1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng là một bệnh phổ biến trên thế giới vẫn còn là một thách
thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng ở nước ta. Đặc biệt đối với trẻ
em dưới 5 tuổi ở một số nước đang phát triển trong đó có các nước Đông
Nam Châu Á và Việt Nam. Cùng với bệnh tiêu chảy, bệnh nhiễm khuẩn hô
hấp cấp, suy dinh dưỡng là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử
vong ở trẻ em [31].
Suy dinh dưỡng trẻ em là tình trạng chậm lớn, chậm phát triển do nhu
cầu dinh dưỡng bình thường của cơ thể không được đáp ứng đầy đủ, ở mức
độ nặng có thể tử vong [23], [27], [34].
Nguyên nhân của suy dinh dưỡng trẻ em là do một chế độ ăn không đầy
đủ và bất hợp lý, phối hợp với bệnh nhiễm trùng [27], [34]. Hậu quả của suy
dinh dưỡng cả thể vừa và thể nhẹ đều nặng nề, theo Tổ chức y tế thế giới có
đến 60% của 10,9 triệu ca tử vong mỗi năm, trong số trẻ em dưới 5 tuổi ở các
nước đang phát triển có liên quan đến suy dinh dưỡng [34], [40]. Những trẻ
em bị suy dinh dưỡng về sau thường học hành kém, thể lực yếu và khi trưởng
thành là những người lao động yếu đuối, những người mẹ bé nhỏ ảnh hưởng
lớn đến sức lao động xã hội và chất lượng thế hệ tương lai [27], [34]. Điều trị
suy dinh dưỡng rất phức tạp và tốn kém, làm tổn thất rất lớn đến kinh tế của
gia đình và của xã hội.
Suy dinh dưỡng gắn liền với nghèo đói, bệnh tật và thiếu kiến thức về
dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng liên quan chặt chẽ đến các yếu tố kinh tế, văn
hoá, xã hội, môi trường sống và dịch vụ y tế. Vì vậy, suy dinh dưỡng được coi
là yếu tố hữu ích để đánh giá sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của một
cộng đồng hay một quốc gia [2], [34].
2
Nhân trắc học dinh dưỡng có mục đích đo đạc các biến đổi về kích thước
và cấu trúc cơ thể theo tuổi và tình trạng sinh lý. Các chỉ tiêu nhân trắc là một
trong các số liệu cơ bản, sử dụng trong đánh giá suy dinh dưỡng [3], [34].
Tại Việt Nam trong những năm gần đây, nền kinh tế ngày càng phát
triển, mặt bằng dân trí ngày càng được nâng cao nhưng tình trạng thiếu ăn vẫn
xảy ra ở nhiều nơi, sự thiếu hiểu biết của các bà mẹ về dinh dưỡng lúc có thai,
cho con bú, cho con ăn bổ sung còn phổ biến. Nhất là các địa phương thuộc
vùng sâu, xa, kinh tế chậm phát triển thì tỷ lệ này vẫn còn cao 38,5% [31].
Ea Tiêu là một xã của huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk với điều kiện kinh tế
khó khăn, phong tục tập quán còn lạc hậu và nhiều yếu tố không thuận lợi đặc
biệt trong vấn đề chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, điều đó sẽ là những trở
ngại trong việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về dinh dưỡng của
trẻ dưới 5 tuổi tại địa phương và thực tế cũng chưa có một nghiên cứu nào về
vấn đề này.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu
tình hình suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi ở xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin,
tỉnh Đăk Lăk năm 2010” với mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi ở xã Ea Tiêu, huyện
Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk năm 2010.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng của
trẻ .
Từ đó có thể đưa ra những giải pháp giúp địa phương thực hiện tốt
chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em của xã nhà một cách có
hiệu quả.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU SUY DINH
DƯỠNG
Từ lâu suy dinh dưỡng trẻ em đã được đề cập tới do tình trạng thiếu
lương thực hoặc cung cấp thức ăn không đủ dẫn đến gầy còm, sút cân và
chậm phát triển về thể lực và giảm sút trí tuệ hậu quả đến tử vong [27].
Năm 1908, Cotrea gọi suy dinh dưỡng là bệnh “rắn nhỏ” vì trẻ em mắc
bệnh cơ thể nhỏ bé, da lại có lằn sẫm nâu nhạt như da rắn. Năm 1926,
Normet bác sỹ người Pháp đã mô tả căn bệnh này với tên gọi là
bouffissure, bệnh sưng phù Annam gặp nhiều ở Trung Nam Bộ Việt Nam.
Năm 1927, tác giả Keller gọi là bệnh suy thoái của trẻ ăn bột. Các tác giả
Autret và Behar gọi suy dinh dưỡng là hội chứng đa khiếm khuyết ở trẻ
em, vì thấy rằng đứa bé bị thiếu nhiều chất dinh dưỡng [8], [13], [34]. Năm
1930 Cicely Williams đã dùng thuật ngữ “Kwashiorkor” nghĩa là bệnh của
những đứa bé bị bỏ rơi” [31].
Năm 1959, một số tác giả dùng thuật ngữ “Suy dinh dưỡng protein calo” để chỉ những đứa trẻ vừa đói protein, vừa đói năng lượng. Năm 1962,
trong bảng phúc trình tại khóa họp thứ sáu, tiểu ban dinh dưỡng FAO/WHO
đã chọn từ “Suy dinh dưỡng protein - calo”. Năm 1966, Jellife đã đề nghị tên
gọi “Suy dinh dưỡng protetin - năng lượng (protein energy malnutrion =
PEM)” để chỉ suy dinh dưỡng ở mức độ nặng hơn. Thuật ngữ này được dùng
cho đến ngày nay [27], [34].
4
1.2. KHÁI NIỆM VỀ SUY DINH DƯỠNG [27], [33], [34]
Suy dinh dưỡng là trình trạng bệnh lý do nhu cầu dinh dưỡng bình
thường của cơ thể không đáp ứng được, hậu quả là thiếu hoặc thừa dinh
dưỡng.
Suy dinh dưỡng trẻ em gọi đầy đủ là suy dinh dưỡng là một rối loạn dinh
dưỡng thường gặp ở trẻ em do thiếu nhiều chất dinh dưỡng, chứ không phải
thiếu protetin - năng lượng đơn thuần [31], [33].
