HIỆU QUẢ TRUYỀN THÔNG TRONG THAY ĐỔI KIẾN THỨC –
THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI DÂN VỀ PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT TẠI
BẢO VINH, LONG KHÁNH, ĐỒNG NAI NĂM 2009
Nguyễn Văn Tới[*], Lê Công Minh**, Tạ Quốc Đạt**, Lê Thị Thanh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động truyền thông trong thay đổi
kiến thức – thực hành của người dân về phòng chống bệnh sốt xuất huyết (SXH) tại xã Bảo
Vinh, thị xã long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định hiệu quả truyền thông trong thay đổi kiến thức và thực
hành đúng của người dân về phòng bệnh SXH. Xác định tỉ lệ người dân tiếp cận các hoạt
động truyền thông về phòng chống SXH trước và sau can thiệp.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu can thiệp cộng đồng. Nghiên cứu được
tiến hành bằng các hoạt động truyền thông tại cộng đồng và được đánh giá trước và sau can
thiệp bằng cách phỏng vấn trực tiếp người dân tại các hộ gia đình. Mỗi gia đình chọn đại
diện một người, tuổi từ 18 trở lên và không mắc các bệnh tâm thần, câm, điếc,…để trả lời
đầy đủ, không ảnh hưởng kết quả các câu hỏi.
Kết quả nghiên cứu: cho thấy tỷ lệ người dân có KT - TH đúng về phòng chống bệnh
SXH. Tỉ lệ kiến thức người dân nhận biết muỗi vằn là tác nhân truyền bệnh trước can thiệp
là 59%, sau can thiệp là 75%. Tỉ lệ người dân biết triệu chứng chính của SXH như xuất
huyết dưới da trước can thiệp là 48%, sau can thiệp là 58%. Tỉ lệ khảo sát thực hành của
người dân về súc rửa dụng cụ chứa nước trước can thiệp là 58,50%, sau can thiệp là 78%.
Quan sát thực hành của người dân trong xử lý đậy nắp dụng cụ chứa nước trước can thiệp
là 49%, sau can thiệp là 59,50%. Tỷ lệ người dân tiếp cận chương trình truyền thông giáo
dục sức khỏe (GDSK) về phòng chống SXH cải thiện rõ rệt.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy hiệu quả của hoạt động truyền thông làm thay đổi KT–
TH người dân về phòng bệnh SXH. Đây là mô hình cần nhân rộng cho các địa phương khác.
Từ khóa: Truyền thông, sốt xuất huyết (SXH).
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF HEALTH EDUCATION IN THE CHANGE OF COMMUNITY’S
KNOWLEDGE – PRACTICE IN PREVENTION OF DENGUE HAEMORRHAGIC FEVER
AT BAO VINH COMMUNE, LONG KHANH TOWN, DONG NAI PROVINCE IN THE
YEAR OF 2009
Nguyen Van Toi, Le Cong Minh, Ta Quoc Dat, Le Thi Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 2 – 2010: 48 - 53
Background: This study is to evaluate the effectiveness of health education in the
change of community’s knowledge – practice in prevention of Dengue Hemorrhagic Fever
(DHF) at Bao Vinh Commune, Long Khanh Town, Dong Nai Province.
Objectives: Identify the proportion of community who have the proper knowledge –
practice of DHF, identify the proportion of community who get access to health education
activities on the prevention of DHF pre- and post-intervention.
Methods: This is a community intervention study. It was implemented by providing
health education for the specific community and was evaluated pre- and post-intervention by
interviewing people directly at their households. Each representative aged above 18 years
with no mental disease, dumbness or deafness,... was chosen from each household in order
to uninfluenced the results of the study and to obtain the most fully-answered responses.
Results: The study presents the proportion of people in the community who have proper
knowledge – practice in prevention of DHF. The proportions of people who are able to
recognize that Andes Aegypti is the most important vector which can spread DHF, pre- and
post-intervention are 59% and 75% respectively. The percentage of people who know the
major symptoms of DHF such as subcutaneous hemorrhage is limited at only 48% preintervention but post-intervention, 58% of people show their proper knowledge of those main
symptoms. Before being provided health education, 58.50% of people who practiced rinsing
water utensils and this percentage then rises up to 78% after the intervention. There is only
49% of people who practiced covering water utensils used at their households before the
intervention, and after being health-educated, 59.50% of people have practiced this. The
proportion of people who approach health education on the prevention of DHF is improved
considerably.
