BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------------
NGUYỄN HOÀNG HẢO
NGHI N CỨU ẢO T N QUẦN
TH M NG GU C CH N
(Artiodactyla) Ở KHU ẢO T N THI N NHI N VĂN H A Đ NG NAI, TỈNH Đ NG NAI
Chuyên ngành: Lâm sinh
Mã số: 62 62 02 05
T M TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LÂM NGHIỆP
HÀ NỘI, 2016
- Công trình được hoàn thành tại:
Trƣờng Đại học Lâm nghiệp - Việt Nam
- Người hướng dẫn Khoa học: PGS.TS Nguyễn uân Đặng.
- Phản biện 1:
TS. Đồng Thanh Hải
Đơn vị công tác: Trường Đại học Lâm nghiệp
- Phản biện 2:
TS. Lê Đức Minh
Đơn vị công tác: Trường Đại học Quốc gia Hà Nôi
Luận án đƣợc bảo vệ: Tại Hội đồng đánh giá luận án cấp cơ
sở họp tại Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
Vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 12 tháng 11 năm 2015
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn Luận án
Các loài thú móng guốc chẵn (MGC) có vai trò rất quan trọng trong các hệ
sinh thái tự nhiên. Chúng là vật tiêu thụ đầu tiên, chuyển hóa các chất dinh dưỡng
từ thực vật sang các chất dinh dưỡng động vật. Các loài thú MGC cũng có giá trị
kinh tế rất lớn.
Ở Việt Nam, đã ghi nhận được 19 loài thú MGC thuộc 12 giống và 5 họ.
Tuy nhiên, hiện nay khu hệ thú MGC của Việt Nam đã bị suy giảm mạnh cả về
phạm vi vùng cư trú và độ phong phú cá thể. Đã có 2 loài đã bị tuyệt chủng trong
thiên nhiên gồm Bò xám (Bos sauveli), Hươu sao (Cervus nippon) và 15 loài
đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau phải đưa Sách Đỏ Việt Nam.
Vì vậy, đối với Việt Nam, bảo tồn các loài thú MGC và sinh cảnh của chúng
đang là vấn đề hết sức cấp thiết.
Khu bảo tồn thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai (KBTTN-VN Đồng Nai)
được thành lập năm 2004, tổng diện tích là 100.304 ha với 67.904 ha đất lâm
nghiệp và 32.400 ha đất ngập nước hồ Trị An (trước 2012, có tên là Khu bảo
tồn thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu). Có địa hình khá bằng phẳng được che
phủ bởi thảm rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh và bán thường xanh, KBTTNVH Đồng Nai là nơi cư trú của 8 loài thú MGC. Khu hệ thú MGC ở đây còn rất
ít được nghiên cứu. Ngoài một số cuộc điều tra thống kê thành phần loài, chưa
có công trình nghiên cứu nào có tính hệ thống và chuyên sâu về sinh học, sinh
thái và bảo tồn các loài thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai được thực hiện.
Xuất phát từ sự cấp thiết phải bảo tồn và phát triển các loài thú MGC ở Việt
Nam nói chung và ở KBTTN-VH Đồng Nai nói riêng, tôi chọn thực hiện Luận án
“Nghiên cứu bảo tồn quần xã thú móng guốc chẵn (Artiodactyla) ở Khu bảo tồn
thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai, tỉnh Đồng Nai” nhằm cung cấp các thông tin và
tư liệu đầy đủ và cập nhật nhất về tình trạng quần thể các loài, đặc điểm sinh học,
sinh thái một số loài, các đe dọa đến quần thể và sinh cảnh của chúng để đề xuất các
giải pháp quản lý, bảo tồn phù hợp.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
Ý nghĩa khoa học: Luận án cung cấp các dẫn liệu khoa học về tình trạng
quần thể và đặc điểm sinh cảnh của các loài thú MGC trong hệ sinh thái rừng
3
nhiệt đới thường xanh và bán thường xanh đất thấp đặc trưng cho vùng Đông
Nam Bộ của Việt Nam và đặc điểm sinh học, sinh thái và bảo tồn của loài Cheo
cheo kanchil (Tragulus kanchil) có giá trị bảo tồn và kinh tế cao nhưng còn ít
được nghiên cứu.
Ý nghĩa thực tiễn: Các kết quả của Luận án là cơ sở khoa học quan trọng
để xây dựng các giải pháp quản lý, bảo tồn và phát triển các loài thú MGC ở
KBTTN-VH Đồng Nai nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Các giải pháp quản
lý, bảo tồn do Luận án đề xuất là những hướng dẫn cụ thể cho Ban Quản lý
KBTTN-VH Đồng Nai thực hiện các hoạt động quản lý, bảo tồn đa dạng sinh
học trong phạm vi KBTTN-VH Đồng Nai và có thể áp dụng cho Vườn Quốc
gia Cát Tiên và các Khu bảo tồn lân cận khác.
3. Đóng góp mới của luận án
Luận án đã cung cấp đủ số liệu khoa học tin cậy để khẳng định có 6 loài
thú MGC đang sinh sống tại KBTTN-VH Đồng Nai và 2 loài thú MGC có thể
không còn cư trú tại đây; đồng thời, cung cấp thông tin cập nhật và đầy đủ nhất
về hiện trạng quần thể của mỗi loài trong Khu bảo tồn.
Luận án đã xác định 4 dạng sinh cảnh chính cho thú MGC tại KBTTN-VH Đồng
Nai, mô tả chi tiết đặc điểm của mỗi dạng sinh cảnh, tình trạng sử dụng sinh cảnh của
mỗi loài thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai và xác định được 18 điểm sinh cảnh
đặc biệt quan trọng cho thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai; chỉ ra sự khác biệt
trong hình thức sử dụng sinh cảnh của mỗi loài.
Luận án là công trình đầu tiên xác định một cách có hệ thống và khoa học
vị trí phân loại của quần thể Cheo cheo tại KBTTN-VH Đồng Nai thuộc loài
Cheo cheo kanchil (Tragulus kanchil) thông qua các số liệu về hình thái ngoài,
hình thái sọ và trình tự ADN gen thể; cung cấp nhiều thông tin, tư liệu khoa học
mới về đặc điểm sinh học và sinh thái của quần thể Cheo cheo kanchil tại
KBTTN-VH Đồng Nai.
Luận án là công trình đầu tiên đưa ra các giải pháp quản lý, bảo tồn cụ thể
chi tiết cho từng loài thú MGC đang sinh sống trong KBTTN-VH Đồng Nai và
cải tạo sinh cảnh của chúng. Các giải pháp này cũng có giá trị sử dụng đối với
các quần thể thú MGC ở VQG Cát Tiên và các Khu bảo tồn khác của Việt
Nam.
4
Chƣơng 1:
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHI N CỨU
1.1. Khái quát về hệ thống phân loại thú MGC
1.1.1. Đặc điểm và hệ thống phân loại bộ móng guốc chẵn (Artiodactyla)
Thú MGC gồm các loài thú có kích thước cơ thể từ rất lớn tới trung bình,
các chân đều mang số ngón chẵn (2 hoặc 4 ngón) và có guốc. Thú MGC được
chia thành 2 nhóm: nhóm có sừng và nhóm không có sừng.
Thú MGC ăn thực vật và có dạ dày thích nghi với việc tiêu hóa chất
xenluloza thực vật. Trong dạ dày có hệ sinh vật và ký sinh trùng cộng sinh
phong phú giúp phân hủy xenluloza. Đa số các loài có đặc điểm nhai lại thức
ăn.