Suy dinh dưỡng là biểu hiện của sự chậm lớn, chậm tăng trưởng chủ yếu
là yếu tố nuôi dưỡng, bệnh tật hơn là nguyên nhân do di truyền, trẻ em dưới 5
tuổi nếu được nuôi dưỡng đầy đủ, mọi trẻ em có thể phát triển như nhau.
Suy dinh dưỡng thứ phát nếu thực phẩm cung cấp đủ về số lượng chất
lượng nhưng do trẻ không muốn ăn, do rối loạn hấp thu, do tăng chuyển hoá
bất thường, do sai lạc chuyển hoá hoặc sự bất thường khiến cho nhu cầu bên
trong cơ thể bị thiếu hụt [31].
1.3. PHÂN LOẠI [13], [22], [34]
1.3.1. Phân loại theo lâm sàng
Đây là cách phân loại khá kinh điển, gồm các thể suy dinh dưỡng nặng
như sau:
- Suy dinh dưỡng thể teo đét (marasmus): Hay gặp trên lâm sàng. Đó
là thể suy dinh dưỡng rất nặng, do chế độ ăn thiếu cả năng lượng lẫn
protein. Suy dinh dưỡng thể teo đét có thể xảy ra ngay trong năm đầu
tiên, điều này khác với suy dinh dưỡng nặng thể phù (kwashiorkor)
chủ yếu xảy ra ở nhóm 1-3 tuổi. Cai sữa quá sớm hoặc thức ăn bổ
sung không hợp lý là nguyên nhân phổ biến dẫn đến thể suy dinh
dưỡng này. Khi đó đứa trẻ rơi vào tình trạng kém ăn, các bệnh nhiễm
5
khuẩn thường gắn liền với vòng lẩn quẩn đó là tiêu chảy và viêm
đường hô hấp.
- Suy dinh dưỡng thể phù (kwashiorkor): Ít gặp hơn nhiều so với thể
marasmus.
Bệnh thường gặp ở trẻ em trên 1 tuổi, nhiều nhất là giai đoạn từ 1- 3 tuổi.
Hiếm gặp ở người lớn, nhưng vẫn có thể gặp khi xảy ra nạn đói nặng nề, nhất
là đối với phụ nữ. Thường do chế độ ăn quá nghèo về protein và glucid tạm
đủ hoặc thiếu nhẹ (nhất là đối với chế độ ăn sam chủ yếu dựa vào khoai sắn).
Suy dinh dưỡng thể kwashiorkor thường kèm theo tình trạng nhiễm khuẩn từ
vừa đến nặng. Tình trạng thiếu các vi chất dinh dưỡng như thiếu Vitamin A,
thiếu máu do thiếu sắt nặng, thường biểu hiện khá rõ nét ở những đứa trẻ bị
kwashiorkor [34].
- Thể trung gian (marasmus - kwashiorkor): Thể này thường gặp nhiều
hơn so với hai thể trên.
1.3.2. Phân loại trên cộng đồng
Trên cộng đồng, suy dinh dưỡng thể vừa và nhẹ thường gặp và có ý
nghĩa sức khoẻ quan trọng nhất, vì ngay cả suy dinh dưỡng nhẹ cũng là tăng
gấp đôi nguy cơ bệnh tật và tử vong ở trẻ em. Người ta nhận thấy, hậu quả do
suy dinh dưỡng lúc nhỏ còn ảnh hưởng lâu dài đến khả năng lao động thể lực,
trí lực cũng như một số bệnh mãn tính ở tuổi trưởng thành.
Để xác định tình trạng suy dinh dưỡng, chủ yếu người ta dựa vào các chỉ
tiêu nhân trắc (cân nặng theo tuổi = CN/T, chiều cao theo tuổi = CC/T, cân
nặng theo chiều cao = CN/CC).
6
1.3.2.1. Một số cách phân loại trước đây
Cách phân loại của Gomez: Năm 1956, một bác sỹ người Mexico tên là
Gomez đã đề ra cách phân loại như sau: Quy cân nặng của đối tượng theo
phần trăm so với cân nặng được coi là chuẩn của quần thể tham khảo
Harvard. Theo đó suy dinh dưỡng độ I tương ứng với 75 - 90% của cân nặng
chuẩn. Suy dinh dưỡng độ III khi dưới 60% cân nặng chuẩn. Trong một thời
gian dài, cách phân loại Gomez đã được sử dụng như là cách phân loại suy
dinh dưỡng duy nhất trên cộng đồng.
Năm 1966 Jelliffe đã đưa ra cách phân loại suy dinh dưỡng và cũng dựa
vào quần thể tham khảo Harvard.
Năm 1977 Waterlow và cộng sự đã đề nghị sử dụng chỉ tiêu chiều cao
theo tuổi để đánh giá suy dinh dưỡng.
1.3.2.2 Cách phân loại của Tổ chức y tế thế giới [4], [5], [34]
Các cách phân loại của Gomez và Jelliffe ở trên khá đơn giản và dễ hiểu.
Tuy nhiên, các ngưỡng phần trăm đề ra, chưa tính đến các phân phối bình
thường (đôi khi còn gọi là phân bố chuẩn hay phân phối Gaussian) trong cộng
đồng và cách phân loại này không phân biệt được suy dinh dưỡng mới xảy ra
hay đã lâu. Hầu hết các số đo nhân trắc cơ thể người của tất cả các nhóm dân
tộc khác nhau đều tuân theo quy luật phân phối bình thường. Giới hạn thường
được sử dụng nhất là khoảng giới hạn từ -2 đến +2, độ lệch chuẩn (SD), tương
đương với bách phân vị thứ 97 đến bách phân vị thứ 3.
Năm 1981, Tổ chức y tế thế giới chính thức khuyến khích sử dụng
khoảng giới hạn từ - 2SD đến + 2SD để phân loại suy dinh dưỡng trẻ em.