Conclusion: The study shows the effectiveness of health education in the change of
community’s knowledge – practice in prevention of DHF. This paradigm is needed to be
popularized for other localities.
Key words: health education, Dengue Hemorrhagic Fever (DHF).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm khá trầm trọng cho mọi lứa tuổi, nhiều nhất là trẻ
em, có nguy cơ tử vong cao. Sốt xuất huyết có khả năng phát triển thành dịch lớn. Trong vài
năm trở lại đây, bệnh SXH diễn biến rất phức tạp ở khu vực phía nam, đặc biệt các tỉnh miền
Đông và Tây Nam bộ, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người dân. Đây cũng là mối quan tâm
của toàn xã hội.
Xã Bảo Vinh thuộc thị xã Long Khánh tỉnh Đồng Nai có diện tích tự nhiên là 15,592
km , dân số là 16.092 người, với 2.915 hộ, xã có 5 ấp. Số ca mắc SXH của xã Bảo Vinh năm
2006 là 37 ca, năm 2007 là 29 ca, năm 2008 là 95 ca. Tổng số ca mắc SXH có chiều hướng
gia tăng qua các năm, nhất là năm 2008. Mặc dù y tế địa phương có nhiều giải pháp cơ bản
để phòng chống dịch SXH, nhưng tỉ lệ mắc vẫn không giảm. Vì vậy việc xây dựng mô hình
về truyền thông nhằm thay đổi thực hành của người dân về phòng bệnh SXH là hết sức cần
thiết.
2
Mục tiêu
Xác định tỉ lệ người dân có kiến thức – thực hành đúng về phòng chống bệnh SXH trước
và sau triển khai chương trình truyền thông giáo dục sứ khỏe (GDSK).
Xác định tỉ lệ người dân tiếp cận hoạt động truyền thông về phòng chống SXH tại xã Bảo
Vinh, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU
Địa điểm
Xã Bảo Vinh, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
Thời gian
Từ tháng 3 đến tháng 12 năm 2009.
Cỡ mẫu
200 người.
Đối tượng
Đây là nghiên cứu can thiệp cộng đồng, được tiến hành bằng phỏng vấn trực tiếp người
dân tại các hộ gia đình. Mỗi gia đình chọn người đại diện trả lời phỏng vấn bằng bộ câu hỏi
được soạn sẵn theo các lứa tuổi khác nhau từ 18 tuổi trở lên. Người được phỏng vấn là chủ
hộ hoặc thành viên trong gia đình không mắc các bệnh tâm thần, câm, điếc hoặc các bệnh
ảnh hưởng đến kết quả trả lời các câu hỏi.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng chia làm 3 giai đoạn
Giai đoạn 1: Phỏng vấn trực tiếp 200 người dân tại hộ gia đình bằng bộ câu hỏi soạn sẵn
vào tháng 5/2009.
Giai đoạn 2: Triển khai hoạt động truyền thông vào tháng 5 đến tháng 11/2009 gồm: nói
chuyện chuyên đề, viết tin trên đài phát thanh địa phương, tuyên truyền lồng ghép, vãng gia
tuyên truyền, sản xuất và phát tài liệu truyền thông, xây dựng hồ nuôi cá bảy màu tại các ấp…
Giai đoạn 3: Phỏng vấn trực tiếp 200 người dân tại hộ gia đình sau can thiệp theo bộ câu
hỏi soạn sẵn vào tháng 12/2009.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Biến số
Giới
Tuổi
Trẻ < 15 sống chung trong hộ
Trình độ học vấn
Phương tiện truyền thông
Phân loại
Tỉ lệ
Trước can thiệp
Sau can thiệp
Nam
38,50
34,50
Nữ
61,50
65,50
50-78
39
38
18-49
61
62
0 trẻ
30
30,50
1-2 trẻ
63
58,50
> 2 trẻ
7
11
Mù chữ
15
17
Cấp 1
27,50
32
Cấp 2
31
33
Cấp 3
26,50
18
Radio
3,50
1,52
Tivi
42,50
55,56
Radio - tivi
50
36,87
Không
4
6,06
Tỉ lệ nữ trong mẫu nghiên cứu chiếm đa số trong đó trước can thiệp là 61,50% và sau can
thiệp là 65,50%. Tỉ lệ này gần giống kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn
Danh(4) (2005) tại Định Quán, Đồng Nai, nữ chiếm 62,75%. Đây cũng là ưu thế, vì phụ nữ
rất quan tâm chăm sóc cho gia đình, con cái, nên việc tiếp thu kiến thức truyền thông PCSXH cũng rất thuận lợi.
