểm học tập của Sinh viên trường ĐHSPKT Hưng Y ê n ........ 37
1.5.1. Quá trình phát triển của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng

Y ên ...................................................................................................................37
1.5.2. Một số nét chung về sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật

Hưng Y ê n ........................................................................................................ 38


Chương 2. TỔ CHỨC NGHIÊN c ứ u ...............................................................................41

2.1. Nghiên cứu lý lu ậ n ................................................................................. 41
2.2. Khảo sát - điều tra thực trạng Thái độ học tập của Sinh viên
Trường ĐH SPKT Hưng Yên........................................................................ 42
2.2.1. Xác định mẫu nghiên cứ u.................................................................. 42
2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể ..................................................42
Chương 3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN c ứ u ..........................................................45

3.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu............................................................45
3.2. Kết quả khảo sát về nhận thức đối với học t ậ p .................................. 45
3.2.1. Nhận thức về mục đích và nhiệm vụ hoc tậ p ...................................46
3.2.2. Nhận thức về nội dung học tập.......................................................... 47
3.2.3. Nhận thức về phương pháp học tập.................................................53
3.2.4. Nhận thức về điều kiện, phương tiện đảm bảo hoạt động học tập.....55
3.2.5. Nhận thức về các quy định, quy chế học tập của nhà trường...... . 61

3.3. Kết quả khảo sát về Xúc cảm - Tình cảm đối với học tập................63
3.3.1. Mức độ xúc cảm - tình cảm đối với học tập nói chung, với các môn
chuyên ngành nói riêng................................................................................. 63
3.3.2. Mức độ xúc cảm, tình cảm đối với nghề nghiệp tương lai sẽ đảm
nhiệm.............................................................................................................67
3.4. Kết quả khảo sát về ý chí và hành động ý chí trong học tập ........73
3.4.1. Mức độ ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn của cá nhân vươn lên
làm chủ tri th ứ c ........................................................................................... 73
3.4.2. Mức độ ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn, trở ngại trước những
hạn chế về điều kiện và phương tiện của nhà trường................................. 78
3.5. Tổng hợp chung kết quả điều tra về thái độ học t ậ p ........................83
3.6. Kết quả thảo luận nhóm sinh viên các đối tượng về thái độ học tập
85
3.7. Phân tích một số trường hợp điển hình

93


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NG H Ị............................................................................................... 99

1. Kết luận...................................................................................................... 99
2. Kiến nghị...................................................................................................101
TÀI LIỆU THAM K HẢO....................................................................................................103
PHỤ LỤC

Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3
Phụ lục 4
Phụ lục 5

Phụ lục 6


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tàỉ
Trong thế giới hiện đại, học tập ngày càng có vai trò quyết định đến sự
phát triển của xã hội cũng như của từng cá nhân trong xã hội đó. Khoa học
giáo dục hiện đại cũng đã xác định được mục tiêu cơ bản của giáo dục đó là
việc hình thành nhân cách cho người học, nhằm đáp ứng được những yêu cầu
ngày càng cao của xã hội. Hoạt động dạy học, cũng như mục đích của việc
học tập, hiện nay, mỗi quốc gia, mỗi cá nhân ngày càng nhận thức đầy đủ, đó
là : "Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để làm người, để tự
khẳng định mình"[l, tr. 2]
Dạy học, ngoài việc cung cấp tri thức, trang bị kỹ năng - kỹ xảo cho
người học còn có nhiệm vụ hình thành thái độ tích cực của người học đối với
hiện thực. Không những thế, lý luận giáo dục hiện đại còn cho rằng "việc hình
thành Thái độ học tập cho người học còn là nhiệm vụ hàng đầu, đứng trên cả
việc cung cấp tri thức và rèn luyện kỹ năng"[7, tr.3]. Cũng như vậy, người học,
ngay trong quá trình học tập, cũng phải hình thành thái độ tích cực, say mê
nghiên cứu tri thức mà nhân loại đã sáng tạo và tích luỹ được, từ đó làm giàu
thêm vốn tri thức cho bản thân. Đó cũng là vì việc tiếp thu tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện học tập như : môi trường,
phương tiện giảng dạy, phương pháp giảng dạy.... mà nó còn liên quan đến các
yếu tố chủ quan như nhận thức, động cơ, hứng thú, thái độ và hành vi... của
người học. Có thể thấy, Thái độ học tập là một trong những nhân tố chủ quan
quy định hiệu quả của hoạt động học tập, nó vừa là mục đích, vừa là điều kiện
của hoạt động học tập. Chính vì vậy, có Thái độ học tập đúng đắn là cơ sở của
quá trình tiếp thu tri thức một cách hiệu quả nhất, từ đó đảm bảo cho con

người có thể định hướng một cách đúng đán trong thế giới hiện đại, trong kỷ
nguyên của sự toàn cầu hoá.