Quần thể tham khảo được sử dụng là NCHS (national center for health
statistics). Cho tới nay, đây là thang phân loại được chấp nhận rộng rãi nhất
7
trên thế giới. Thang phân loại dựa vào cân nặng và chiều cao theo các chỉ số
như sau:
- Cân nặng/tuổi: Cân nặng theo tuổi phản ánh tình trạng nhẹ cân, là chỉ
số đánh giá suy dinh dưỡng thông dụng từ năm 1950. Chỉ số này được dùng
để đánh giá suy dinh dưỡng của cá thể hay cộng đồng. Nhẹ cân chỉ là một đặc
tính chung của suy dinh dưỡng, nhưng không cho biết đặc điểm cụ thể, đó là
loại suy dinh dưỡng mới xảy ra hay đã tích luỹ từ lâu. Chỉ số này nhạy cảm và
có thể quan sát nó trong một thời gian ngắn, tuy vậy chỉ số này không nhạy
đối với trẻ em bị còi thấp, vì với những trẻ này có thể phát triển cân nặng thấp
nhưng chỉ song song với phía dưới của đường phát triển bình thường, hoặc có
những trẻ quá cao, nên cân nặng theo tuổi có thể bình thường, nhưng thực ra
trẻ bị suy dinh dưỡng. Chỉ số này liên quan đến tuổi và đó cũng là vấn đề khó
khăn khi thu thập số liệu để tính toán, đặc biệt ở những nơi có trình độ dân trí
thấp, bà mẹ đông con, những nơi các bà mẹ nhớ ngày sinh tháng đẻ của trẻ
theo cách riêng của họ. Thì đây quả là một vấn đề hết sức khó khăn.
Tuy nhiên, theo dõi cân nặng là việc tương đối dễ thực hiên ở cộng đồng
hơn cả, do đó tỷ lệ thiếu cân theo tuổi được sử dụng rộng rãi để tính tỷ lệ
chung của suy dinh dưỡng [1], [27], [29].
- Chiều cao/tuổi: Chiều cao/tuổi thấp được gọi là thấp còi (stunting), biểu
hiện suy dinh dưỡng trong quá khứ. Thấp còi được xem là hậu quả của tình
trạng thiếu ăn hoặc mắc các bệnh nhiễm khuẩn tái diễn. Đồng thời, nó cũng
phản ánh đó là hậu quả của vệ sinh môi trường kém và suy dinh dưỡng sớm.
Chỉ số này được dùng để đánh giá suy dinh dưỡng trong quá khứ với các
trang thiết bị rẻ tiền và dễ vận chuyển. Tuy nhiên, chỉ số này không nhạy, vì
sự phát triển chiều cao là từ từ. Như vậy, khi thấy trẻ có chiều cao thấp thì đã
muộn. Tỷ lệ trẻ em thấp còi được xem là chỉ số đánh giá tình trạng đói nghèo.
8
Đây là chỉ tiêu tốt để đánh giá sự cải thiện điều kiện kinh tế, xã hội. Thông
thường ở các nước đang phát triển, tỷ lệ thấp còi tăng nhanh sau 3 tháng tuổi,
đến 3 tuổi tỷ lệ này ổn định, sau đó chiều cao trung bình đi song song với
chiều cao tương ứng ở các quần thể tham khảo.
- Cân nặng/chiều cao:Cân nặng theo chiều cao thấp được gọi là suy dinh
dưỡng thể gầy còm (wasting), là chỉ số đánh giá suy dinh dưỡng hiện tại, hay
nói cách khác nó biểu hiện suy dinh dưỡng cấp tính, do vậy cần phải ưu tiên
can thiệp. Cân nặng/chiều cao thấp, chính là thiếu hụt cơ thể (khối nạc, khối
mỡ, xương) khi so sánh tổng số cần có của đứa trẻ có cùng chiều cao (hay
chiều dài). Cân nặng theo chiều cao thấp, phản ánh sự không tăng cân hay
mất cân nếu so sánh với trẻ có cùng chiều cao. Nó còn phản ánh mức độ thiếu
ăn và nhiễm khuẩn là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này. Tỷ lệ
cân nặng/chiều cao thấp thường xuất hiện nhiều ở trẻ 12 - 24 tháng tuổi, do
đây là thời kỳ trẻ hay mắc bệnh và thiếu ăn do thiếu chăm sóc. Suy dinh
dưỡng cấp tính tiến triển rất nhanh ở trẻ em bị sụt cân hoặc không tăng cân.
Chỉ số cân nặng/chiều cao có ưu điểm là không cần biết tuổi của trẻ, vì vậy có
thể tránh được một dữ liệu (tính tuổi) đôi khi rất khó thu thập hoặc không
chính xác. Đồng thời chỉ số này còn có một ưu điểm là không phụ thuộc vào
yếu tố dân tộc, vì trẻ dưới 5 tuổi cơ thể phát triển như nhau trên toàn cầu.
1.4. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ CỦA SUY DINH DƯỠNG
- Tỷ lệ Suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng là gánh nặng sức khoẻ ở nhiều nước đang phát triển. Tỷ
lệ trẻ em trước tuổi đi học bị suy dinh dưỡng chiếm từ 20% đến 50 %. Khu
vực Đông Nam Á tỷ lệ mắc khá cao 40% đến 50 %. Tỷ lệ suy dinh dưỡng
biến động tăng lên xảy ra vào thời gian nạn đói hoặc có các tình trạng khẩn
cấp khác như: chiến tranh, thiên tai, bão lụt, hạn hán. Ở nước ta vào thập kỷ
9
80, tỷ lệ suy dinh dưỡng trên 50 %, năm 1995 là 44,9 %, năm 2002 còn
31,1% [4], [16], [34].
1.5. NGUYÊN NHÂN SUY DINH DƯỠNG [34]
Nguyên nhân trực tiếp phải kể đến là thiếu ăn về số lượng hoặc chất
lượng và mắc các bệnh nhiễm khuẩn. Trẻ em trước tuổi học đường là đối
tượng bị suy dinh dưỡng cao nhất, bởi vì cơ thể ở giai đoạn phát triển nhanh,
nhu cầu dinh dưỡng cao và do không ăn được đầy đủ các chất dinh dưỡng.
Người ta thường cho rằng, những vùng ăn chủ yếu các loại ngũ cốc, củ...
thường hay dẫn đến suy dinh dưỡng, nhưng nhiều nghiên cứu sau đó, lại cho
thấy khẩu phần ăn của trẻ thiếu năng lượng trầm trọng, ngay cả khi mức thiếu
protein mới ở mức đe doạ.