Về độ tuổi, nhóm tuổi từ 18- 49 trước can thiệp chiếm tỉ lệ 61%, sau can thiệp là 62%.
Đây là độ tuổi lao động chính trong gia đình, đồng thời là lứa tuổi năng động, ham tìm hiểu,
cũng là đặc điểm thuận lợi để tiếp thu kiến thức truyền thông GDSK về phòng chống SXH.
Trình độ học vấn, tỉ lệ học vấn cấp I là 32%, cấp II là 33%, cấp III và trên cấp III là 18%,
thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Danh (2008) tại Định Quán
Đồng Nai người dân có học vấn cấp II là 45,50%, cấp III và trên cấp III là 44,50%(4).
Về phương tiện truyền thông kết quả cho thấy, đa số các hộ gia đình đều có tivi trong đó
tỉ lệ hộ gia đình có tivi là chủ yếu với 92,43. Tỉ lệ này co hơn so với kết quả khảo sát của tác
giả Cù Tiến Dũng tại Củ Chi (2007) là 86,96%(1).
Kiến thức người dân về tác nhân truyền bệnh SXH (n=200).
Nội dung
Tần suất
Trước CT
Tỉ lệ %
Sau CT
Trước CT
p
Sau CT
Nghe nói về bệnh SXH
Có
190
196
95,00
98,00
Chưa
10
4
5,00
2,00
p>0,05
Muỗi vằn truyền bệnh SXH
Biết
151
118
59,00
75,00
Không biết
49
82
41,00
25,00
p<0,05
Đặc điểm của muỗi vằn
Biết
93
126
46,50
63,00
Không biết
107
74
53,50
37,00
p<0,05
Thời gian muỗi vằn đốt người
Sáng sớm
17
22
8,50
11,00
p>0,05
Chiều tối
121
107
60,50
53,00
p>0,05
Cả ngày
48
64
24,00
32,00
p>0,05
Không biết
14
7
7,00
3,50
p<0,05
Qua bảng trên cho thấy hầu hết người dân có nghe thông tin về bệnh SXH., tỉ lệ này
trước can thiệp là 95%, sau can thiệp là 98%. Kết quả này tương đương so với kết quả
nghiên cứu của tác giả Phạm Thị Thúy Hoa (2002) tại Lái Thiêu, Bình Dương khi tỉ lệ
này là 95,6%(5). Chứng tỏ người dân rất quan tâm đến thông tin bệnh SXH.
Đa số người dân biết được trung gian truyền bệnh SXH là muỗi vằn, tỉ lệ trước can thiệp
59%, sau can thiệp 75% (p<0,05). Tỉ lệ này tương đương so với nghiên cứu của Nguyễn Văn
Danh tại Định Quán, Đồng Nai là 61,06% (4), của Trần Trung Phương (2003) là 66,7% (6) và
của Lý Lệ Lan (2004) là 61,6%(3) tại quận 5 Tp Hồ Chí Minh. Kết quả này nói lên sự quan
tâm của người dân đến tác nhân truyền bệnh SXH là khá cao, điều đó cũng cho thấy công tác
truyền thông cũng mang lại những hiệu quả nhất định.