2

Nhận thức rõ vai trò của giáo dục, đào tạo trong thời kỳ mới, nhằm đáp
ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực, là nhân tố quyết định sự phát
triển của đất nước trong thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Nghị quyết
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ những giải pháp lớn nhằm đổi mới sự nghiệp
giáo dục - đào tạo. Trong số các giải pháp, Đảng ta nhấn mạnh "phát triển đội
ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm'’, đồng thời "người
học thì chăm lo hoàn thiện nhân cách, hăng say, miệt mài học tập, tiếp thu tri
thức, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo ở người học, để họ trở
thành những công dân hữu ích đối với xã hội". Hay nói cách khác, "vấn đề
hiện nay là phải tìm ra động lực cho người dạy và người học"[2, tr. 61,62],
Thực tiễn đào tạo của trường ĐH SPKT Hưng Yên cho thấy đây là môi
trường sư phạm kỹ thuật, vừa đào tạo nghề kỹ thuật, vừa đào tạo giáo viên dạy
nghề và đây sẽ là một nguồn lực quan trọng để xây dựng đất nước. Tuy nhiên,
trong quá trình đào tạo cũng nảy sinh nhiều vấn đề, trước tiên là sinh viên
được đào tạo làm giáo viên kỹ thuật, nhưng họ vẫn chủ yếu là quan tâm nhiều
đến các ngành nghề kỹ thuật mà mình được đào tạo, ít chú ý đến các môn sư
phạm, cũng như các môn học cơ sở. Ngoài ra, còn có không ít sinh viên tỏ ra
lười nhác, không có ý chí trong học tập, không có chí tiến thủ, và đặc biệt còn
có một bộ phận không nhỏ sinh viên vẫn mong muốn được chuyển sang học
tại một trường khác trên Hà Nội nếu như thi đỗ (vào năm sau) và vẫn bỏ một
một khối lượng thời gian tương đối lớn ra để ôn thi. Họ vẫn chưa thực sự chú
tAm vào việc học, vào luyện nghề. Vấn đề đó đã đặt ra trong quá trình đổi mới
công tác đào tạo hiện nay của trường ĐH SPKT Hưng Yên là làm sáng tỏ thực

trạng thái độ học tập của sinh viên, để từ đó có thể đưa ra các giải pháp về
chính sách, quy chế, về nội dung, phương pháp giảng dạy, nhằm góp phần
hình thành sự hứng thú, quan tâm trong học tập, cũng như hình thành nhân
cách người học, luôn tạo cho người học có thái độ tích cực, "học tập hăng say,


3

luyộn tay nghề giỏi", đúng như Bác Hồ đã từng dạy: "Học phải gắn liền với
thực hành, học để hành "[dẫn theo 19].
Hiện nay, ở nước ta có rất ít các công trình nghiên cứu một cách có hệ
thống về vấn đề thái độ học tập, đặc biệt là vấn đề thay đổi thái độ học tập
cũng như thái độ học tập với các môn học khác nhau. Không những thế, thuật
ngữ " thái độ học tập " còn chưa được làm sáng tỏ, nhiều khi

dẫn đến việc sử

dụng thuật ngữ này một cách tuỳ tiện, thiếu chính xác.
Những lý do trên là cơ sở cho việc nghiên cứu Thái độ học tập của
sinh viên Trường Đ H SPKT Hưng Yên. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài
này còn giúp ích cho tôi và các đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy và
công tác sau này.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài khái quát lại những vấn đề lý luận về thái độ, thái độ học tập, chỉ
ra thực trạng thái độ học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
Hưng Yên, từ đó đưa ra những kiến nghị cần thiết, nhằm hình thành thái độ
học tập đúng đắn cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo của nhà trường.
3. Giả thiết nghiên cứu
Qua khảo sát sơ bộ thực tiễn và nghiên cứu các công trình lý luận có

liên quan bước đầu chúng tôi đưa ra những giả thiết sau:
- Thái độ học tập của sinh viên trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
có sự không đổng nhất như nhau đối với các môn học.
- Tư tưởng mong muốn thi đỗ và được học tại một trường khác trên Hà
Nội của một số sinh viên đã có ảnh hưởng không tốt đến thái độ học tập của
chính họ.


4

- Sinh viên có sự thay đổi thái độ học tập, tuỳ thuộc vào ý nghĩa của
từng môn học đối với nghề nghiệp tương lai của bản thân.
- Giúp sinh viên có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích học tập tại
trường ỉà trách nhiộm của nhà trường, của thầy, cô giáo và các thành phần làm
công tác giáo dục nhằm hình thành thái độ học tập tích cực cho sinh viên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Khái quát lại những vấn đề lý luận về thái độ nói chung, thái độ học
tập nói riêng đồng thời chỉ ra được cấu trúc của thái độ học tập.
- Tổ chức nghiên cứu cụ thể làm rõ thực trạng thái độ học tập của sinh
viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên. Phân tích một số trường
hợp điển hình về thái độ học tập.
- Trên cơ sở đó, đưa ra những kiến nghị cần thiết nhằm hình thành thái
độ học tập đúng đắn cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của nhà trường.
5. Đối tượng, khách thê nghiên cứu
5.7. Đấỉ tượng nghiên cứu
Thái độ học tập của sinh viên.
5.2. Khách th ể nghiên cứu
- 259 sinh viên năm thứ nhất, thứ hai và thứ ba thuộc các hệ Đại học,
Cao đẳng của trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên.

- 40 cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên là những người trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia tác động hình thành thái độ học tập đúng đắn cho sinh viên
trong quá trình đào tạo.