Sữa mẹ và thức ăn bổ sung đóng vai trò quan trọng đối với thời gian bị
suy dinh dưỡng và thể loại suy dinh dưỡng. Khi cho ăn bổ sung muộn, như
một số nước Châu Phi, các trường hợp suy dinh dưỡng nặng xảy ra vào năm
tuổi thứ hai, thứ ba hoặc thứ tư và thường là thể kwashiorkor. Maramus lại
hay xảy ra trước 06 tháng tuổi, đối với những trẻ không được bú sữa mẹ, hoặc
cho ăn bổ sung quá sớm. Ở các vùng thành phố, Maramus lại có liên quan đến
bú chai, nhất là khi số lượng sữa không đủ, đôi khi do cả các nguyên nhân sử
dụng núm vú cao su, các đầu mút không hợp vệ sinh. Cho trẻ em thức ăn đặc
quá, số lượng không đủ, năng lượng cùng protein trong khẩu phần thấp cũng
dẫn tới thể suy dinh dưỡng này.
Nhiễm khuẩn dễ đưa đến suy dinh dưỡng do rối loạn tiêu hoá và ngược
lại suy dinh dưỡng dễ dẫn đến nhiễm khuẩn do đề kháng giảm. Do đó tỷ lệ
suy dinh dưỡng có thể dao động theo mùa và thường cao trong các mùa bệnh
nhiễm khuẩn lưu hành ở mức cao (tiêu chảy, viêm hô hấp, sốt rét...).
10
Trong những năm tháng đầu tiên sau khi ra đời, những trẻ đã bị kém phát
triển trong thời kỳ bào thai (suy dinh dưỡng bào thai) có nguy cơ cao bị suy
dinh dưỡng sớm. Tình trạng kém phát triển của trẻ biểu hiện qua CN/T và
CC/T thấp, xảy ra trong khoảng thời gian tương đối ngắn, từ mới sinh đến khi
trẻ được 2 năm.
Một số nghiên cứu cho thấy, hiểu biết của phụ nữ và những người chăm
sóc trẻ cũng ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh dưỡng [17], [21]. Hội nghị
thượng đỉnh về dinh dưỡng ở Rome 1992, đã khẳng định hai nguyên nhân gốc
rễ dẫn đến nạn suy dinh dưỡng là đói ăn và đói kiến thức [24]. Một số nghiên
cứu khác cho rằng, vào những năm 2000 yếu tố “thiếu ăn” dần trở nên ít quan
trọng so với yếu tố “ hiểu biết của phụ nữ về chăm sóc trẻ” [23], [34].
Nguyên nhân sâu xa của suy dinh dưỡng là tình trạng nghèo đói, lạc hậu
về các mặt phát triển nói chung, bao gồm sự mất bình đẳng về kinh tế.
Các bệnh thường đi kèm: Thông thường thiếu vitamin A hay đi kèm. Bên
cạnh đó, tình trạng thiếu các vi chất dinh dưỡng khác, dù có hay không có
biểu hiện lâm sàng như thiếu acid folic, sắt... Với các mức độ thay đổi theo
từng vùng địa phương khác nhau cũng thường xuyên đi kèm với suy dinh
dưỡng. Một số vi chất dinh dưỡng cũng đang được xem xét gây ra quá trình
chậm lớn, chậm phát triển của cơ thể như Iod, sắt và kẽm.
Như vậy, suy dinh dưỡng thực chất là tình trạng bệnh lý do thiếu nhiều
chất dinh dưỡng hơn là thiếu protein - năng lượng đơn thuần [23], [34].
Có thể tóm tắt nguyên nhân của suy dinh dưỡng qua sơ đồ dưới đây:
11
NGUYÊN NHÂN SUY DINH DƯỠNG VÀ TỬ VONG
(UNICEF, 1990) [3], [14], [32]
Suy dinh dưỡng và
tử vong
Biểu hiện
Nguyên
nhân trực
tiếp
Nguyên
nhân tiềm
tàng
Thiếu ăn
Bệnh tật
Thiếu an ninh
lương thực - thực
phẩm hộ gia đình
Chăm sóc bà
mẹ - trẻ em
chưa tốt
Thiếu dịch vụ y
tế và vệ sinh
môi trường
Thượng tầng kiến trúc về chính trị và tư tưởng
Các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội
Nguyên
nhân cơ
bản
Cơ cấu kinh tế
Nguồn tiềm
năng
12
1.6. HẬU QUẢ CỦA SUY DINH DƯỠNG ĐỐI VỚI SỨC KHỎE
Trẻ có cân nặng theo tuổi thấp, thường hay bị bệnh như tiêu chảy và
viêm phổi. Suy dinh dưỡng làm tăng tỷ lệ tử vong. Ước tính riêng trong năm
1995 có 11,6 triệu trường hợp trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển bị
tử vong vì tất cả các nguyên nhân khác nhau thì có 6,3 triệu trường hợp
(chiếm 54 %) bị suy dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng ảnh hưởng rõ rệt đến phát
triển trí tuệ, hành vi, khả năng học hành của trẻ, khả năng lao động đến tuổi
trưởng thành [4], [23], [34].
Suy dinh dưỡng trẻ em thường để lại hậu quả nặng nề. Gần đây, nhiều
bằng chứng cho thấy suy dinh dưỡng ở giai đoạn sớm, nhất là trong thời kỳ
bào thai có mối liên hệ với mọi thời kỳ của đời người. Hậu quả của suy dinh
dưỡng có thể kéo dài qua nhiều thế hệ, phụ nữ đã từng bị suy dinh dưỡng
trong thời kỳ còn trẻ là trẻ nhỏ hoặc trong độ tuổi vị thành niên đến khi lớn
lên trở thành bà mẹ bị suy dinh dưỡng. Bà mẹ bị suy dinh dưỡng thường dễ đẻ
con nhỏ yếu, cân nặng sơ sinh thấp. Hầu hết những trẻ có cân nặng sơ sinh
thấp bị suy dinh dưỡng (nhẹ cân hoặc thấp còi) ngay trong năm đầu sau sinh.
Những trẻ này có nguy cơ tử vong cao hơn so với trẻ bình thường và khó có
khả năng phát triển bình thường.
Tác giả Barker, nêu ra một giả thuyết mới về nguồn gốc bào thai của một
số bệnh mãn tính. Theo ông các bệnh tim mạch, đái tháo đường, rối loạn
chuyển hoá ở người trưởng thành có thể có nguồn gốc từ suy dinh dưỡng
bào thai.
Chính vì thế, phòng chống suy dinh dưỡng bào thai hoặc trong những
năm đầu tiên sau khi ra đời, có ý nghĩa quan trọng trong dinh dưỡng theo chu
kỳ vòng đời.