Kiến thức người dân về bệnh SXH (n=200)
Nội dung
Tần suất
Trước CT
Tỉ lệ %
Sau CT
Trước CT
p
Sau CT
Đối tượng dễ mắc SXH
Dưới 15T
170
161
85,00
80,50
p>0,05
Trên15T
13
4
6,50
2,00
p<0,05
Không biết
17
35
8,50
17,50
p<0.05
Sốt cao 39-40 độ
Có
126
123
63,0
61,50
Không
74
77
37,00
38,50
p>0,05
Xuất huyết dưới da
Có
97
116
48,50
58,00
Không
103
84
51,50
42,00
p>0,05
- Ói hoặc đi cầu ra máu
Có
10
23
5
11,50
Không
190
177
95
88,50
p<0,05
Cũng qua kết quả khảo sát trước và sau can thiệp đa số người dân nhận biết trẻ dưới 15
tuổi dễ mắc bệnh SXH, trước can thiệp tỉ lệ 85%, sau can thiệp là 80,50%. Kết quả này tỉ lệ
nhận biết trẻ dưới 15 tuổi dễ mắc bệnh SXH là khá cao, mặc dù sự chênh lệch trước và sau
can thiệp là không lớn.
Tỉ lệ người dân biết triệu chứng của bệnh SXH là xuất huyết dưới da, trước can thiệp là
48,50% và sau can thiệp là 58%. Kết quả này cũng gần ngang với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Văn Danh tại Định Quán, Đồng Nai là 56,7%(4). Tỉ lệ người dân biết về triệu chứng
ói hoặc đi cầu ra máu theo kết quả trước và sau can thiệp là 5%; 11,5% (p<0,05), thấp hơn so
với kết quả của Đoàn Thị Ngọc Hân thị trấn Lái Thiêu huyện Thuận An tỉnh Bình Dương là
23,30%(2). Qua đó cho thấy mặc dù kiến thức về triệu chứng về bệnh SXH của người dân đã
được nâng cao, điều này cho thấy hiệu quả hoạt động truyền thông SXH, tuy nhiên vẫn còn
thấp hơn nhiều so với các địa phương khác vì vậy để kiến thức được nâng cao hơn nữa cần
tiếp tục duy trì và đa dạng thêm các hoạt động truyền thông để cung cấp kiến thức về bệnh
SXH nhiều hơn cho mọi người.
Thực hành của người dân về phòng chống SXH (n=200).
Nội dung
Tần suất
Trước CT
Tỉ lệ %
Sau CT
Trước C
p
Sau CT
Cách diệt muỗi vằn tốt nhất
Muỗi vằn không
nơi ẩn nấp
39
39
19,50
19,50
p>0,05
Muỗi không nơi đẻ
trứng
52
70
26,00
35,00
p>0,05
Diệt lăng quăng
30
31
15,00
15,50
p>0,05
Không biết
79
60
39,50
30,00
p>0,05
p<0,05
Đậy nắp dụng cụ chứa nước
Có
98
119
49,00
59,50
Không
102
81
51,00
40,50
Thả cá:
Có
17
24
8,50
12,00
Không
183
176
91,50
88,00
p>0,05
Súc rửa
Dưới 7 ngày
117
156
58,50
78,00
Trên 7 ngày
83
44
41,50
22,00
p<0,05
Tỷ lệ người dân biết phải diệt muỗi vằn để muỗi vằn không nơi đẻ trứng trước can thiệp
là 26%, sau can thiệp là 35%. Tỉ lệ diệt lăng quăng trước can thiệp là 15%, sau can thiệp là
15,5% cao hơn kết quả nghiên cứu của Đoàn Thị Ngọc Hân Lái thiêu, Bình Dương (2003) là
2,3%(2).
Những dụng cụ chứa nước phải đậy nắp trong kết quả khảo sát trước can thiệp là 49%,
sau can thiệp là 59,50% (p<0,05) so với kết quả của Cù Tiến Dũng tại Củ Chi (2007) là
58,90%(1). Thả cá 7 màu trước can thiệp là 8,50% và sau can thiệp là 12%, thấp hơn so với
nghiên cứu của Đoàn Thị Ngọc Hân tại Lái thiêu, Bình Dương là 20,90%. Súc rửa dụng cụ
chứa nước trước can thiệp là 58,50% và sau can thiệp 78% (p<0,05) ngang với nghiên cứu
của Đoàn Thị Ngoc Hân là 71,10%(2).