Theo Wilson et al. (2005), bộ móng guốc chẵn (Artiodactyla) trên thế giới
có khoảng 240 loài thuộc 89 giống và 10 họ.
1.1.2. Thành phần loài khu hệ thú MGC Việt Nam
Theo thống kê gần đây nhất của Đặng Ngọc Cần và cs. (2008), khu hệ thú
MGC ở Việt Nam có 19 loài thuộc 12 giống và 5 họ (Bảng 1.2). Trong đó, có 1
loài đã bị tuyệt chủng (Bò xám Bos sauveli), một loài đã bị tuyệt chủng trong
thiên nhiên (Hươu sao Cervus nippon) và một loài có vị trí phân loài chưa rõ
ràng (Lợn rừng trường sơn Sus bucculentus) (Groves et al. 2008).
Bảng 1.2: Thành phần loài thú MGC ở Việt Nam
TT
Tên Việt Nam
Tên khoa học
1. Họ Lợn
Suidae Gray, 1821
1.
Lợn rừng trường sơn
Sus bucculentus Heude, 1892
2.
Lợn rừng
Sus scrofa Linnaeus, 1758
2. Họ Cheo cheo
Tragulidae Milne-Edwards, 1864
3.
Cheo cheo kanchil
Tragulus kanchil (Raffles, 1821)
4.
Cheo cheo lưng bạc
Tragulus versicolor Thomas, 1910
3. Họ Hƣơu xạ
Moschidae Gray, 1821
Hươu xạ
Moschus berezovskii Flerov, 1929
4. Họ Hƣơu, Nai
Cervidae Goldfuss, 1820
Hươu vàng
Axis porcinus (Zimmermann, 1780)
5.
6.
5
TT
Tên Việt Nam
Tên khoa học
7.
Hươu sao
Cervus nippon Temminck, 1838
8.
Mang thường, hoẵng
Muntiacus muntjak (Zimmermann, 1780)
9.
Mang ruzơven
Muntiacus rooseveltorum Osgood, 1932
10. Mang trường sơn
Muntiacus truongsonensis (Giao et al., 1997)
11. Mang lớn
Muntiacus vuquangensis (Tuoc et al., 1994)
12. Nai cà tông
Rucervus eldii (Mclelland, 1842)
13. Nai đen
Rusa unicolor (Kerr, 1792)
5. Họ Trâu bò
Bovidae Gray, 1821
14. Bò tót
Bos frontalis Lambert, 1804
15. Bò rừng
Bos javanicus d’Alton, 1823
16. Bò xám
Bos sauveli Urbain, 1937
17. Trâu rừng
Bubalus bubalis (Linnaeus, 1758)
18. Sao la
Pseudoryx nghetinhensis Dung et al., 1993
19. Sơn dương
Capricornis milneedwardsii David, 1869
Ghi chú: hệ thống phân loại theo Wilson & Reeder 2005.
Hiện nay, vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu động vật về
hệ thống phân loại và thành phần loài Cheo cheo ở Việt Nam. Nhiều tác giả
(Van Peenen et al. 1969, Đặng Huy Huỳnh 1986, Corbet et al. 1992, Đặng Huy
Huỳnh và cs. 1994, Đặng Huy Huỳnh và cs. 2008,..) cho rằng ở Việt Nam chỉ
có một giống Cheo cheo (Tragulus) với 2 loài: Cheo cheo nam dương Tragulus
javanicus Osbeck, 1765 (tên đồng vật là Tragulus kanchil Gray, 1861) và Cheo
cheo napu hay Cheo cheo lớn Tragulus napu F. Cuvier, 1822 (Tên đồng vật là:
Tragulus versicolor Thomas 1910). Một số tác giả khác (Đặng Ngọc Cần và cs.
2008, Nguyễn Xuân Đặng và cs. 2009) lại cho rằng ở Việt Nam có 2 loài Cheo
cheo là: Tragulus kanchil và Tragulus versicolor.
Meijaard & Groves (2004) thẩm định lại hệ thống phân loại giống Cheo
cheo (Tragulus) dựa trên phân tích nhiều chỉ tiêu hình thái sọ. Theo hệ thống
phân loại này, Tragulus javanicus, Tragulus kanchil, Tragulus napu và
Tragulus versicolor là những loài độc lập.
Như vậy, theo Meijaard và Grove (2004), loài Tragulus javanicus không
có ở Việt Nam, thay vào đó là loài Tragulus kanchil và loài Tragulus napu
6
không có ở Việt Nam, thay vào đó là loài Tragulus versicolor.
Loài Tragulus kanchil có kích thước cơ thể lớn hơn loài Tragulus
versicolor và không có ở Nam Dương, vì vậy, tên tiếng Việt "Cheo cheo nam
dương" hay "Cheo cheo nhỏ " dùng cho loài này đều không phù hợp, Luận án
đề nghị dùng tên "Cheo cheo kanchil" thay thế.
Cheo cheo kanchil là loài thú quý, hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam,
2007 (bậc VU) và có giá trị kinh tế cao, nhưng còn rất ít được nghiên cứu về
sinh học, sinh thái. Vì vậy, Luận án đã nghiên cứu sâu về sinh học, sinh thái của
Cheo cheo kanchil làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các giải pháp quản lý,
bảo tồn hiệu quả và nhân nuôi phát triển loài thú quý, hiếm này.
1.2. Tình trạng bảo tồn của thú MGC
1.2.1. Tình trạng bảo tồn của thú MGC trên thế giới
Danh lục Đỏ IUCN (2015) đã thống kê có 8 loài thú MGC đã bị tuyệt
chủng và 122 loài khác đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau: 11
loài ở mức “rất nguy cấp – CR”, 40 loài ở mức “nguy cấp – EN”, 33 loài ở mức
“sẽ nguy cấp – VU”, 20 loài ở mức “gần bị đe dọa – LR, nt” và 18 loài ở mức
“thiếu dữ liệu – DD”.
1.2.2. Tình trạng bảo tồn của thú MGC ở Việt Nam
Trong số 19 loài thú MGC ghi nhận ở Việt Nam có tới 14 loài đang bị đe
dọa tuyệt chủng và đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (2007), chưa kể đến 3
loài rất hiếm trong tự nhiên nhưng chưa được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam là
Lợn rừng trường sơn (Sus bucculentus), Mang ruzơven (Muntiacus
rooseveltorum) và Mang pù hoạt (Muntiacus puhoatensis). Ba loài này đã được
đưa vào Danh lục Đỏ IUCN (2015) ở mức “thiếu dữ liệu – DD”. Đây là lời
cảnh báo khẩn cấp cho tình trạng bảo tồn của khu hệ thú MGC Việt Nam.
1.3. Một số đặc điểm sinh học, sinh thái và tập tính của thú MGC
1.3.1. Phân bố và sinh cảnh của thú MGC
Các loài thú MGC có phân bố rộng và thích nghi với rất nhiều dạng sinh
cảnh khác nhau trên trái đất. Ở Việt Nam các loài thú MGC sống và hoạt động
chủ yếu trong rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh và các trảng cỏ cây bụi trên núi
đất có bình độ thấp và ít dốc, một số loài sinh sống cả rừng trên núi đá, rừng
tràm và rừng ngập mặn. Các loài khác nhau thường có khu vực sống khác nhau
7
nhưng nhìn chung các loài thú MGC của Việt Nam không đòi hỏi khắt khe về
điều kiện sống.