13
1.7. TÌNH HÌNH SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI TRÊN
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.7.1. Tình hình suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên thế giới
Suy dinh dưỡng là một bệnh phổ biến của toàn cầu, đặc biệt là các nước
đang phát triển. Theo tổ chức y tế thế giới, năm 1990 ước tính có khoảng 500
triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng trên phạm vi toàn cầu, trong đó khoảng 150
triệu ở các nước châu á chiếm khoảng 44% [31]. Tại hội nghị quốc tế về dinh
dưỡng họp tại Roma năm 1992 cho thấy khoảng 20% dân số các nước đang
phát triển lâm vào cảnh đói thiếu, 192 triệu người suy dinh dưỡng. Phần lớn
người dân ở các nước đang phát triển thiếu các vi chất dinh dưỡng. Khoảng
40 triệu người thiếu vitamin A, 200 triệu người thiếu máu do thiếu sắt. Theo
kết quả điều tra của 72 nước đang phát triển từ năm 1980 - 1992 cho thấy tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là 35,8%, tỷ lệ trẻ còi cọc 42,7% tỷ lệ
gầy còm là 92%. Trong đó Châu Á có tỷ lệ cao nhất là 42% trẻ em dưới 5 tuổi
bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, 47,1% thể còi cọc và 10,8% thể gầy còm.
Châu Úc có 29% trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, 38,6% thể còi cọc và 7,2%
thể gầy còm. Mỹ Latinh có 11 % trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, 22,2% thể
còi cọc và 2,7% thể gầy còm [31].
Những năm gần đây suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi có xu hướng
giảm trên phạm vi toàn thế giới. Theo số liệu điều tra của 61 quốc gia năm
1998 thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng trong 15 năm qua giảm 0,54% /năm. Trong đó
các nước Đông Nam Á có tỷ lệ giảm nhanh nhất khoảng 0,9% [31]. Theo
thống kê của UNICEF cho thấy năm 1998 tỷ lệ suy dinh dưỡng của các nước
Đông Nam Á như: Lào 40%, Indonesia34 %, Mianma 43% [31].
1.7.2. Tình hình suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam
Tại Việt Nam, trong những năm qua nhờ có sự triển khai mạnh mẽ các
chương trình can thiệp, nhằm nâng cao tình trạng dinh dưỡng cho trẻ em trên
14
toàn quốc, đồng thời đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, hiểu
biết của nhân dân về cách nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ được nâng cao. Ở một
số vùng thành phố, thị xã kinh tế tăng trưởng nhanh tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ
em dưới 5 tuổi thấp có những trường hợp thừa cân [38]. Nhưng còn nhiều
vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, kinh tế còn khó khăn, dân trí
thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi vẫn còn cao.
Theo số liệu của Viện Dinh Dưỡng tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5
tuổi từ năm 2005 - 2009 được thể hiện qua số liệu bảng 1.1. [31], [38].
Bảng 1.1. Diễn biến tình hình qua các năm
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ
em < 5 tuổi
Tỉnh Dak Lak
Viện dinh dưỡng
2005
2006
2007
2008
2009
34,3
32,8
30,4
29,1
28,4
25,2
23,4
21,2
19,9
18,9
Do nguyên nhân suy dinh dưỡng phức tạp nên chiến lược phòng chống
suy dinh dưỡng phải là chiến lược lồng ghép. Ở Việt Nam hoạt động sau đây
gọi là can thiệp tối thiểu [31].
- Bú mẹ hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu.
- Ăn bổ sung hợp lý từ tháng thứ 6 và tiếp tục bú cho đến 24 tháng.
- Có đủ Vitamin A cho bà mẹ và trẻ em.
- Chăm sóc dinh dưỡng hợp lý sau khi mắc bệnh.
- Cung cấp viên sắt cho các bà mẹ khi mang thai.
- Các gia đình dùng muối tăng cường Iod.
1.8. CHIẾN LƯỢC PHÒNG CHỐNG SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM
CỦA VIỆT NAM
Với quan điểm của Đảng ta coi trọng nhân tố con người trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, vấn đề cải thiện dinh dưỡng và giảm tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em là một trong những mục tiêu quan trọng trong văn kiện Đại Hội
15
Đảng. Thực hiện chương trình cải thiện bữa ăn được các địa phương quan tâm
đưa vào nghị quyết của Đảng, chính quyền ở tất cả các cấp đã trở thành một
trong những nhiệm vụ quan trọng, đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng dinh
dưỡng của người dân. Có thể nói suy dinh dưỡng trẻ em đã từng bước đẩy lùi.
Bệnh khô mắt do thiếu Vitamin A nay đã giảm hẳn. Tình trạng suy dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở nước ta vẫn còn cao. Theo kết quả điều tra của
Viện Dinh Dưỡng năm 2005 tỷ lệ suy dinh dưỡng chung là 31,3% [31].
Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra các vùng sinh thái khác nhau thì tỷ lệ suy
dinh dưỡng cũng không giống nhau, miền núi cao hơn đồng bằng, nông thôn
cao hơn thành thị, những vùng hay xảy ra thiên tai, bão lụt tỷ lệ cao hơn các
vùng khác. Theo kết quả điều tra của chương trình mục tiêu phòng chống suy
dinh dưỡng năm 2002 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng/ tuổi cao nhất ở
Tây Nguyên 40,2%, khu vực Bắc Miền Trung và miền núi Tây Bắc 36%,
vùng Đông Bắc 33,4%, vùng duyên hải Nam Trung Bộ 32,6%, vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long 28%, vùng Đồng Bằng Sông Hồng 26,6% và thấp nhất
là Đông Nam Bộ 24,4%. Cũng theo nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt giữa
nông thôn và thành thị, khác nhau theo lứa tuổi [31].
Ngày 22/02/2001 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 21/2001 QĐ TTG về việc phê duyệt chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001 2010 với mục tiêu: Đảm bảo đến năm 2010 tình trạng suy dinh dưỡng của
nhân dân được cải thiện rõ rệt ở các giai đoạn. Trước hết là trẻ em và bà mẹ
được nuôi dưỡng và chăm sóc hợp lý, bữa ăn của người dân ở tất cả các vùng
đủ hơn về số lượng, cải thiện hơn về chất lượng, đảm bảo về an toàn vệ sinh,
hạn chế các vấn đề sức khoẻ vừa mới nảy sinh có liên quan đến dinh dưỡng.