5

6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây đã được áp dụng:
6.1. Phương pháp nghiên cứu vấn bản và tài liệu
Nghiên cứu, phân tích khái quát các văn bản, tài liệu, sách báo trong và
ngoài nước có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận,
xác định cách thức và phương pháp nghiên cứu.
6.2. Phương pháp quan sát
Thông qua quá trình quan sát một cách trực quan, nhằm tìm hiểu và
đánh giá thái độ học tập của sinh viên trong quá trình học.
6.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp sử dụng các câu hỏi nhằm thu thập thông tin của
sinh viên vế thái độ học tập, thông qua các biểu hiện về : nhận thức, xúc cảm tình cảm và ý chi - hành động ý chí. Bảng hỏi được thiết kế dựa trên các thang
đo thái độ, các chỉ báo về thái độ. Có 4 loại bảng hỏi: bảng hỏi dành cho sinh
viên, bảng hỏi dành cho giáo viên, bảng hỏi thảo luận nhóm, bảng hỏi phỏng
vấn.
6.4. Phương pháp toạ đàm, phỏng vấn và phỏng vấn sâu

Trò chuyện với sinh viên về thái độ học tập, làm rõ những mâu thuẫn
giữa thái độ học tập và kết quả học tập, bổ sung thông tin về thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp điều chỉnh thái độ học tập của sinh viên cũng như
việc vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
6.5. Phương pháp nghiên cứu kết quả học tập, rèn luyện

Thông qua hồ sơ quản lý sinh viên của Giáo viên chủ nhiệm và Phòng

Đào tạo, tiến hành thu thập kết quả phân loại rèn luyện, kết quả thí, kiểm tra
các môn học nhằm góp phẩn đánh giá thái độ học tập của sinh viên.


6

6.6. Phương pháp phân tích từng trường hợp điển hình
Thông qua những trường hợp điển hình về học tập của sinh viên để từ đó
đánh giá thái độ học tập của sinh viên.
6.7. Phương pháp chuyên gia
Nhằm khai thác ý kiến đánh giá và kinh nghiệm của các nhà giáo dục,
các thầy cô giáo, các thành phần làm công tác giáo dục, quản lý tại nhà
trường.
6.8. Phương pháp đánh giá thông qua bài tập
Mục đích của phương pháp này nhằm tìm kiếm thông tin về thái độ học
tập của sinh viên. Chủ đề của bài luận là " Thái độ học tập của bạn tại Trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên",


7

C hương 1

c ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN c ủ a
VẤN ĐỂ NGHIÊN c ứ u
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN c ứ u VÂN ĐỂ
1.1.1. Nghiên cứu thái độ và thái độ học tập trong tâm lý học
phương Tây

Khi nghiên cứu lịch sử thái độ trong tâm lý học phương Tây, nhà tâm lý
học người Nga P.N. Shikhirev đã chia quá trình này thành ba thời kỳ[l 1, tr.
318,319, 324, 325]:
- Thời kỳ thứ nhất: (từ khi khái niệm về thái độ được sử dụng đầu tiên vào
năm 1918 cho đến trước chiến tranh thế giới thứ hai). Đây là thời kỳ phát triển
mạnh mẽ, với nhiều công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào định nghĩa,
cấu trúc, chức năng của thái độ và mối quan hệ giữa thái độ với hành vi.
- Thởi kỳ thứ hai: (từ chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến cuối những
năm 50). Vì lý do chiến tranh diễn ra trên toàn thế giới, cùng với sự bế tắc
trong quá trình lý giải các nghịch lý nảy sinh khi nghiên cứu thái độ, nên ở
thời kỳ này, các công trình nghiên cứu về thái độ giảm sút cả về số lượng lẫn
chất lượng.
- Thời kỹ thứ ba: (từ cuối những năm 50 trở lại đây). Các nước phương
Tây phục hồi và phát triển trở lại sau chiến tranh. Cùng với sự phát triển đó,
các công trình nghiên cứu thái độ cũng được tiếp tục với nhiều ý tưởng, quan
điểm mới. Tuy nhiên, chính lúc này tâm lý học về thái độ cũng lâm vào tinh
trạng khủng hoảng.
Chúng ta có thể xem xét chi tiết kv hơn về quá trình nghiên cứu đó. Vào
năm 1918 hai nhà tâm lý học người Mỹ là W.I.Thomas và F.Znaniecki là


8

những người người đầu tiên đưa ra và sử dụng khái niệm vé thái độ thông qua
những nghiên cứu của mình về nông dân Ba Lan. Cho đến năm 1934, La Piere
đã đưa ra một thí nghiệm gây kinh ngạc, khi ông đã chứng minh một điều là
những gì chúng ta nói và những gì chúng ta làm (tức là thái độ và hành vi của
cá nhân trong cùng một trường hợp) đôi khi lại rất khác nhau ( Nghịch lý La
Piere )[37, tr. 230 - 237]. Kết luận của La Piere đã làm cho các nhà tâm lý học
phương Tây hoài nghi, từ đó làm giảm bớt sự quan tâm của họ đối với các vấn