1.3.2. Đặc điểm dinh dưỡng và thức ăn
Họ Lợn (Suidae) và họ Lợn Taya (Tayassuidae): ăn tạp, có dạ dày đơn
(một ngăn) và không nhai lại. Các loài thú MGC khác: chuyên ăn thực vật, có
dạ dày phức và ruột tịt nhỏ; sử dụng hệ vi sinh vật sống trong dạ dày để phân
hủy xenlulô và lignin; tất cả đều có tập tính nhai lại thức ăn. Họ Cheo cheo có
dạ dày 3 ngăn, các họ còn lại có dạ dày 4 ngăn. Đa số các loài thú MGC có nhu
cầu bổ sung khoáng chất ngoài thiên nhiên từ các điểm mỏ khoáng, gio cháy
của cây cỏ. Thú càng lớn như Bò tót, Bò rừng, Hươu, Nai nhu cầu bổ sung
muối khoáng càng cao, ngoại trừ các loài họ Lợn, nhu cầu thấp hơn vì ăn tạp.
1.3.3. Sinh sản
Hầu hết các loài chỉ sinh con mỗi năm một lứa, Lợn rừng có thể sinh 4-8
con mỗi lứa, các loài thú MGC khác thường chỉ sinh 1-2 con mỗi năm. Thời
gian mang thai từ 3-10 tháng. Chu kỳ động dục từ 20-30 ngày. Mùa sinh sản
thường trùng với thời gian bắt đầu sinh trưởng mạnh của thực vật.
1.3.4. Tập tính
Các loài họ Trâu bò hoạt động chủ yếu vào ban ngày nhất là sáng sớm và
chiều tà, các loài họ Hươu nai, họ Cheo cheo, họ Hươn xạ hoạt động chủ yếu
vào ban đêm, các loài họ Lợn hoạt động kiếm ăn cả ban ngày và ban đêm.
Rất ít loài MGC sống đơn lẻ, hầu hết các loài đều sống theo đàn, ngoại trừ
các loài Mang, Hươu xạ và Cheo cheo. Các loài thú MGC có các loại "vũ khí"
khác nhau để đấu tranh sinh tồn, chủ yếu là đấu tranh giữa các cá thể trong cùng
loài. Vũ khí của các loài Hươu nai và các loài Trâu bò là sừng, của các loài
Lợn, Cheo cheo là nanh.
1.4. Tình hình nghiên cứu thú MGC ở Vệt Nam và vùng nghiên cứu
1.4.1. Tình hình nghiên cứu thú MGC ở Việt Nam
Nghiên cứu thú MGC ở Việt Nam được bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 đầu thế
kỷ 20 cùng với lịch sử nghiên cứu thú (Mammalia) của Việt Nam. Các nghiên
cứu tập trung vào 2 hướng chính là: thống kê thành phần loài thú MGC ở các
vùng miền và nghiên cứu sinh học, sinh thái của một số loài có giá trị kinh tế
hoặc giá trị bảo tồn cao. Về thống kê thành phần loài có các công trình lớn như:
8
Van Peenen và cs. (1969), Đặng Huy Huỳnh và cs. (1981), Đào Văn Tiến
(1985), Đặng Huy Huỳnh và cs, Đặng Ngọc Cần và cs. (2008).
Nghiên cứu về sinh học, sinh thái và bảo tồn các loài thú MGC ở Việt
Nam không có nhiều, một số công trình nghiên cứu đáng chú ý nhất thuộc
hướng này có: Lê Hiền Hào (1973), Đặng Huy Huỳnh (1986), Đặng Huy Huỳnh
và cs. (2008, 2010).
Nhìn chung, đã có một số công trình nghiên cứu về sinh học, sinh thái của
một số loài thú MGC ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa nhiều và
đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác bảo tồn và sử dụng bền vững
các loài thú MGC nguy cấp, quý, hiếm và có giá trị kinh tế, bảo tồn ở Việt
Nam.
1.4.2. Tình hình nghiên cứu thú MGC ở vùng nghiên cứu và lân cận
Công tác nghiên cứu thú MGC ở KBTTN-VH Đồng Nai và vùng lân cận
mới chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát phát hiện thành phần loài và xác định các
đe dọa đối với các loài và sinh cảnh, các nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh
thái và bảo tồn của các loài thú MGC trong vùng nghiên cứu còn rất hạn chế,
trừ một số nghiên cứu về loài Bò tót. Đây là một trở ngại đáng kể cho công tác
quản lý, bảo tồn thú MGC trong KBTTN-VH Đồng Nai và vùng lân cận.
Chƣơng 2:
MỤC TI U, NỘI DUNG, Đ I TƢỢNG, PHẠM VI
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của Luận án là cung cấp dữ liệu khoa học làm cơ sở xây
dựng các giải pháp bảo tồn và phát triển quần thể các loài thú MGC ở KBTTNVH Đồng Nai.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra hiện trạng quần thể các loài thú MGC trong vùng nghiên cứu.
- Nghiên cứu đặc điểm sinh cảnh và sự phân bố theo sinh cảnh của thú
MGC trong vùng nghiên cứu.
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái của loài Cheo cheo kanchil có
giá trị bảo tồn cao trong vùng nghiên cứu.
9
- Điều tra các yếu tố tác động đến quần thể và sinh cảnh của các loài thú
MGC trong vùng nghiên cứu.
- Đề xuất các giải pháp quản lý bảo tồn các loài thú MGC trong vùng
nghiên cứu.
2.3. Đối tƣợng nghiên cứu: Tất cả các loài thú thuộc bộ Móng guốc chẵn
(Artiodactyla) cư trú trong vùng nghiên cứu.
2.4. Phạm vi nghiên cứu: Vùng lõi và vùng đệm KBTTN-VH Đồng Nai.
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp thu thập số liệu nghiên cứu
2.5.1.1. Phương pháp điều tra khảo sát hiện trạng quần thể thú MGC
Phỏng vấn người dân địa phương và cán bộ Khu bảo tồn; Thu thập thông
tin từ Kiểm lâm viên bằng phiếu điều tra; Điều tra theo tuyến; Điều tra theo
điểm; Giám định loài trên hiện trường.
2.5.1.2. Phương pháp nghiên cứu sinh cảnh của thú MGC
Điều tra theo các tuyến khảo sát điển hình; Điều tra theo các ô tiêu chuẩn.
2.5.1.3. Phương pháp điều tra, đánh giá các tác động đến quần thể và sinh
cảnh của các loài thú MGC
2.5.1.4. Phương pháp nghiên cứu sinh học, sinh thái Cheo cheo kanchil
Nghiên cứu trong các sinh cảnh tự nhiên của KBTTN-VH Đồng Nai;
Kiểm định phân loại của Cheo cheo kanchil; Nghiên cứu trong điều kiện
nuôi bán hoang dã; Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng; Nghiên cứu đặc
điểm sinh sản và sinh trưởng; Nghiên cứu tập tính hoạt động.
2.5.2. Phương pháp xử lý số liệu và xây dựng luận án
Áp dụng các phương pháp thống kê sinh học, tùy thuộc vào từng nội dung
nghiên cứu và dạng số liệu thu thập được để sử dụng phương pháp thống kê phù
hợp với câu hỏi nghiên cứu để đảm bảo các nhận định và đánh giá dựa trên kết
quả tính toán đều có độ tin cậy >95%.
Xử lý thống kê các số liệu bằng phần mềm PAST 2.17 và phần mềm Excel.
Sử dụng công nghệ chồng ghép bản đồ GIS để xây dựng các bản đồ chuyên đề.
10
Chƣơng 3:
KẾT QUẢ NGHI N CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài và hiện trạng quần thể các loài thú MGC ở KBTTNVH Đồng Nai
3.1.1. Thành phần các loài thú MGC ở KBTTN-VH Đồng Nai
Kết quả nghiên cứu của Luận án đã khẳng định sự hiện diện của 6 loài thú
MGC ở KBTTN-VH Đồng Nai, gồm Lợn rừng, Nai đen, Hoẵng, Cheo cheo
kanchil, Bò tót và Bò rừng (Bảng 3.1).