1.9. ĐÁNH GIÁ SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI
Suy dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm, chức phận, cấu trúc và hoá sinh,
phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể [4], [23], [34].
16
Đánh giá suy dinh dưỡng là quá trình thu thập và phân tích thông tin,
số liệu về suy dinh dưỡng và nhận định tình hình trên cơ sở các thông tin
số liệu đó.
Một phương pháp định lượng chính, thường được sử dụng trong đánh giá
suy dinh dưỡng là [3], [23], [34].
- Nhân trắc học đó là việc đo những biến đổi của các kích thước cơ thể và
các mô cấu trúc nên cơ thể. Ở các lứa tuổi và mức độ dinh dưỡng khác nhau.
Các chỉ số nhân trắc có thể thu thập trực tiếp từ các số đo hoặc từ một sự kết
hợp của các kích thước thô. Ví dụ: cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi,
cân nặng theo chiều cao...
- Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống: Đây là phương pháp được sử
dụng để phát hiện sự bất hợp lý (thiếu hụt hoặc thừa) dinh dưỡng ngay ở giai
đoạn đầu tiên. Thông qua việc thu thập, phân tích các số liệu về tiêu thụ giữa
thực phẩm và tập quán ăn uống, cho phép rút ra các kết luận về mối liên hệ
giữa ăn uống và tình trạng sức khoẻ. Một số phương pháp thường dùng để
điều tra mức tiêu thụ thực phẩm là phương pháp hỏi ghi 24 giờ, phương pháp
hỏi ghi nhiều lần 24 giờ, phương pháp cân đong tại hộ gia đình, và phương
pháp điều tra tần suất tiêu thụ thực phẩm [33], [34].
- Các thăm khám thực thể, đặc biệt chú ý tới các triệu chứng suy dinh
dưỡng kín đáo và rõ ràng.
- Các xét nghiệm lâm sàng chủ yếu là hoá sinh ở dịch thể và các chất bài
tiết (máu, nước tiểu...) để phát hiện mức bão hoà chất dinh dưỡng.
- Các kiểm nghiệm chức phận, để xác định các rối loạn chức phận do
thiếu hụt dinh dưỡng.
- Điều tra tỷ lệ bệnh tật và tử vong: Sử dụng các thống kê y tế để tìm hiểu
mối liên quan giữa tình hình bệnh tật và suy dinh dưỡng.
17
- Đánh giá các yếu tố sinh thái liên quan đến suy dinh dưỡng và
sức khoẻ.
Quá trình lớn là kết quả tổng hợp của các yếu tố di truyền và ngoại cảnh,
trong đó các yếu tố dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng. Nhiều nghiên cứu
gần đây cho thấy, yếu tố dinh dưỡng hầu như giữ vai trò chi phối chính trong
sự phát triển của trẻ em, ít nhất đến 5 tuổi. Vì vậy, thu thập các kích thước
nhân trắc là bộ phận quan trọng trong các cuộc điều tra dinh dưỡng [23], [34].
Hiện nay, người ta nhận định suy dinh dưỡng ở trẻ em, chủ yếu dựa
vào 03 chỉ tiêu sau: Cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi, cân nặng theo
chiều cao.
Cân nặng theo tuổi (suy dinh dưỡng thể nhẹ cân): Hiện nay, tổ chức y tế
thế giới dựa vào 03 chỉ tiêu sau: Cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi, cân
nặng theo chiều cao.
Cân nặng theo tuổi (suy dinh dưỡng thể nhẹ cân): Hiện nay, tổ chức y tế
thế giới đề nghị lấy điểm ngưỡng ở dưới 2 độ lệch chuẩn (-2SD) so với quần
thể tham khảo chiếu “Trung tâm thống kê sức khoẻ quốc gia của Hoa Kỳ”
(NCHS) để coi là nhẹ cân.
Từ đó có thể chia thêm các mức độ sau đây:
Từ -2SD đến -3SD: Suy dinh dưỡng độ I (nhẹ).
Từ <-3SD đến -4SD: Suy dinh dưỡng độ II (vừa).
Dưới -4SD: Suy dinh dưỡng độ III (nặng).
Chiều cao theo tuổi: Suy dinh dưỡng thể thấp còi:
Từ -2SD đến +2SD: Bình thường.
Từ <-2SD đến -3SD: Suy dinh dưỡng độ I.
Dưới -3SD: Suy dinh dưỡng độ II.
Cân nặng theo chiều cao: Suy dinh dưỡng thể gầy còm:
18
Suy dinh dưỡng được ghi nhận khi chỉ số trên thấp hơn -2 độ lệch chuẩn
(<-2SD) so với một quần thể tham khảo nhất định. Mức độ nhẹ như sau:
Từ -2SD đến + 2SD: Bình thường
Từ <-2SD đến - 3SD: Suy dinh dưỡng độ I
Từ -3SD: Suy dinh dưỡng độ II
Khi cả hai chỉ tiêu chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao đều
thấp hơn ngưỡng đề nghị, đó là suy dinh dưỡng thể phối hợp, đứa trẻ vừa còi,
vừa còm.
Không nên coi quần thể tham khảo là chuẩn, là mục tiêu mong muốn, mà
chỉ là cơ sở để đưa ra các nhận định thuận tiện cho các so sánh trong nước và
quốc tế. Do nhận thấy ở trẻ em dưới 5 tuổi, nếu được nuôi dưỡng hợp lý và
điều kiện sống hợp vệ sinh thì khả năng lớn không khác nhau theo chủng tộc,
tổ chức y tế thế giới đã đề nghị lấy quần thể NCHS của Hoa Kỳ làm quần thể
tham khảo và đề nghị này hiện nay đã được ứng dụng rộng rãi, mặc dù vẫn
còn một số nước áp dụng các quần thể tham chiếu địa phương [34].
1.10. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH XÃ EA TIÊU, CƯ KUIN, ĐĂK LĂK
- Đặc điểm chung của huyện cưkuin:
Dân số 107.347 người, mật độ dân cư : 268 người/km2, nông nghiệp là
chủ yếu, đại bộ phận dân cư còn nghèo, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó
khăn. Thương nghiệp dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp nên tổng thu nhập của người
dân còn rất thấp.