đê vẻ thái độ. Sau đó cùng với tác động của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai,
các nhà nghiên cứu về thái độ giảm đi nhiều, cũng giống như thời kỳ thứ hai
mà Shikhirev đã chia. Chỉ sau khi chiến tranh kết thúc, việc nghiên cứu về thái
độ mới thực sự được quan tâm. Vào năm 1957, có một nghiên cứu đã lý giải
tại sao “hành vi lại ảnh hưởng tới thái độ của con người” - là “Thuyết Bất đồng
nhận thức” của Leon Festinger[39]. Ngoài các vấn đề được đề cập trên, các
nhà tâm lý học phương Tây còn nghiên cứu, xem xét nhiều khía cạnh khác của
thái độ nữa, nhất là các vấn đề về vai trò, chức năng, cấu trúc, như các nghiên
cứu của M.Rokeach (1968), T.M.Ostrom (1969), U.J.Mc.Guire (1969) và
J.R.Rempell (1988)[44, tr. 39]. Đến năm 1972, cũng có một học thuyết
nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi của con người. Đó là
thuyết “Tự nhận thức” của Daryl Bern [38]. Hai học thuyết của Leon Festinger
và Daryl Bern đã có ảnh hưởng khá lớn tới các nghiên cứu sau này. Không
những thế các nhà nghiên cứu cũng đưa ra phương pháp nghiên cứu hình
thành, thay đổi thái độ như phương pháp “đường ống giả vờ” cho phép đo các
thái độ của con người do Edward Jones và Harold Sigall ( 1971 )[42, tr. 349­
360] đề ra cùng “kỹ thuật lấn từng bước một” của Janathan Freedman và Scott
Fraer ( 1966)[41,tr. 195-202].
Như vậy, có thể thấy rằng trong suốt thời kỳ từ đầu thế kỷ XX cho đến
nay, ở phương Tày, dà có rất nhiều công trình nghiên cứu về thái độ và cùng
với nó cũng xuất hiện nhiều phương pháp nghiên cứu mới vé hiện tượng tâm
lý đặc biệt này.


9

Trong nghiên cứu tâm lý học giáo dục phương Tây (Leaming set), các
tác giả thường coi thái độ học tập là một trong những nhân tố đóng vai trò
động cơ thúc đẩy tính tích cực của học sinh với giáo viên, với môn học, cung
như thái độ trong từng giai đoạn học tập. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu

đó lại dựa vào “Thuyết Hành vi” đề cao vai trò của các yếu tố do con người
tạo nên, như thưởng, phạt mà không chú ý nhiều đến các yếu tố môi trường,
chủ thể trong việc hình thành tri thức, kỹ năng [48]
1.1.2. Nghiên cứu thái độ và thái độ học tập ở Liên Xô trước đây.
Trong quá trình nghiên cứu thái độ ở Liên Xô trước đây, có hai học
thuyết được coi là có ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý học Liên Xô hơn cả. Đó là:
Thuyết tâm thế của D.N.Uznatze và thuyết định vị của V.Iadov.
T h u yết tâm thế.
Dựa vào các cơ sở thực nghiệm, D.N.Ưznatze đã đề ra “Học thuyết tâm
thế”. Theo ông: " tâm thế là trạng thái trọn vẹn của chủ thể, sẵn sàng tri giấc
các sự kiện và thực hiện các hành động theo một hướng nhất định”[55Ị. Tâm
thế là trạng thái sẵn sàng hướng tới một hoạt động nhất định, là cơ sở của tính
tích cực có chọn lọc, có định hướng của chủ thể. Tâm thế xuất hiện khi có sự
“tiếp xúc” giữa nhu cầu và các tình huống thoả mãn nhu cầu, giúp cá nhân
thích ứng với các điều kiện của môi trường.
Uznatze đã dùng khái niệm tâm thế với tư cách là khái niệm trung tâm,
nhàm khắc phục tính đơn giản và cơ học, quan điểm trực tiếp của hành vi đã
từng đóng góp một vai trò quan trọng trong tâm lý học truyền thống và tâm lý
học hành vi. Đồng thời, Uznatze cũng đưa ra phương pháp củng cố và thay đổi
tâm thế, một phương pháp nghiên cứu tâm thế độc đáo. Tuy nhiên, khái niệm
tâm thế mà Uznatze sử dụng lại là cái vô thức để giải thích hành vi của con
người. Ông mới chỉ đề cập đến quá trình hiện thực hoá các nhu cầu sinh lý mà
không tính đến một cách đầy đủ các hình thức hoạt động phức tạp, cao cấp


10

khác của con người. Ông cũng không tính đến sự tác động của các yếu tố xã
hội cũng như vai trò của quá trình lĩnh hội kinh nghiệm xã hội tới việc quy
định các hành vi của con người. Nhưng có thể nhận thấy rằng với những phát

hiộn mới, “thuyết tâm thế” đã đóng vai trò là phương pháp luận khoa học cho
nhiều lĩnh vực cụ thể của tâm lý học hiện đại.
Thuyết định vị.

Dựa trên “thuyết tâm thế ” của Ưznatze, V.A.Iadov đã phát triển khái
niệm tâm thế, nhằm điều chỉnh các hành vi, hoạt động xã hội của cá nhân.
Iadov cho rằng con người có một hệ thống các định vị khác nhau, rất phức tạp,
và hành vi của con người bị điều khiển bởi các tổ chức “định vị ” này[54].
Theo Iadov, tâm thế của Uznatze chỉ là các định vị ở bậc thấp nhất. Nó chỉ
được hình thành khi có sự tiếp xúc giữa nhu cầu sinh lý và đối tượng cần thoả
mãn nhu cầu đó, đâu chỉ là “các định vị điều chỉnh hành vi, phản ứng của cá
nhân trong cấc tinh huống đơn giản nhất”, mà phải ở bậc cao hơn các “định
vị”, phức tạp hơn, được hình thành trên cơ sở các hoạt động giao tiếp của con
người trong các nhóm nhỏ. Trên cấp bậc này là các “định vị” được hình thành
trên cơ sở cũng như những định hướng, sở thích được hình thành trong các
lĩnh vực xã hội cụ thể. Còn cấp bậc cao nhất của “định vị”, theo tác giả, tạo
nên sự định hướng giá trị của nhân cách, có tác dụng điều chỉnh hành vi và
hoạt động trong những tình huống mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất đối
với nhân cách. Như vậy có thê thấy, hệ thống “định vị” có thứ bậc từ thấp đến
cao, điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các điều kiện xã hội ngày nay càng
được mở rộng và ổn định hơn. Từ hệ thống ‘kđịnh vị” chúng ta có thể lý giải
một cách hợp lý hành vi xã hội của cá nhân, cũng như những mâu thuẫn giữa
hành vi với thái độ của cá nhân. Đó là vì các 'định vị” ở bậc thấp, bị điều
khiển, bị chi phối bởi các "định vị" ở bậc cao hơn. “Thuyết định vị ” đã nghiên