Bảng 3.1: Các loài thú MGC hiện còn sinh sống ở KBTTN-VH Đồng Nai
Tƣ liệu ghi nhận
TT
Tên VN
Tên khoa học
Quan sát Ảnh chụp Mẫu vật
(cá thể)
(ảnh)
(cá thể)
1
Lợn rừng
Sus scrofa
36
200
40
2
Nai đen
Rusa unicolor
11
100
6
3
Hoẵng
Muntiacus muntjak
4
35
3
4
Cheo cheo kanchil
Tragulus kanchil
202
500
80
5
Bò tót
Bos frontalis
96
185
7
6
Bò rừng
Bos javanicus
Dấu chân, tài liệu
Ngoài ra, còn 2 loài được các tác giả khác thông báo có ở KBTTN-VH
Đồng Nai là Sơn dương (Capricornis milneedwardsii) và Hươu vàng (Axis
porcinus). Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu của Luận án, không có thông
tin khẳng định nào về sự tồn tại của 2 loài này được tìm thấy. Có thể, 2 loài Sơn
dương và Hươu vàng không còn cư trú ở KBTTN-VH Đồng Nai hoặc với số
lượng cá thể không đáng kể, không có ý nghĩa trong hệ sinh thái.
3.1.2. Hiện trạng quần thể các loài thú MGC ở KBTTN-VH Đồng Nai
* Lợn rừng (Sus scrofa)
Trong thời gian nghiên cứu đã ghi nhận được 500 lượt cá thể. Trong đó,
trực tiếp quan sát được 8 đàn với tổng số 36 cá thể.
Kết quả điều tra lặp lại trên 45 tuyến cho thấy, trong mùa khô tần suất bắt
gặp Lợn rừng trên tuyến điều tra thấp hơn mùa mưa. (Hình 3.1).
11
Hình 3.1: Tần suất bắt gặp Lợn rừng trên tuyến trong các đợt điều tra
* Cheo cheo kanchil (Tragulus kanchil)
Kết quả nghiên cứu, đã ghi nhận được 202 cá thể. Trong đó, có 6 lần quan
sát trực tiếp được 13 cá thể. Kết quả điều tra lặp lại trên 45 tuyến qua các đợt
điều tra cho thấy, tần suất bắt gặp cá thể gián tiếp được thể hiện trong Hình 3.3.
Hình 3.3: Tần suất bắt gặp Cheo cheo kanchil trên tuyến trong các đợt điều tra
* Hoẵng (Muntiacus muntjak)
Trong quá trình điều tra khảo sát của Luận án, chỉ có 4 lần trực tiếp ghi
nhận được sự hiện diện của Hoẵng. Tuy nhiên, các dấu chân và phân của Hoẵng
được ghi nhận nhiều lần và tại nhiều khu vực khác nhau trong Khu bảo tồn.
* Nai đen (Rusa unicolor)
Kết quả điều tra, đã ghi nhận được 61 cá thể Nai đen. Trong đó, quan sát
trực tiếp được 6 đàn với tổng số 11 cá thể, mỗi đàn thường chỉ 1-2 cá thể, đàn
lớn nhất là 3 cá thể. Nai đen phân bố tập trung ở các khu vực gần các sông Mã
Đà, sông Bé, gần hồ Bà Hào và hồ Trị An, nhiều nhất là ở khu vực Phú Lý. Kết
quả điều tra lặp lại trên 45 tuyến, qua các đợt điều tra cho thấy mùa khô năm
2010 – 2011 không ghi nhận được loài Nai đen, mùa mưa năm 2010 và 2013
tần suất bắt gặp cá thể gián tiếp lần lượt là 0,06 và 0,07 cá thể/km (Hình 3.6).
12
Hình 3.6: Tần suất bắt gặp Nai đen trên tuyến trong các đợt điều tra
* Bò tót (Bos frontalis)
Trong quá trình khảo sát từ 2008 đến 2014, đã ghi nhận được từ 88 - 105
cá thể. Trong đó, quan sát trực tiếp được 26 đàn với tổng số 96 cá thể (đàn
nhiều nhất là 12 cá thể). Luận án đã xác định được trong KBTTN- VH Đồng
Nai có 06 vùng hoạt động của các đàn Bò tót. Kết quả tính toán tần suất bắt gặp
cá thể gián tiếp của các đợt điều tra lặp lại trên 45 tuyến của Bò tót được thể
hiện trong Hình 3.10.
Hình 3.10: Tần suất bắt gặp Bò tót trên tuyến trong các đợt điều tra
* ò rừng (Bos javanicus)
Dự án bò hoang dã Việt – Pháp (2005), Viện Sinh học Nhiệt đới (2011) đã
tiến hành khảo sát tại Bình Phước ghi nhận được một đàn khoảng 4 – 10 cá thể
cư trú ở khu rừng kinh tế Tân Lập, huyện Đồng Phú và ghi nhận đàn bò này
thỉnh thoảng qua lại kiếm ăn ở KBTTN-VH Đồng Nai.
Trong thời gian nghiên cứu, NCS không quan sát trực tiếp được Bò rừng ở
KBTTN-VH Đồng Nai, nhưng ghi nhận được một số dấu chân Bò rừng ở khu
vực Mã Đà, nơi giáp ranh với huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước vào tháng
3/2012.
13
3.2. Đặc điểm sinh cảnh của thú MGC ở KBTTN-VH Đồng Nai
3.2.1. Đặc điểm thảm thực vật rừng ở KBTTN-VH Đồng Nai
Áp dụng hệ thống phân loại rừng của Thái Văn Trừng (1999), KBTTN-VH
Đồng Nai có ba kiểu rừng chính sau: (1) Kiểu rừng kín thường xanh mưa nhiệt
đới (Rkx): chiếm 84,3% tổng diện tích, (2) Kiểu rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt
đới (Rkn): chiếm khoảng 15,0% tổng diện tích và (3) Kiểu rừng kín rụng lá hơi
ẩm nhiệt đới (Rkr): chiếm 0,7% tổng diện tích đất lâm nghiệp của KBTTN-VH
Đồng Nai.
3.2.2. Đặc điểm các dạng sinh cảnh của thú MGC ở KBTTN-VH Đồng Nai
Luận án đã dựa vào đặc điểm các kiểu thảm thực vật để chia diện tích đất
lâm nghiệp của KBTTN-VH Đồng Nai (67.904 ha) thành 4 dạng sinh cảnh
chính như sau (Bảng 3.3).
Bảng 3.3: Các dạng sinh cảnh chính của thú MGC ở KBTTN-VH Đồng Nai
Dạng sinh cảnh
Ký hiệu Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Sinh cảnh rừng cây gỗ thứ sinh
SC1
44.143
65,0
Sinh cảnh rừng hỗn giao cây gỗ tre nứa
SC2
8.099
11,9
Sinh cảnh rừng trồng, trảng cỏ cây
bụi và nương rẫy
SC3
9.047
13,3
Sinh cảnh đất ngập nước ven thủy
vực lớn (sông, suối, hồ)
SC4
6.615
9,7
67.904
100
Tổng cộng
3.3. Tình trạng sử dụng sinh cảnh của thú MGC ở KBTN-VH Đồng Nai
3.3.1. Hình thức và mức độ sử dụng các dạng sinh cảnh của các loài thú MGC
Các hình thức sử dụng sinh cảnh chính của thú MGC gồm: Nơi trú ẩn;
Kiếm ăn; Giao lưu; Nguồn nước. Kết quả nghiên cứu của Luận án cho thấy,
trong 4 dạng sinh cảnh chính ở KBTTN-VH Đồng Nai, có 2 sinh cảnh (SC1 và
SC2) các loài thú sử dụng cho cả 4 mục đích hoạt động sống. SC3 các loài chỉ
sử dụng cho mục đích kiếm ăn, giao lưu và nước uống. SC4 thú MGC chỉ sử
dụng cho mục đích uống nước và đằm mình.