Hoạt động truyền thông về phòng chống SXH tại cộng đồng (n=200).
Nội dung
Tần suất
Trước CT
Tỉ lệ %
Sau CT
Trước CT
Sau CT
p
Cộng tác viên PC SXH
Có
37
74
18,50
37,00
Không
163
126
81,50
63,00
p<0,05
Xe cổ động
Có
20
56
10,00
28,00
Không
180
144
90,00
72,00
p<0,05
Có người đến nhà
Có
37
114
18,50
57,00
Không
163
86
72,50
43,00
p<0,05
Họp dân tại ấp
Có
5
34
2,50
17,00
Không
195
166
97,00
83,00
p<0,05
Đài
Có
92
183
46,00
91,50
Không
108
17
54,00
8,50
p<0,05
Tài liệu truyền thông khác
Có
3
63
1,50
31,50
Không
197
137
98,50
69,50
p<0,05
Tỉ lệ người dân biết kiến thức về SXH qua mạng lưới CTV trước và sau can thiệp có
sự thay đổi rõ rệt (18,5% lên 37%; p<0,05). Tỉ lệ người dân biết kiến thức về SXH qua
đài truyền thanh trước và sau can thiệp 46%; 91% (p<0,05), cao hơn so với kết quả của
Cù Tiến Dũng là 64,71%(1).
Tỉ lệ người dân biết kiến thức về SXH qua tài liệu truyền thông trước can thiệp là 20%,
sau can thiệp là 31,50%, cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Đoàn Thị Ngọc
Hân(2) 9,30%.
Quan sát hộ dân
Bảng kiểm so sánh dụng cụ chứa nước giữa 2 đợt
STT
Tên
01
Số lượng
Nắp đậy
Đợt 1
Đợt 2
Lăng quăng
Đợt 1
Đợt 2
Đợt 1
Lu, khạp
136
97
02
Thùng phuy
41
76
5 (12%)
7 (17%)
9 (11,8%)
03
Hồ, xi măng
89
71
40 (45%) 55 (77,6%) 28 (31%)
4 (5,6%)
04
Bồn nhựa
45
55
38 (84%)
44 (80%)
7 (16%)
0 (0%)
05
Bồn inox
4
16
3 (75%)
11 (68,8%)
0 (0%)
0 (0%)
37 (27,2%) 44 (45,0%) 45 (33,1%)
44 (57,9%)
Đợt 2
6 (6,2%)
Trong 200 hộ gia đình được quan sát có 136 lu, khạp ở đợt 1, có 27,2%, được người dân
xử lý có đậy nắp, nên khi quan sát đợt 2 có 97 lu, khạp và có 45% có đậy nắp. Quan sát trong
đợt 1 có lăng quăng là 33,1%, đợt 2 giảm xuống nhiều còn 6,2%. Đối với dụng cụ chứa nước
là hồ xi măng, quan sát lần đầu có 45% có đậy nắp, được người dân xử lý đậy nắp, khi quan
sát lần sau số hồ có nắp đậy tăng lên 77,6%.
Qua số liệu trên cho thấy, xây dựng chương trình truyền thông làm thay đổi tích cực hành
vi phòng chống SXH. Dẫn đến thay đổi kiến thức- thực hành của người dân về phòng chống
SXH, mang lại tính hiệu quả của chương trình truyền thông GDSK.
KẾT LUẬN
Đánh giá hiệu quả hoạt động truyền thông nâng cao kiến thức-thực hành của người dân
về SXH tại xã Bảo Vinh, thị xã Long Khánh được thực hiện thông qua điều tra cắt ngang
trước và sau khi can thiệp với kết quả như sau:
Kiến thức người dân về phòng chống SXH nâng lên rõ rệt. Cụ thể tỉ lệ người dân nhận
biết muỗi vằn là tác nhân truyền bệnh SXH trong khảo sát trước can thiệp là 59%, sau khi
được triển khai chương trình truyền thông, tỉ lệ khảo sát sau can thiệp tăng lên 75%.