cứu thái độ ở một góc nhìn hoàn toàn mới. Nó đã thiết lập được mối licn hệ

giữa những cách tiếp cận hành vi của nhân cách từ các góc độ khác nhau nhu



11

tâm lý học đại cương, tâm lý học xã hội. Tuy nhiên thiếu sót chủ yếu của
ladov là đã không làm rõ khái niệm "định vị “ là gì, đồng thời cũng không chỉ
ra được cơ chế điều chỉnh hành vi bằng các "định vị" trong những tình huống
xã hội.
Ngoài hai thuyết chủ yếu trên, nghiên cứu vấn đề thái độ ở Liên Xô
trước đây còn phải kể đến thuyết thái độ nhân cách. Thuyết “thái độ nhân
cách” của nhà tâm lý học V.N.Miaxisev[54] cho rằng nhân cách là một hệ
thống thái độ. Theo tác giả, phản xạ có điéu kiện chính là cơ sở sinh lý học
của thái độ có ý thức của con người với hiện thực. Miaxisev chia thái độ ra
làm hai loại: tích cực và tiêu cực. Cùng với các quá trình, các trạng thái, các
thuộc tính tâm lý, thái độ là một trong những hình thức thể hiện tâm lý người.
Tuy nhiên, Miaxisev lại cho rằng các quá trình tâm lý nhu cầu, thị hiếu, hứng
thú, tình cảm, ý chí,... đều là thái độ. Có thể thấy việc xếp ngang hàng quan
hệ xã hội với thái độ là chưa thoả đáng, cũng như coi thuộc tính tâm lý của
nhân cách là thái độ cũng chưa có cơ sở. Tuy vậy, Miaxisev vẫn là một trong
những người đặt nền móng cho tâm lý học theo quan điểm Macxit. Miaxisev
cũng đã dùng thuyết thái độ nhân cách để sử dụng trong Y học.
Gần đây, khi nghiên cứu nhân cách như một phạm trù cơ bản của tâm lý
học, V.F.Lomop - nhà tâm lý học Xô viết đà đề cập đến thái độ chủ quan của

nhân cách[25], sự chế định của quan hệ xã hội đối với thái độ chủ quan, sự
hình thành thái độ chủ quan thông qua hoạt động và giao tiếp.
Nói tóm lại, khi nghiên cứu các vấn đề của thái độ, các nhà tâm lý học
Xô Viết đã vận dụng cách tiếp cận hoạt động và nhân cách, gắn thái độ với

nhu cầu, với điều kiện hoạt động, với nhân cách, coi thái độ như là một hệ

thống, từ đó đưa ra cách lý giai hợp lý và khoa học vể sự hình thành thái độ, vị

trí vã chức năng của thái độ trong quá trình điểu chỉnh hành vi và hoạt động
của cá nhân.


12

Trong tâm lý học dạy học ở Liên Xô cũ, thái độ học tập không được
nghiên cứu riêng rẽ mà lồng vào trong nghiên cứu động cơ, hứng thú học tập.
Có thể kể đến các tác giả tiêu biểu đã có các công trình nghiên cứu về động cơ
học tập của học sinh là:
- I.L.Bogiovic (1951) nghiên cứu động cơ, thái độ học tập của học sinh
nhỏ.
- A.K.Marcova (1983) nghiên cứu hình thành động cơ học tập của học
sinh
- Machikhina và đồng tác giả nghiên cứu quan hệ giữa động cơ và thái
độ học tập của học sinh[25]
- A.I.Kovaliov (1987) nghiên cứu động cơ lựa chọn nghề nghiệp của học
sinh, sinh viên[53] v.v...
Các nhà nghiên cứu Xô Viết đã xác định hoạt động học tập bị chi phối
bởi động cơ học tập. Động cơ học tập có ba nguồn gốc: nguồn gấc cá nhân
(hứng thú, ham muốn, tâm thế, thái độ, niềm tin, thế giới quan, quan niệm về
bản thân, thái độ với xã hội, ý thức tự hoàn thiện, sự thoả mãn nhu cầu, lý
tưởng sống); nguồn gấc bên trong (nhu cầu), nguồn gốc bên ngoài (đòi hỏi,
mong đợi của xã hội, điều kiện khách quan). Các yếu tố này nếu được gắn liền
với hoạt động học tập hoặc với các thành phần của nó (kết quả, mục đích, quá
trình), sẽ trở thành động cơ học tập. Động cơ học tập được chia làm hai loại:

động cơ bên ngoài (thưởng, phạt đe doạ, đòi hỏi, áp lực nhóm) và động cơ bên

trong (hứng thú đối với tri thức, sự tò mò, ham muốn nâng cao trình độ). Vì


vậy có thể thấy thái độ học tập là một trong những C'ơ sở hình thành động Cũ

học tập. Trong lĩnh hội tri thức thì khả năng tập trung, phân phối chú ý, tâm
thế, thái độ là các nhân tố quan trọng bậc nhất[53]