Kết quả phân tích số liệu phiếu điều tra từ các trạm Kiêm lâm cũng cho
thấy, các loài thú MGC hoạt động chủ yếu ở các dạng sinh cảnh SC1 và SC2,
14
chúng cũng gặp ở sinh cảnh SC3 nhưng với tần suất thấp và rất ít gặp chúng ở
SC4 (Bảng 3.5).
Bảng 3.5: Tỷ lệ số phiếu ghi nhận các loài thú MGC theo sinh cảnh
Loài
Số
phiếu
Tỷ lệ % số phiếu ghi nhận theo sinh cảnh
SC1
SC2
SC3
SC4
1,3
Lợn rừng
238
66,4
25,6
6,7
Cheo cheo kanchil
27
70,4
14,8
14,8
Hoẵng
4
25,0
25,0
50,0
Nai đen
39
38,5
56,4
5,1
1.167
58,8
30,7
9,3
Bò tót
1,2
Kết quả điều tra lặp lại trên 45 tuyến, cho kết quả về tần suất bắt gặp cá
thể gián tiếp theo dạng sinh cảnh được nêu trong (Bảng 3.6).
Bảng 3.6: Kết quả điều tra lặp lại thú MGC trong các năm 2010 và 2013
SC1
(60,08 km)
SC2
(45,58km)
Cá Tần
thể suất*
Cá
thể
Tần Cá
suất* thể
Tần
suất*
Lợn rừng
179
0,99
81
0,59
19
0,23
Cheo cheo kanchil
23
0,13
1
0,01
Loài
Hoẵng
Nai đen
Bò tót
1
0,01
SC3
(26,98 km)
7
0,04
9
0,07
2
0,02
172
0,95
98
0,72
34
0,42
SC4
(2,11 km)
Cá Tần
thể suất*
4
0,63
Ghi chú: Tần suất*: Số cá thể ghi nhận gián tiếp/ số km khảo sát theo sinh
cảnh (cá thể/km).
Như vậy, tất cả các loài thú MGC đều sử dụng sinh cảnh SC1 và SC2,
chúng cũng sử dụng SC3 nhưng hạn chế hơn và rất ít gặp ở SC4. Điều này cũng
dễ hiểu, vì các sinh cảnh SC1 và SC2 có điều kiện sinh sống tốt hơn (có diện
tích lớn hơn các sinh cảnh khác, an toàn hơn, nguồn thức ăn giàu hơn và cũng
có đủ nguồn nước và nơi giao lưu).
3.3.2. Tình trạng sử dụng sinh cảnh của các loài thú MGC ở KBTTN-VH
Đồng Nai
Lợn rừng (Sus scrofa)
15
Có 238 phiếu điều tra từ các Kiểm lâm viên có ghi nhận về Lợn rừng và
giám sát theo tuyến ghi nhận được 279 cá thể. Kết quả phân tích các số liệu này
cho thấy, Lợn rừng gặp ở cả 4 dạng sinh cảnh ở KBTTN-VH Đồng Nai, nhưng
tập trung ở các dạng SC1, SC2, SC3, ít gặp hơn ở SC4 (Hình 3.17a,b).
Tỷ lệ phiếu ghi nhận Lợn rừng
7%
SC1
1%
SC2
SC3
SC4
26%
66%
(a)-Tỷ lệ phiếu ghi nhận (%)
(b)- Tần suất bắt gặp (cá thể/km)
Hình 3.17: Biểu đồ so sánh tần suất ghi nhận Lợn rừng trong các dạng sinh
cảnh
Cheo cheo kanchil (Tragulus kanchil)
Có 27 phiếu điều tra từ các Kiểm lâm viên, có ghi nhận Cheo cheo
kanchil và giám sát theo tuyến đã ghi nhận được 24 cá thể. Kết quả phân tích
các số liệu cho thấy, Cheo cheo kanchil gặp ở 3 dạng sinh cảnh, nhưng tập
trung ở SC1, nhưng không gặp ven các thủy vực lớn (SC4) (Hình 3.18a, b).
Tỷ lệ phiếu ghi nhận Cheo cheo
15%
0%
SC1
SC2
15%
Tần suất bắt gặp Cheo cheo
Tần suất
0,14
0,13
0,12
SC1
SC3
0,10
SC4
0,08
SC3
0,06
SC4
SC2
0,04
0,01
0,02
0,00
70%
0,00
0,00
SC1
SC2
SC3
SC4
Dạng sinh cảnh
(a)-Tỷ lệ phiếu ghi nhận
(%)
(b)- Tần suất bắt gặp (cá thể/km)
Hình 3.18: Biểu đồ so sánh tần suất ghi nhận Cheo cheo kanchil trong các
dạng sinh cảnh tại KBTTN-VH Đồng Nai
Hoẵng (Muntiacus muntjak)
Kết quả phân tích phiếu điều tra từ các Kiểm lâm viên cho thấy Hoẵng,
chỉ có 4 phiếu được ghi nhận, trong đó 50% ở sinh cảnh SC3, 25% ở sinh cảnh
SC2 và 25% ở sinh cảnh SC1, không ghi nhận được Hoẵng ở sinh cảnh SC4
16
(Hình 3.19a). Kết quả giám sát theo tuyến chỉ phát hiện được 1 cá thể Hoẵng tại
sinh cảnh SC2 (Hình 3.19b).
Tỷ lệ phiếu ghi nhận Hoẵng
0%
25%
SC1
SC2
50%
SC3
SC4
25%
a) Tỷ lệ phiếu ghi nhận (%)
(b)- Tần suất bắt gặp (cá thể/km)
Hình 3.19: Biểu đồ so sánh tần suất ghi nhận Hoẵng trong các dạng sinh cảnh
Việc ghi nhận Hoẵng rất hạn chế ở trên không phản ảnh đặc điểm phân bố
của loài ở KBTTN-VH Đồng Nai mà thể hiện tình trạng quần thể Hoẵng ở đây
đã bị săn bắn quá mức dẫn đến suy giảm nghiêm trọng về số lượng cá thể.
Nai đen (Rusa unicolor)
Có 39 phiếu điều tra từ các Kiểm lâm viên có ghi nhận về Nai đen và
giám sát theo tuyến ghi nhận được 18 cá thể. Phân tích số liệu phiếu điều tra
cho thấy, Nai đen gặp ở 3 dạng sinh cảnh (Hình 3.20a). Kết quả giám sát theo
tuyến cho thấy tần suất bắt gặp Nai đen ở 3 dạng sinh cảnh và cao nhất ở SC2
và không gặp ở SC4 (Hình 3.20b).
Tỷ lệ phiếu ghi nhận Nai đen
5%
0%
38%
SC1
SC2
57%
SC3
SC4
(a)-Tỷ lệ phiếu ghi nhận (%)
(b)- Tần suất bắt gặp (cá thể/km)
Hình 3.20: Biểu đồ so sánh tần suất ghi nhận Nai đen tại KBTTN-VH Đồng Nai
Cũng giống như Hoẵng, Nai đen ở KBTTN-VH Đông Nai đã bị săn bắt
quá mức, số lượng cá thể bị suy giảm nghiêm trọng.