- Vị trí địa lý:
Nghiên cứu được thực hiện tại xã Ea Tiêu trực thuộc huyện Cư Kuin.
huyện Cư Kuin nằm ở phía Đông Nam TP.Buôn Ma Thuột, hiện có 08 xã, 85
thôn 26 buôn với dân số 107.347 người có 15 dân tộc sinh sống chiếm tỷ lệ
27,5%.
19
- Huyện Cư Kuin: Phía Đông giáp với huyện Krông Bông, phía Tây giáp
với TP.Buôn Ma Thuột, phía Nam giáp với huyện Krông Ana, phía Bắc giáp
với huyện Krông Pắk. Dân số: 107.347 người. Mật độ dân số huyện: 268
người/km2.
- Xã Ea Tiêu: Phía Đông với xã Eaktuar, Phía Tây giáp với TP Ban Mê
Thuột, phía Nam giáp với xã ĐrâyBhăng, phía Bắc giáp với huyện KrôngPắk
Dân số: 21.391 người, mật độ dân cư: 215người/km2
Trong đó đồng bào thiểu số là 8.334 người, chiếm tỷ lệ 38,9 %. Đại đa số
làm nghề nông có mức thu nhập thấp, cuộc sống kinh tế khó khăn.
Trẻ dưới 5 tuổi
Huyện Cư Kuin
Xã Ea Tiêu
8.883
1.631
20
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Trẻ em dưới 5 tuổi (sinh từ ngày 15 tháng 07 năm 2005 đến ngày 15
tháng 07 năm 2010) và các bà mẹ có con trong diện điều tra.
- Nghiên cứu được tiến hành tại xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh
Đăk Lăk
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 07/2010- 08/2010
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu theo công thức tính cỡ mẫu của một nghiên cứu cắt ngang
Trong đó:
Z12/2p(1p)
n
d2
- Mức tin cậy 95%, Z = 1,96
- Tỷ lệ suy dưỡng 50%, p = 0,5
- Độ chính xác mong muốn 5%, d = 0,05
- Thay số liệu vào công thức tính được cỡ mẫu
n = 384
Lập danh sách trẻ dưới 5 tuổi của xã (trạm y tế xã quản lý
danh sách này), sau đó dùng máy vi tính chọn ngẫu nhiên từng trẻ < 5 tuổi để
khảo sát.
Tiêu chí chọn mẫu: Trẻ dưới 5 tuổi (theo danh sách của trạm y tế xã).
Tiêu chí loại ra khỏi mẫu: Sẽ loại ra những trường hợp sau:
21
- Trẻ mắc bệnh mãn tính, trẻ không có mặt trong thời gian nghiên cứu, trẻ
có mẹ không hợp tác.
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
Công cụ thu thập số liệu: Bằng bộ câu hỏi phỏng vấn bà mẹ và cân trẻ
Bộ câu hỏi phỏng vấn: Để thu thập các thông tin về các yếu tố liên quan đến
suy dinh dưỡng của trẻ thông qua việc phỏng vấn các bà mẹ (hoặc người
nuôi dưỡng).
Cân trẻ: Bằng cân của dự án phòng chống suy dinh dưỡng. Trẻ được cân
cởi bỏ giày, dép, mũ, mặc áo mỏng. Cân nặng tính bằng kg lấy một số lẻ. Đối
với trẻ đứng được thì cân trực tiếp, nếu trẻ còn nhỏ thì mẹ bế sau đó cân mẹ
để trừ số cân của mẹ.
Người thu thập số liệu: Sinh viên năm thứ 6 (Bác sĩ hệ 6 năm), và điều
dưỡng sản nhi được tập huấn kỹ về cách phỏng vấn và điền thông tin vào
phiếu, cách cân trẻ. Những bà mẹ là người dân tộc thiểu số sẽ cần thêm một
cộng tác viên là y tế thôn bản để làm thông dịch.
2.2.4. Các chỉ số dùng trong nghiên cứu và kỹ thuật thu thập số liệu
2.2.4.1. Các chỉ số được dùng trong nghiên cứu [23], [27], [34]
- Cân nặng theo tuổi (CN/T).
- Chiều cao theo tuổi (CC/T).
- Cân nặng theo chiều cao (CN/CC).
2.2.4.2. Thông tin thu thập chủ yếu
- Tuổi của trẻ và mẹ.
- Cân nặng của trẻ và mẹ.
- Chiều cao của trẻ và mẹ.
- Số con trong gia đình.
- Vấn đề bú mẹ.
- Ăn dặm.
- Tình trạng lúc sinh.
- Tiền sử bệnh tật của trẻ và mẹ.
- Nghề nghiệp mẹ.
22
- Trình độ văn hoá của mẹ.
- Hiểu biết của mẹ về cách nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ.
- Ăn uống của mẹ lúc có thai và cho con bú.
- Tuổi mang thai đầu tiên.
- Khoảng cách giữa các lần sinh.
- Điều kiện kinh tế gia đình.
2.2.4.3. Kỹ thuật thu thập số liệu
Cách tính tuổi: Tính tuổi theo quy ước của tổ chức y tế thế giới (1993)
hiện đang được áp dụng tại Việt Nam [3], [26], [34].
- Tính tuổi theo tháng (đối với trẻ em dưới 5 tuổi). Quy ước tính như sau:
Kể từ khi mới sinh tới trước ngày tròn tháng (từ 1 - 29 ngày hay còn gọi
là tháng thứ nhất) được coi là một tháng tuổi.
Kể từ ngày tròn một tháng đến trước ngày tròn hai tháng (tức 30 ngày
đến 59 ngày) được gọi là 2 tháng tuổi.
Tương tự như vậy, kể từ ngày tròn 11 tháng đến trước ngày tròn 12 tháng
(tức tháng thứ 12) được coi là 12 tháng tuổi.
Một cách ngắn gọn: Muốn biết trẻ mấy tháng tuổi theo quy ước, nghĩa là
cần biết trẻ đang thuộc tháng thứ mấy.
- Tính tuổi theo năm:
Từ sơ sinh đến 11 tháng 29 ngày (tức là năm thứ nhất) gọi là 0 tuổi hay
dưới 1 tuổi.
Từ ngày tròn một năm đến trước ngày sinh nhật lần thứ hai (tức là năm
thứ hai) gọi là một tuổi.
Như vậy theo quy ước:
- 0 tuổi tức là năm thứ nhất, gồm các tháng tuổi từ 1 đến 12.
- 1 tuổi tức là năm thứ hai, gồm các tháng tuổi từ 13 đến 24.