Viện sĩ N.V.Cuz-mi-na (1980) một trong nhừng tác giả coi thái độ \<

thành phần nòng cốt trong nhân cách, đà đề ra phương pháp đánh giá tương


13

đối toàn diện nhân cách sinh viên. Trong 11 chỉ báo theo ba nhóm thuộc tính
nhân cách, tác giả đã đề cập đến thái độ học tập của sinh viên với các mức độ
khác nhau. Phương pháp này có thể sử dụng làm cơ sở cho việc xây dựng các
thang đo thái độ học tập của sinh viên.
Ở Cộng hoà dân chủ Đức trước đây cũng đã có một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu vế thái độ do một số nhà tâm lý học xã hội như V.Nâyzơ,
M.Phovec...tiến hành. Ngoài những vấn đề được nghiên cứu một cách truyển
thống, thì các nhà tâm lý học Đức còn đề cập đến nhiều vấn đề khác như các
cơ chế hình thành thái độ, sự định hình thái độ ( cơ chế bắt chước, luyện tập,
hướng dẫn) do H.Hiebsch và M.Worwerg thực hiện. Trong lĩnh vực kinh tế,

một số công trình nghiên cứu đã xem thái độ như là một thành tố của năng
suất tập thể.
1.1.3. Nghiên cứu Thái độ học tập ở Việt Nam

Khi nghiên cứu thành tựu của tâm lý học thế giới và thực tiễn tâm lý học


nước nhà, các nhà tâm lý học Việt Nam đã xác định một số quan niệm cơ bản

về vị trí, vai trò của thái độ trong quá trình thực hiện hoạt động giảng dạy và

hoạt động học tập. Mục tiêu của giáo dục là hình thành ở người học có đầy đủ

tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, có văn hoá, có thái độ ứng xử hài hoà với môi trường
sống, trong quá trình học tập và với bản thân mình.

Thái độ là một trong những mục đích hàng đầu của dạy học bên cạnh
việc cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xáo [9].
Thái độ học tập là một trong những biểu hiện của động cơ học tập[ 10].
Thái độ là một tronq 4 thành phần nội dung dạy học đại học (hệ thốnị

tri thức, hệ thống kỹ năng kỹ xảo, hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo
hệ thống các chuẩn mực thái độ đối với hiện thực) [12].


14

Thái độ học tập là một bộ phận cấu thành đồng thời là một thuộc tính cơ
bản toàn vẹn của ý thức học tập của chủ thể, là yếu tố quy định tính tự giác,
tích cực học tập và thể hiện bằng những cảm xúc, hành động tương ứng [14].
Trong mối tương quan: Nhận thức - Thái độ - Hành động thì lĩnh hội tri
thức (khâu trung tâm của hoạt động học tập) đóng vai trò cơ sở, có ý nghĩa
định hướng, điều chỉnh, soi sáng cho thái độ, hành vi [18].
Sự hình thành động cơ học tập của học sinh chịu sự chi phối của nhiều
nhân tố trong đó có quan niệm, thái độ của gia đình đối với việc học tập của
con cái, thái độ, sự đánh giá của xã hội đối với việc học tập nói chung và
thành tích học tập nói riêng [20].

Thái độ học tập là một trong những cơ sở tâm lý quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách cá nhân của sinh viên đại học sư phạm[35].
Từ những quan niệm cũng như thực tiễn về việc nghiên cứu thái độ học
tập tại nước ta, đã có mộí số đề tài liên quan đến thái độ học tập của học sinh,
sinh viên đã được nghiên cứu:
- Tính tích cực nhận thức như là thái độ [3].
- Tự đánh giá thái độ học tập của s v sư phạm trong điều kiện có sự
phân cấp học bổng [4].
- Những khó khăn chủ quan cũng như khách quan kìm hãm tính tích cực
học tập của sinh viên [5,6].
- Thực trạng động cơ học tập, các nguyên nhân ảnh hưởng đến tính tích
cực học tập của sinh viên [13].
- Quan hệ giữa tự đánh giá của học sinh với thái độ học tập và động cơ
học tập [15].
- Thái độ của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Tuyên Quang đối với
tự học [16].


15

- Vấn đề kích thích tính tích cực học tập của sinh viên [26].
- Định hướng giá trị của thanh niên, sinh viên, học sinh [31.].
- Tính tích cực học tập của sinh viên sư phạm trong quá trình đào tạo
theo chế độ học tập mới [34,35]
Về phương pháp nghiên cứu thái độ học tập đã có các công trình nghiên
cứu:
-V ận dụng các chỉ báo của Frank nghiên cứu tự đánh giá thái độ học
tập môn toán của sinh viên sư phạm [14].
- Phương pháp đo thái độ, tinh thần trách nhiệm đối với lao động, sự
thống nhất về định hướng giá trị của tập thể học sinh [26].