Bò tót (Bos frontalis)
Kết quả phân tích cho thấy, Bò tót gặp ở cả 4 dạng sinh cảnh và phân bố
nhiều nhất ở sinh cảnh SC1 (59% số phiếu), tiếp đến là sinh cảnh SC2 (31% số
phiếu), CS3 (9% số phiếu) và thấp hơn ở SC4 (1% số phiếu) (Hình 3.21a). Điều
17
này phù hợp với đặc điểm rộng sinh cảnh và có vùng hoạt động rộng của loài.
Tỷ lệ phiếu ghi nhận Bò tót
1%
9%
SC1
SC2
SC3
SC4
31%
59%
(a)-Tỷ lệ phiếu ghi nhận (%)
(b)- Tần suất bắt gặp (cá thể/km)
Hình 3.21: Biểu đồ so sánh tần suất ghi nhận Bò tót trong các dạng sinh cảnh
Kết quả giám sát theo tuyến cũng cho thấy, tần suất bắt gặp cá thể gián tiếp
thấp nhất ở SC3 và cao dần theo các dạng SC4, SC2 và SC1 (Hình 3.21b).
3.3.3. Các điểm sinh cảnh đặc biệt quan trọng đối với thú MGC ở KBTTNVH Đồng Nai
Qua điều tra khảo sát, Luận án đã ghi nhận được trong KBTTN-VH Đồng Nai
có 4 điểm khoáng, 10 nguồn nước, 4 bãi kiếm ăn quan trọng của các loài thú MGC.
3.4. Đặc điểm sinh học, sinh thái Cheo cheo kanchil ở KBTTN-VH Đồng Nai
3.4.1 Kiểm định vị trí phân loại của quần thể Cheo cheo ở KBTTN-VH
Đồng Nai
Đặc điểm hình thái ngoài cơ thể
Kết quả phân tích so sánh, cho thấy phạm vi kích thước các số đo cơ thể
của Cheo cheo có nguồn gốc từ KBTTN-VH Đồng Nai trùng với phạm vi kích
thước của loài Tragulus kanchil và nhỏ hơn phạm vi kích thước cơ thể của loài
Tragulus napu. Sự khác biệt về hình thái ngoài giữa T. kanchil và T. versicolor
thể hiện chủ yếu ở màu sắc và các hoa văn trên bộ lông của chúng (Hình 3.23).
H2
H1
Hình 3.23: (H1) Bộ da của T. versicolor (trái) và T. kanchil (phải) (Nguồn:
18
Kuznetsov et al. 2004); (H2) Cheo cheo kanchil ở KBTTN-VH Đồng Nai
Các đặc điểm hình thái bộ lông của các mẫu vật Cheo cheo ở KBTTNVH Đồng Nai hoàn toàn trùng hợp với các đặc điểm đặc trưng của loài
Tragulus kanchil.
Đặc điểm hình thái sọ
Kết quả so sánh số đo 12 chỉ tiêu của 34 mẫu sọ Cheo cheo ở KBTTN-VH
Đồng Nai cho thấy không có sự sai khác với số đo mẫu sọ T. kanchil của Meijaard at
al. 2004, nhưng có sự khác biệt với các số đo sọ T.versicolor.
Trình tự ADN gen ty thể Cytochrome B
Kết quả cho thấy, trình tự AND gen ty thể của các mẫu vật Cheo cheo
tại KBTTN-VH Đồng Nai có mức tương đồng 94% với trình tự ADN của Cheo
cheo napu (Tragulus napu) và có mức tương động tới 98 và 99% với loài Cheo
cheo Kanchil (Tragulus kanchil). Như vậy, có thể khẳng định loài Cheo cheo
mà Luận án nghiên cứu tại KBTTN-VH Đồng Nai chính là loài Cheo cheo
kanchil (Tragulus kanchil).
3.4.2. Đặc điểm sử dụng sinh cảnh của Cheo cheo kanchil
Kết quả nghiên cứu cho thấy ở KBTTN-VH Đồng Nai, Cheo cheo
kanchil gặp ở 3 dạng sinh cảnh, không gặp ven các thủy vực lớn (SC4), tập
trung hơn ở SC1 (70,4% số phiếu ghi nhận, tần suất bắt gặp: 0,13 cá thể/km).
3.4.3. Đặc điểm dinh dưỡng của Cheo cheo kanchil
• Thành phần cây thức ăn và bộ phận cây thức ăn
Luận án đã xác định được 241 loài thực vật thuộc 65 họ là thành phần cây
thức ăn của Cheo cheo kanchil ở KBTTN-VH Đồng Nai. Dựa vào sự lựa chọn
ăn loài thực vật nào trước, loài nào hay ăn và ăn nhiều hơn Luận án đã xác định
được 74 loài cây Cheo cheo kanchil ưa thích ăn nhất. Trong đó: 34 loài ăn lá,
ngọn; 32 loài ăn lá, hoa, quả; 6 loài ăn củ và 2 loài ăn hạt.
• Lượng thức ăn tiêu thụ trong ngày
Nghiên cứu đã xác định được lượng thức ăn của Cheo cheo kanchil tiêu thụ
trong mùa khô thấp hơn mùa mưa, trung bình 786 g/ngày/cá thể mùa mưa và
569,1 g/ngày/cá thể mùa khô.
Lượng thức ăn thiêu thụ trong ngày của Cheo cheo kanchil chiếm 37,9%
khối lượng cơ thể vào mùa khô và 52,4% khối lượng cơ thể vào mùa mưa.
19
Tỷ lệ này hơi cao hơn so với số liệu các nghiên cứu khác. Có thể do trong
điều kiện nuôi, Cheo cheo kanchil được cung cấp đầy đủ thức ăn hơn nên tiêu
thụ nhiều hơn.
3.4.4. Đặc điểm sinh sản của Cheo cheo kanchil
• Sự khác biệt giới tính
Quan sát 167 cá thể Cheo cheo kanchil, không phát hiện có sự khác nhau
rõ ràng về hình dạng cơ thể và màu sắc lông. Kết quả đo kích thước cơ thể của
08 cá thể cái và 05 cá thể đực, cũng không thể hiện rõ sự khác biệt giới tính của
loài.
Nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước và trên thế giới cũng cho rằng
không có sự khác biệt giới tính ở Cheo cheo kanchil đực và cái.
• Tuổi thành thục sinh dục
Chưa có tác giả nào cung cấp số liệu về tuổi thành thục sinh dục của Cheo
cheo kanchil ở Việt Nam. Vào tháng 6/2009, có 3 cá thể cái Cheo cheo kanchil
1 tháng tuổi được đưa vào nuôi tại Trung tâm cứu hộ của KBTTN-VH Đồng
Nai. Đến tháng 7/2011, các cá thể này sinh con lứa đầu. Như vậy, tuổi thành
thục sinh sản của Cheo cheo kanchil khoảng 2 năm tuổi.
• Tranh giành con cái và giao phối
Hoạt động đánh nhau, tranh giành Cheo cheo kanchil cái thường xảy ra
vào khoảng thời gian từ 7 giờ sáng đến 14 giờ chiều. Hoạt động giao phối của
Cheo cheo kanchil xảy ra vào mùa khô (tháng 2) và mùa mưa (tháng 7, tháng 8)
với tần suất giao phối cao nhất vào tháng 8. Thời gian xảy ra giao phối, tập
trung từ 15 giờ đến 18 giờ. Cheo cheo kanchil giao phối ở tư thế con đực nằm
trên lưng con cái, thời gian giao phối khoảng 3 – 5 phút.