- 2 tuổi tức là năm thứ ba, gồm các tháng tuổi từ 25 đến 36.
23
- 3 tuổi tức là năm thứ tư, gồm các tháng tuổi từ 37 đến 48.
- 4 tuổi tức là năm thứ năm, gồm các tháng tuổi từ 49 đến 60.
Gọi là trẻ dưới 5 tuổi tức là từ 0 đến 4 tuổi hay trẻ từ 1 đến 60 tháng tuổi.
Đối với những bà mẹ chỉ nhớ ngày sinh của trẻ theo âm lịch, dùng lịch
âm/dương để quy đổi.
- Kỹ thuật đo cân nặng và chiều cao [3], [11], [34].
Trước khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi thăm dò, khảo sát thực địa để
có kế hoạch cụ thể cho việc nghiên cứu.
Bước 1: Chuẩn bị.
Huấn luyện cho sinh viên năm thứ 6 (Bác sĩ hệ 6 năm), điều dưỡng sản
nhi kỹ thuật cân đo, cách ghi vào mẫu.
Cân xách tay, thước đo.
Các mẫu điều tra in sẵn.
Danh sách trẻ dưới 5 tuổi của xã Ea Tiêu
Bước 2: Tiến hành cân, đo.
- Cân trẻ: Sử dụng cân bàn đứng. Cân được đặt ở vị trí ổn định và bằng
phẳng. Tiến hành kiểm tra thăng bằng của cân mỗi lần cân để đảm bảo tính
chính xác. Trẻ được cân cởi bỏ giày dép, mũ, mặc áo mỏng, trẻ đứng hoặc
ngồi để cân, không cử động, mặt nhìn thẳng. Trường hợp trẻ nhỏ, quậy khóc
không dỗ được, một người trong nhóm nghiên cứu sẽ bế trẻ để cân, sau đó trừ
đi cân nặng của người này để có cân nặng của trẻ. Cân nặng tính theo kg, lấy
1 số lẻ.
- Đo trẻ: Đo chiều dài nằm bằng thước đo chiều dài của UNICEF, đo
chiều cao đứng bằng thước đo MICROTOISE. Trẻ dưới 24 tháng đo chiều dài
nằm, trên 24 tháng tuổi đo chiều cao đứng.
Đo chiều dài: Trẻ nằm ngửa trên thước đo, người phụ nữ giữ đầu để mặt
trẻ nhìn thẳng lên trần nhà, mảnh gỗ chỉ số 0 của thước áp sát đỉnh đầu. Người
24
đo ấn thẳng đầu gối và đưa mảnh gỗ di động áp sát gót, khi gót chân sát mặt
phẳng nằm ngang và bàn chân thẳng đứng. Kết quả tính theo cm, lấy 1 số lẻ.
Đo chiều cao đứng: Trẻ bỏ giày dép, đi chân không, đứng quay lưng vào
thước đo, lưu ý để thước đo theo chiều thẳng đứng, vuông góc với mặt đất
nằm ngang. Gót chân, mông, vai và đầu theo một đường thẳng nằm ngang,
hai tay bỏ thẳng theo hai bên hình. Dùng thước vuông hoặc mảnh gỗ áp sát
đỉnh đầu thẳng góc với thước đo. Kết quả tính theo cm, lấy 1 số lẻ.
Thu thập các thông tin khác.
Dựa vào bộ câu hỏi đã chuẩn bị sẵn, nhằm thu thập các thông tin liên
quan đến suy dinh dưỡng của trẻ từ việc phỏng vấn bà mẹ.
2.2.5. Đánh giá suy dinh dưỡng [4], [12], [34]
2.2.5.1. Đánh giá suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi
Sử dụng tiêu chuẩn của TCYTTG để xác định, phân loại suy dinh dưỡng
trẻ em dưới 5 tuổi. Quần thể tham chiếu là NCHS và dựa vào 03 tiêu chuẩn
chính: là cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao.
Phân loại như sau:
- Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân:
Từ +2SD đến -2SD: Bình thường.
Từ <-2SD đến -3SD: Suy dinh dưỡng độ I.
Từ <-3SD đến -4SD: Suy dinh dưỡng độ II.
Dưới -4SD: Suy dinh dưỡng độ III.
- Suy dinh dưỡng thể thấp còi:
Từ +2SD đến -2SD: Bình thường.
Từ <-2SD đến -3SD: Suy dinh dưỡng độ I.
Dưới -3SD: Suy dinh dưỡng độ II.
- Suy dinh dưỡng thể gầy còm:
Từ +2SD đến -2SD: Bình thường.
25
Từ <-2SD đến -3SD: Suy dinh dưỡng độ I.
Dưới -3SD: Suy dinh dưỡng độ II.
- Suy dinh dưỡng thể phối hợp: Khi cả 02 tiêu chuẩn CC/T và CN/CC
đều thấp hơn -2SD, đứa trẻ vừa còi, vừa bị còm.
2.2.5.2. Đánh giá suy dinh dưỡng của mẹ
Gần đây, tổ chức y tế thế giới khuyến nghị nên dùng chỉ số khối cơ thể
(body mass index = BMI) để nhận định suy dinh dưỡng của người trưởng
thành. Công thức tính như sau: [4], [12], [34].
Cân nặng (kg)
BMI =
Chiều cao 2 (m)
Căn cứ theo khuyến nghị của FAO (1994) dựa vào cách phân loại của
Ferro - Luzzi và cộng sự (1992), suy dinh dưỡng được đánh giá như sau:
Từ 18,5 đến 24,5: Bình thường.
Dưới 18,5: Thiếu năng lượng trường diễn.
2.2.6. Phương pháp xử lý số liệu
Bộ câu hỏi đã được điền thông tin sẽ được giám sát viên kiểm tra ngay
tại thực địa để đảm bảo các sai sót, hoặc nhầm lẫn sẽ được chỉnh sửa, bổ sung
kịp thời.
Số liệu được nhập vào chương trình EPI DATA, số liệu sẽ được mã hóa
trước khi nhập vào máy và sẽ kiểm tra lại số liệu bằng các bảng chéo, nếu có
sai sót sẽ chỉnh sửa để đảm bảo số liệu sạch trước khi phân tích. Số liệu sau
khi đã được làm sạch, sẽ được chuyển sang chương trình EPI INFO 6.04
(phần phân tích số liệu về dinh dưỡng EPINUT ANTHROPOMETRY).