Tỷ lệ người dân nhận biết triệu chứng điển hình của bệnh SXH như xuất huyết dưới da
bệnh: khảo sát trước can thiệp là 48,50%, sau khi tác động can thiệp người dân có sự nhận
biết nhiều hơn tỉ lệ tăng lên 58%.
Khảo sát thực hành của người dân về súc rửa thường xuyên những dụng cụ chứa nước
trong nhà để muỗi không nơi đẻ trứng, tỉ lệ khảo sát trước can thiệp: 58%, sau can thiệp
tăng 78%.
Quan sát người dân quản lý dụng cụ chứa nước trong nhà bằng cách đậy nắp lu, khạp
quan sát trước can thiệp 27,2%, sau san thiệp tăng 45%.
Qua đánh giá tác động can thiệp bằng truyền thông GDSK cho thấy, người dân có sự thay
đổi đáng kể về kiến thức, thực hành trong công tác phòng chống SXH. Điều đó có thể góp
phần vào việc làm cho số ca mắc SXH tại xã Bảo Vinh trong năm 2009 (55 ca) giảm rõ rết so
với năm 2008 (95 ca).
KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nêu trên, chúng tôi có một số kiến nghị như sau:
Cần có sự quan tâm sâu sát của chính quyền địa phương để chỉ đạo các ban ngành đoàn
thể phối hợp tốt với ngành y tế địa phương thực hiện tốt hơn chương trình phòng chống SXH
tại địa bàn, vì công việc này không chỉ riêng của ngành y tế.
Nâng cao chất lượng hoạt động đội ngũ cán bộ y tế địa phương và CTV qua các buổi tập
huấn về kiến thức SXH, kỹ năng vận động người dân thay đổi hành vi.
Hỗ trợ thêm về mặt kinh phí cho CTV trong công tác vãng gia.
Phối hợp đồng bộ giữa cán bộ y tế địa phương, cộng tác viên, các đoàn thể để thực hiện
nội dung chương trình đạt hiệu quả cao hơn. Thường xuyên quan sát thực hành của người
dân, giúp cho họ có thói quen tự giác, không trong chờ, ỷ lại, vào ngành y tế, hay các ngành
khác có liên quan.
Xây dựng nội dung cụ thể, phong phú, thường xuyên phát thanh trên loa đài về chương
trình phòng chống SXH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Cù Tiến Dũng (2007), Kiến thực hành về phòng chống SXH của bà mẹ có con dưới
10 tuổi ở huyện Củ Chi, Tp Hồ Chí Minh, khóa luận tốt nghiệp khóa CKI 2007, ĐH YD
Tp.HCM
2.
Đoàn Thị Ngọc Hân (2003), Kiến thức thái độ thực hành của cộng tác viên chương
trình phòng chống SXH tại thị trấn Lái Thiêu, huyện Thuận An, khóa luận tốt nghiệp
CNYTCC 2003, ĐHYD Tp.HCM
3.
Lý Lệ Lan (2004), Khảo sát kiến thức thái độ thực hành phòng chống SXH của
người dân quận 5 Tp Hồ Chí Minh, Khóa luận tốt nghiệp CKI 2004, ĐHYD Tp.HCM
4.
Nguyễn Văn Danh (2005), Kiến thức thái độ hành vi về phòng chống SXH của
người dân, huyện Định Quán, Khóa luận tốt nghiệp CKI 2005, ĐHYD Tp.HCM
5.
Phạm Thị Thúy Hoa (2003), Kiến thức thái độ thực hành về phòng chống SXH của
người dân tại khu phố Bình Hòa thị trấn Lái Thiêu huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương,
khóa luận tốt nghiệp CKI 2003, ĐHYD Tp.HCM
6.
Trần Trung Phương (2003)– Khảo sát kiến thức thái độ hành vi phòng chống SXH
của người dân quận Tân Bình, khóa luận tốt nghiệp CKI 2003, ĐHYD Tp.HCM