• Mùa sinh sản
Kết quả theo dõi 3 năm trong điều kiện nuôi bán hoang dã đã ghi nhận
được 31 lần Cheo cheo kanchil sinh con với tổng số 35 con non. Tỷ lệ con non
được sinh ra phát triển khỏe mạnh chiếm 82,86 %. Trong điều kiện nuôi bán
hoang dã, Cheo cheo kanchil sinh sản ở hầu hết các tháng trong năm, tập trung
nhiều vào các tháng 5 và 6. Tháng 2 và tháng 9 không có cá thể cái nào sinh
sản. Điều này, có thể do thời tiết bất lợi vào tháng 2 là tháng nắng nóng nhất
của mùa khô và tháng 9 là tháng mưa nhiều nhất của mùa mưa.
20
• Thời gian mang thai, tỷ lệ cá thể cái sinh con và phát triển thai
Qua theo dõi trong điều kiện nuôi bán hoang dã, đã xác định thời gian
mang thai của loài Cheo cheo kanchil ở KBTTN-VH Đồng Nai vào khoảng 125
– 150 ngày. Tỷ lệ Cheo cheo kanchil cái sinh con năm 2010, đạt 50% số lượng
con cái ở tuổi sinh sản, năm 2011 đạt 68,18% và năm 2012 đạt 56,36%. Cheo
cheo kanchil sinh sản mỗi năm 01 lần và mỗi lứa 01 con.
• Chăm sóc con và sinh trưởng của con non
Chỉ có Cheo cheo kanchil mẹ chăm sóc con. Cheo cheo kanchil đực
không tham gia vào việc nuôi dưỡng chăm sóc con.
Trong khoảng 2 tuần đầu, Cheo cheo kanchil con chủ yếu nằm ngủ và bú
mẹ, cứ 1-2 giờ chúng bú mẹ một lần, mỗi lần khoảng 5-10 phút. Cheo cheo
kanchil mẹ thường đi kiếm ăn và về cho con bú giữa các lần kiếm ăn. Sau
khoảng 2 – 3 tuần tuổi, Cheo cheo kanchil con bắt đầu kiếm ăn ngoài và vẫn còn
bú sữa. Trên 3 tháng tuổi, Cheo cheo kanchil con thôi bú mẹ và tự kiếm ăn độc
lập.
Cheo cheo kanchil sơ sinh có khối lượng trung bình 0,18 kg và dài thânđầu là 22,5 cm, sau 3 tháng tuổi khối lượng đạt 0,45kg (tăng 2,5 lần), dài thânđầu đạt 34 cm (tăng 1,5 lần). Sau đó Cheo cheo kanchil tăng trưởng chậm cho
đến khi trưởng thành.
3.4.5. Tập tính hoạt động
• Hoạt động kiếm ăn
Trong điều kiện nuôi bán hoang dã, hoạt động kiếm ăn của Cheo cheo
kanchil diễn ra ở hầu hết các giờ trong ngày nhưng nhiều hơn vào sáng sớm và
chiều tối, ít hơn vào 9 giờ sáng đến 15 giờ chiều, đây là khoảng thời gian Cheo
cheo kanchil nghỉ ngơi để nhai lại thức ăn. Hoạt động kiếm ăn trong mùa khô
thấp hơn mùa mưa.
• Uống nước
Hoạt động uống nước của Cheo cheo kanchil diễn ra nhiều lần và vào nhiều
quảng thời gian khác nhau trong ngày. Số lần uống nước vào mùa khô nhiều gấp
1,75 đến 2,87 lần so với mùa mưa. Số lần uống nước ban ngày nhiều hơn ban
đêm và cao nhất vào thời gian từ 10h đến 18h (Hình 3.32). Như vậy, rõ ràng số
lần uống nước phụ thuộc vào nhiệt độ thời tiết trong ngày và theo mùa.
21
Hình 3.32: (trái) Biểu đồ so sánh tỷ lệ % số lần uống nƣớc trong các giờ
trong ngày và (phải) Cheo cheo kanchil uống nƣớc từ máng, bên cạnh là
viên đá liếm khoáng
• Nhu cầu muối khoáng
Trong thiên nhiên, Cheo cheo kanchil thường hay đến các điểm suối hoặc
hố nước giàu khoáng để uống hoặc liếm đất bổ sung khoáng cho cơ thể. Trong
khu nuôi cứu hộ của KBTTN-VH Đồng Nai, quan sát cho thấy, một ngày Cheo
cheo kanchil thường đến liếm khoáng khoảng 5 – 10 lần trong khi ăn thức ăn.
• Vận động đi lại
Kết quả nghiên cứu cho thấy, vào mùa mưa hoạt động vận động đi lại của
Cheo cheo kanchil diễn ra cao hơn mùa khô 1,7 đến 2,6 lần và diễn ra tương đối
đều trong các quảng thời gian trong ngày. Vào mùa khô, Cheo cheo kanchil vận
động ít hơn và tập trung vào khoảng 7h sáng đến 18h tối. Nhìn chung, cho cả
hai mùa Cheo cheo kanchil hoạt động vận động nhiều hơn vào thời gian từ 6h
sáng đến 18h tối.
• Nghỉ ngơi và nhai lại
Sau khi ăn no chúng đứng hoặc nằm nghỉ dưới bóng mát hoặc trong hốc
cây, nhà trú. Trong thời gian nghỉ ngơi, Cheo cheo kanchil thường kết hợp liếm
lông, nhai lại thức ăn và quan sát xung quanh. Hoạt động nghỉ ngơi và nhai lại
của Cheo cheo kanchil trong mùa mưa thường diễn ra trong khoảng từ 1 – 6h và
19 – 24h, trong mùa khô từ 7h sáng đến 15h chiều.
• Bài tiết phân
Cheo cheo kanchil bài tiết phân nhiều lần trong ngày. Chúng bài tiết phân
vào một nơi cố định trong vài ngày liên tục, cho đến khi lượng phân đủ nhiều
chúng mới chuyển đi nơi khác. Điều đó cho thấy Cheo cheo kanchil là loài sống
định cư nhiều ngày tại một vùng sống nhất định. Khi bài tiết, chúng đứng ở tư
thế hai chi trước thẳng, hai chi sau dạng ra và hơi chùng xuống.
22
3.5.2. Tình trạng quản lý bảo tồn thú MGC hiện nay ở KBTTN-VH Đồng Nai
Trong thời gian qua KBTTN-VH Đồng Nai đã thực hiện tốt công tác
quản lý, bảo vệ rừng; ý thức bảo vệ rừng của cộng đồng dân cư sống trong và
xung quanh KBTTN-VH Đồng Nai ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, trong KBTTN-VH Đồng Nai, còn nhiều cụm dân cư sinh
sống, đa phần người dân còn có cuộc sống khó khăn và còn phải lệ thuộc vào
tài nguyên rừng, tình trạng săn, bắt động vật rừng, tàn phá sinh cảnh, chăn thả
gia súc trong rừng,… vẫn còn xảy ra. Do thiếu thông tin về loài, dẫn đến tình
trạng quy hoạch thiếu hoặc sai vùng bảo tồn thích hợp hay chưa có được sự lựa
chọn và đưa ra các giải pháp ưu tiên để quản lý, bảo tồn kịp thời và hiệu quả.