Tóm lại: Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu thái độ học tập của
học sinh sinh viên còn chưa được triển khai rộng, mới chỉ đạt được một số kết
quả bước đầu như xác định vai trò vị trí của thái độ học tập trong việc hình
thành động cơ học tập, nghiên cứu thái độ học tập của sinh viên thông qua
nghiên cứu động cơ học tập, tính tích cực học tập, hứng thú học tập, định
hướng giá trị. Các nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm những chỉ báo chi tiết về
thái độ học tập song còn có những khía cạnh chưa có sự thống nhất từ những
vấn đề chung như định nghĩa, cấu trúc của thái độ học tập cho đến việc xác
định các chỉ báo cụ thể.
1.2. NHŨNG KHÁI NIỆM c ơ BẢN
1.2.1. Thái độ
Từ khi khái niệm thái độ được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1918, cùng
với rất nhiều nghiên cứu khác nhau về thái độ, thì đồng thời cũng xuất hiện
những định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về thái độ. Mỗi định
nghĩa lại bàn tới một khía cạnh của thái độ, góp phần làm phong phú thêm


16

cách hiểu về phạm trù này. Tuy nhiên, trước khi đề cập đến các định nghĩa đó,
chúng ta hãy xem các từ điển định nghĩa thế nào về thái độ.
Trong từ điển tiếng Việt, Thái độ được định nghĩa là: “cách nhìn nhận,
hành động của cá nhân vẻ một hướng nào đó trước một vấn đê, một tình
huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ,
tình cảm của cá nhân đối với con người hay một sự việc nào đó” [21,tr. 894].
Trong từ điển Anh-Việt, “thái độ” được viết là “Attitude” và được định nghĩa
là “cách ứng xử, quan điểm của một cá nhân”[22, tr. 760]. Từ điển xã hội học

do Nguyễn Khắc Viện chủ biên cũng nhấn mạnh: “tâm thế - thái độ - xã hội

đã được củng cố, có cấu trúc phức tạp, bao gồm các thành phần: nhận thức,
xúc cảm, hành vi” [33, tr.278]. Còn trong từ điển các thuật ngữ Tâm lý và Phân
tâm học xuất bản tại New York năm 1996 thì lại cho rằng: "Thái độ là một
trạng thái ổn định bền vững, do tiếp thu được từ bên ngoài, hướng vào sự ứng
xử một cách nhất quán đối với một nhóm đối tượng nhất định, không phải như
bản thân chúng ra sao mà chúng được nhận thức ra sao. Một thái độ được
nhận biết ở sự nhất quán của những phản ứng đối với một nhóm đối tượng.
Trạng thái sẵn sàng có ảnh hưởng trực tiếp lên cảm xúc và hành động có liên
quan đến đối tượng”. Như vậy, các từ điển khi định nghĩa về thái độ đều cho
rằng đó là “cách ứng xử của cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã
hội”. Nó được cấu thành rất phức tạp, với nhiều bộ phận hợp thành, cho dù
cách sử dụng từ ngữ khi định nghĩa về thái độ là khác nhau.
Khi nói tới định nghĩa về thái độ từ trước tới nay, chúng ta không quên
nhắc lại khái niệm thái độ đã được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1918 của hai
nhà tâm lý học người Mỹ là W.I.Thomas và F.Znaniecki. Hai nhà tâm lý học
này cho rằng: “Thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân có hành động hay
không hành động khác mà được xã hội chấp nhận” [47], Hai ông cũng cho
rằng : “Thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị”. Như


17

vậy, W.I.Thomas và F.Znaniecki đã đồng nhất thái độ với định hướng giá trị
của cá nhân.
Một nhà tâm lý học người Mỹ khác, G.W.Allport, vào năm 1935, đã đưa
ra định nghĩa về thái độ như sau: “Thái độ là trạng thái sẵn sàng vể mặt tinh
thần và thần kinh, được hình thành thông qua kinh nghiệm, có khả năng điều
chỉnh hay ảnh hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân đến các tình
huống và khách thể mà nó có thiết lập mối quan hệ” [dẫn theo 32, tr.48].
Allport định nghĩa “thái độ trên khía cạnh điều chỉnh hành vi”. Ông coi thái

độ như một trạng thái tâm lý, thần kinh cho hoạt động. Ở một cá nhân, khi sắp
sửa có những hành động diễn ra thì sẽ xuất hiện thái độ nhằm chuẩn bị và điều
chỉnh những hoạt động đó. Có thể thấy là, Allport đã trả lời được câu hỏi thái
độ là gì, và đã đề cập đến nguồn gốc, vai trò, chức năng của thái độ. Từ đó,
ồng đã rút ra được một số những đặc điểm của thái độ, như "thái độ là trạng
thái của tinh thần và hệ thần kinh, là sự sẵn sàng phản ứng, là một trạng thái
có tổ chức, được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ, và nó điều khiển
cũng như ảnh hưởng tới hành vi của cá nhân. Đây là định nghĩa về thái độ
được rất nhiều các nhà tâm lý học khác thừa nhận. Tuy nhiên, Allport chưa lưu
ý tới ảnh hưởng của mồi trường, nhu cầu, động cơ của cá nhân đối với quá
trình hình thành thái độ. Chính vì vậy, khi định nghĩa về thái độ, Allport đã dự
đoán rằng: “Khái niệm thái độ có lẽ là khái niệm phân biệt nhất định và quan
trọng nhất trong tâm lý học xã hội hiện đại Mỹ”[36, tr. 810].
Sau này, nhà tâm lý học T.M.Newcom cũng đưa ra một định nghĩa
tương tự như định nghĩa của Allport. Ông cho rằng: “thái độ chính ỉà một
thiên hướng hành động, tư duy nhận thức, cảm nhận của cá nhân tới một đối
tượng hay sự việc có liên quan”[dãn theo 11, tr. 318,319].
Vào năm 1964, nhà tâm lý học nhân cách người Mỹ là J.P.Guil

ford

đã đưa ra một định nghĩa vé “thái độ”, dựa trên quan niệm cho rằng nhân cách
bao gồm bảy khía cạnh tạo nên một cấu trúc độc đáo. Bảy khía cạnh đó là:

!

y '

]


f


18

Năng lực, khí chất, giải phẫu, hình thái, nhu cầu, hứng thú và thái độ. Và ông
đã định nghĩa: “Thái độ là những cử chỉ, phong thái, ý nghĩ liên quan đến
những hoàn cảnh xã hội ” [30]. Không chỉ một mình Guilford, mà hầu như tất
cả các tác giả viết về tâm lý học nhân cách đều coi “thái độ” như là một thuộc
tính của nhân cách. Chính V.N.Miaxisep, một nhà tâm lý học Xô Viết, đã cho
rằng “Thái độ là điều kiện khái quát bên trong của hệ thống các hành vi của
con người ...” [30]. Còn A.Kossakowski và J.Lompcher, vào năm 1975 cũng
định nghĩa: “Thái độ là thuộc tính tâm lý, bao gồm niềm tin, lý tưởng, hứng
thú, thái độ xã hội ” [30].
Trước A.Kossakowski và J.Lompcher, vào năm 1935, H.Fillmore đã đưa
ra một định nghĩa mới về thái độ: “Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực
hay tiêu cực đối với một đối tượng hay một biểu tượng trong môi trường”[40,
trang 540]. Fillmore còn khẳng định “thái độ là sự định hướng của cá nhân tới
các khía cạnh khác nhau của môi trường, và thái độ là một cấu trúc mang tính
động cơ”. Năm 1971, một nhà tâm lý học người Mỹ là H.C.Triandis đã đưa
một định nghĩa khác về thái độ. Ông cho rằng : “Thái độ là những tư tưởng
được tạo nên bởi các xúc cảm, tình cảm. Nó gây tác động đến hành vi nhất
định, ở một giai cấp nhất định, trong những tình huống xã hội nhất định. Thái
độ của con người bao gồm những điều mà họ cảm thấy và suy nghĩ về đối
tượng, cũng như cách xử sự của họ đối với đối tượng đó" [17]. Khi xem xét
định nghĩa của Triandis, ta thấy có một điểm tương đồng với định nghĩa của
Allport, vì Allport cho rằng “thái độ” có “tính gây tác động” tới một tình
huống nào đó. Chính R.Marten khi phân tích định nghĩa của Allport và định
nghĩa của Tri and is đã nhận thấy điểm chung này. Ông cho rằng thái độ được
hình thành nhờ kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân. Nó có tính ổn định và tuỳ

theo từng tình huống, thái độ sẽ thay đổi tuỳ theo từng tình huống đó. Marten
đã đưa ra một định nghĩa: “ Thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các tình
huống xã hội, nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ (nhận thức) xúc cảm và


19

hành vi. Thái độ của con người có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi vì thái độ
được xác định bởi tính thống nhất bên trong của nó”. Còn gần đây, James.w .
Kalat đưa ra định nghĩa: “Thái độ là sự thích hay không thích một sự vật hoặc
một người nào đó của cá nhân, từ đó có ảnh hưởng tới hành vi của anh ta khi
ứng xử với sự vật hay con người đó”[43]. Nhà tâm lý học John Tra ven cũng
định nghĩa: ‘Thái độ là cách cảm xúc, tư duy và hành động tương đối lâu dài
đối với sự việc hay con người đó”[49, tr. 299 - 310].
Trong khi đó, khi nghiên cứu về thái độ, một nhà tâm ỉý học Xô Viết
không sử đụng khái niệm “thái độ ” mà dùng thuật ngữ tương đương là “tâm
thế” khi giải thích hành vi của con người, mà điển hình là Uznatze với “thuyết
tâm thế”. Uznatze cho rằng “thái độ không phải là một nội dung cục bộ của ý
thức, không phải là nội dung tâm lý bị tách rời, đối lập lại với các trạng thái
tâm lý khác của ý thức và ở trong mối quan hộ qua lại với nó, mà nó là một
trạng thái toàn vẹn, xác định của chủ thể...Tính khuynh hướng năng động mà
tâm thế là một yếu tố toàn vẹn theo một khuynh hướng nhất định nhằm một
tính năng động nhất định. Đó là sự phản ánh cơ bản, đầu tiên đối với tác động
của tình huống, mà trong đó, chủ thể phải đặt ra và giải quyết nhiệm vụ”[55].
Còn các nhà tâm lý học xã hội Lêningrat (Liên Xô cũ) lại quan niệm “thái độ
là những cơ cấu tâm lý sẵn có, định hướng cho sự ứng phó của cá nhân"[23].
Qua các ví dụ trên, ta thấy, hầu hết các định nghĩa đều giải thích “thái
độ” dưới góc độ chức núng của nó. Thái độ định hướng hành vi, ứng xử của
con người. Nó thúc đẩy, tăng cường tinh thần sẵn sàng của những hành vi,
phản ứng của con người tới đối tượng có liên quan. Chính Nâyzơ khi nghiên

cứu khái niệm thái độ đã đưa ra các đặc điểm chung này của các định nghĩa về
thái độ. Ý kiến của Nâyzơ đã được hai tác giả của cuốn “Nhập môn tâm lý học
Macxit” là H.Hiebsch và M.Worwerg công nhận. H.Hiebsch và M.Worwerg
đã chỉ ra “điểm chung” khi nghiên cứu khái niệm thái độ trong lý luận. Tám
lý học nói chung và tâm lý học Macxit nói riêng một cách cụ thê và chính xác,


×