3.5.3. Các áp lực đối với bảo tồn thú MGC và sinh cảnh của chúng ở
KBTTN-VH Đồng Nai
Luận án đã xác định các loại đe dọa và mức độ nghiêm trọng của chúng
như sau (sắp xếp theo mức độ nghiêm trọng từ cao đến thấp): 1) Săn bắt động
vật hoang dã, 2) Thu hái lâm sản ngoài gỗ, 3) Xâm lấn của các loài ngoại lai, 4)
Chăn thả gia súc bên trong Khu bảo tồn, 5) Cháy rừng, 6) Xâm lấn đất rừng làm
đất nông nghiệp và tàn phá sinh cảnh, 7) Khai thác gỗ trái phép và 8) Xây dựng
cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế bên trong Khu bảo tồn. Các tác động nghiêm
trọng nhất là: Săn bắt động vật hoang dã; Thu hái lâm sản ngoài gỗ; Xâm lấn
của các loài ngoại lai; Chăn thả gia súc bên trong KBTTN-VH Đồng Nai.
3.5.4. Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý bảo tồn thú MGC tại
KBTTN-VH Đồng Nai
3.5.4.1. Đinh hướng giải pháp bảo tồn cho từng loài thú MGC
Bảo tồn Bò tót (Bos frontalis)
- Tăng cường tuần tra rừng tới tất cả các tiểu khu, đặc biệt là các tiểu khu
có Bò tót phân bố tập trung để kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi săn
bắt động vật rừng, phá hoại và quấy nhiễu sinh cảnh của Bò tót.
- Thực hiện cải tạo sinh cảnh cho Bò tót và các loài thú MGC khác ở các
trảng cỏ và bàu nước quan trọng. Tạo thêm các điểm muối khoáng nhân tạo
trong vùng hoạt động của Bò tót để cung cấp khoáng chất cho loài.
- Thực hiện chương trình giám sát thường xuyên quần thể Bò tót, nhằm xác
định sự thay đổi vùng hoạt động của Bò tót theo mùa và theo năm.
23
- Thực hiện công tác bảo tồn và khai thác nguồn gen của loài Bò tót bằng
hoạt động di dời đàn Bò tót từ huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước về nhân nuôi
bán hoang dã tại KBTTN- VH Đồng Nai.
Bò rừng (Bos javanicus)
Bò rừng không thường xuyên sinh sống trong KBTTN-VH Đồng Nai mà
ở các khu rừng lân cận Khu bảo tồn. Vì vậy, cần có các biện pháp tác động tạo
điều kiện thuận lợi cho các đàn Bò rừng này di chuyển về sinh sống tại
KBTTN-VH Đồng Nai.
Các biện pháp cần thực hiện sớm như: UBND tỉnh Đồng Nai cần sớm
thực hiện dự án sắp xếp ổn định dân cư 2 xã Mã Đà và Hiếu Liêm ra ngoài
vùng lõi của Khu bảo tồn. Thanh lý các hợp đồng giao khoán đất để triển khai
thực hiện chương trình cải tạo sinh cảnh khu vực trảng Bò, trảng Min.
Nai đen (Rusa unicolor) và Hoẵng (Muntiacus munjak):
Để phục hồi và phát triển các quần thể Nai đen và Hoẵng trong KBTTNVH Đồng Nai cần ngăn chặn tình trạng săn bắt động vật hoang dã và phá hoại,
quấy nhiễu sinh cảnh của chúng, đặc biệt là chăn thả gia súc tự do trong Khu
bảo tồn. Các hoạt động bảo tồn Nai đen và Hoẵng tương tự như các hoạt động
bảo tồn Bò tót và có thể lồng ghép với nhau.
Cheo cheo kanchil (Tragulus kanchil)
Quần thể Cheo cheo kanchil ở KBTTN-VH Đồng Nai là khá lớn hoàn
toàn có thể tự phát triển bền vững nếu được bảo vệ tốt. Vì vậy, công tác bảo tồn
Cheo cheo kanchil cần tập trung vào ngăn chặn tình trạng săn bắt, tăng cường
kiểm tra tháo gỡ bẫy, đú và kiểm soát sự quấy nhiễu sinh cảnh, tổ chức các hoạt
động gây nuôi sinh sản Cheo cheo kanchil cho mục đích kinh tế.
Lợn rừng (Sus scrofa)
Lợn rừng khá phổ biến ở KBTTN-VH Đồng Nai. Lợn rừng sinh sản và phát
triển nhanh, nên công việc cần làm để bảo tồn quần thể Lợn rừng là kiểm soát tình
trạng săn bắt động vật hoang dã trong Khu bảo tồn, tổ chức các trang trạng nuôi
lợn rừng để phát triển kinh tế địa phương.
3.5.4.2. Thực hiện chương trình giám sát các loài thú MGC
Mục đích của chương trình giám sát nhằm xác định xu thế biến đổi của
các quần thể thú MGC và các nguyên nhân gây ra sự biến đổi đó làm cơ sở để
điều chính các giải pháp quản lý bảo tồn loài cho phù hợp.
Các chỉ thị giám sát mỗi loài gồm sự bắt gặp trực tiếp loài trong thiên
24
nhiên và các dấu vết hoạt động của chúng (dấu chân, phân, vết ăn, cọ mình).
Các tác động đến quần thể và sinh cảnh của thú MGC.
Sử dụng hệ thống tuyến điều tra lặp lại và hệ thống điểm điều tra của
Luận án đã được thực hiện trên toàn bộ diện tích KBTTN-VH Đồng Nai. Áp
dụng các phương pháp điều tra, hệ thống biểu mẫu và phương pháp tính toán số
liệu của Luận án để áp dụng thực hiện chương trình giám sát.
3.5.4.3. Các giải pháp hành chính
- Tăng cường tuần tra, kiểm soát trên toàn địa bàn KBTTN-VH Đồng Nai
và vùng giáp ranh.
- Thảo luận với cộng đồng và ký thỏa thuận không thả rông gia súc nhằm
giảm những tác động tiêu cực đến thú hoang dã. Tuyên truyền nâng cao nhận
thức của người dân địa phương về tầm quan trọng của rừng và đa dạng sinh
học; về các quy định bảo vệ rừng và động vật hoang dã.
- Di dời, sắp xếp ổn định dân cư đang sinh sống trong vùng lõi KBTTN-VH
Đồng Nai ra ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bảo tồn tài nguyên đa
dạng sinh học trong vùng lõi KBTTN-VH Đồng Nai. Xây dựng và thực hiện dự án
vùng đệm nhằm nâng cao đời sống vật chất của nhân dân địa phương.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo tồn đa dạng sinh học.
KẾT LUẬN, T N TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Thần phần loài và tình trạng quần thể thú MGC ở K TTN-VH Đồng Nai
Đã ghi nhận được 8 loài thú MGC, trong đó có 2 loài có thể không còn cư
trú ở KBTTN-VH Đồng Nai là Sơn dương và Hươu vàng; 6 loài hiện còn sinh
sống trong KBTTN-VH Đồng Nai gồm: Lợn rừng, Nai đen, Hoẵng, Cheo cheo
kanchil, Bò tót và Bò rừng.
Có 4 loài được ưu tiên bảo tồn, gồm 4 loài thuộc Sách Đỏ Việt Nam
(2007), 3 loài thuộc Danh lục Đỏ IUCN (2015), 3 loài thuộc Nghị định
32/2006/NĐ-CP (2006) và 2 loài thuộc Nghị định 160/2013/NĐ-CP (2013).
1.2. Sinh cảnh và sử dụng sinh cảnh của MGC ở K TTN-VH Đồng Nai
Luận án đã xác định được 4 dạng sinh cảnh chính cho thú MGC. Các loài
thú MGC sử dụng 2 dạng sinh cảnh (SC1, SC2) cho cả 4 mục đích (kiếm ăn, trú
ẩn, giao lưu, nguồn nước); sinh cảnh 3 (SC3) chỉ sử dụng cho mục đích kiếm ăn,
25