LỜI MỞ ĐẦU
Nông thôn Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi cung
cấp và hậu thuẫn đắc lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp. Tuy nhiên,
nguồn lao động này vẫn còn ít cơ hội để phát huy khả năng cống hiến của mình
cho sự phát triển nông thôn. Đây là thách thức đối với chính lao động nông thôn
và các nhà hoạch định chính sách.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009, 70% dân số nước ta đang sống
ở khu vực nông thôn, lao động nông thôn hiện chiếm 75% tổng lực lượng lao
động cả nước và chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, năng
suất lao động thấp, phương thức sản xuất lạc hậu, hiệu quả sản xuất không cao.
Hiện lao động có việc làm và kỹ năng chuyên môn chỉ chiếm 16,8%, còn lại
83,2% là lao động chưa qua đào tạo, chưa có trình độ kỹ thuật chuyên môn.
Thêm vào đó, hầu hết các thị trường lao động vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các
tỉnh, thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất và ở ba vùng kinh tế
trọng điểm. Ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, thị trường lao động lại chưa
phát triển nên dẫn đến thực trạng là nơi thừa, nơi thiếu lao động. Đây cũng chính
là hạn chế lớn nhất của lao động nông thôn làm cho việc khai thác nguồn nhân
lục ở đây vẫn còn yếu kém. Ngoài ra, lề lối làm ăn trong ngành nông nghiệp
truyền thống và tình trạng ruộng đất manh mún, nhỏ lẻ như hiện nay đã hạn chế
tính chủ động sang tạo của người nông dân trong sản xuất, kinh doanh cũng như
khả năng tiếp cận thị trường của người lao động. Có thể thấy, cung lao động
nông thôn dồi dào nhưng chất lương chưa cao cả về văn hoá, kỹ năng chuyên
môn cũng như hiểu biết về pháp luật, kỹ năng sống.
Phát triển nông thôn bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
chủ trương lớn của nước ta, nhằm nhấn mạnh đến việc sử dụng các nguồn nhân
lực một cách hiệu quả để thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Do vậy, các
chính sách phát triển nông thôn cần được xây dựng và thực hiện trên cơ sở kết
hợp hài hoà và hợp lý giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường một cách hài hoà.
Giải pháp cấp bách và là ưu tiên số một hiện nay là đào tạo nghề cho lao
đông nông thôn, họ cần có trình độ chuyên môn và cập nhật kiên thức để đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó, lao động trẻ nông
thôn hiện nay không chỉ thiếu kiến thức chuyên môn mà kiến thức xã hội, giao
tiếp cộng đồng, phát triển bản thân còn nhiều khiếm khuyết. Ở họ dạy nghề thôi
chưa đủ mà cần đưa cả kỹ năng sống vào giảng dạy.
Công tác dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu. Bên cạnh đó, năng lực hệ thống các trường đào tạo và dạy nghề còn
nhiều hạn chế. Mạng lưới cơ sở dạy nghề nói chung tuy đã phát triển nhưng lại
tập trung chủ yếu ở vùng đô thị. Ở khu vực nông thôn và miền núi, vùng sâu
1
vùng xa, số lượng cơ sở dạy nghề rất ít. Ngoài ra, các cán bộ quản lý dạy nghề ở
một số cơ sở dạy nghề chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, thiếu kinh
nghiệm quản lý.
Công nghiệp hoá nông thôn là chủ trương xây dựng nông thôn Việt Nam
phát triển bền vững và thu hẹp khoảng cách khác biệt giữa nông thôn và thành
thị. Vì vậy, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lao động nông thôn, tạo cơ hội
để lao động tiếp cận được thị trường và có việc làm ổn định, tăng thu nhập cũng
là một trong các cách góp phần làm cho nông thôn ngày càng đổi mới và phát
triển. Vì tính cấp bách và tầm quan trọng của của công tác này đã tạo cho em
niềm say mê hứng thú đi sâu vào tìm hiểu và nghiên cứu. Đồng thời có sự hướng
dẫn và những ý kiến đóng góp quý báu của cô giáo cùng với sự giúp đỡ của cán
bộ Sở lao động thương binh và xã hội đã giúp em hoàn thành Báo cáo thực tập
tốt nghiệp đề tài: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Tỉnh Lạng Sơn”.
Kết cấu chuyền đề gồm 2 phần:
Phần I: Khái quát chung về đơn vị thực tập & tổ chức công tác quẩn trị
nhân lực.
Phần II: Đề tài nghiên cứu chuyền sâu: “ Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn ở Tỉnh Lạng Sơn”.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế nên bài báo cáo tôt nghiệp còn nhiều
hạn chế, không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự giúp đỡ, góp ý
của các thầy, cô giáo và các độc giả.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
PHẦN I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP & TỔ CHỨC
CÔNG TÁC QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TẠI SỞ LAO ĐỘNG - THƯƠNG
BINH VÀ XÃ HỘI TỈNH LẠNG SƠN.
1.1. Tổng quan về Sở Lao động – Thương binh và xã hội Tỉnh Lạng
Sơn:
1.1.1. Tóm lược quá trình hình thành và phát triển:
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Tỉnh Lạng Sơn được hợp nhất hai
ngành Sở Lao Động và Sở Thương binh Xã hội ngày 7/12/1987, do Uỷ Ban
nhân dân tỉnh Lạng Sơn ra quyết định số 517/UB-QĐ-TC.
Địa chỉ: Số 409 Bà Triệu, P. Đông Kinh, Tp Lạng Sơn, Tinh Lạng Sơn.
Giám đốc: Nông Thanh Bình.
Đơn vị quản lý: Uỷ ban nhân dân Lạng Sơn.
Điện thoại: (025) 3.8114.615.
Fax: (025) 3.870.287.
Email:
Website: />Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Lạng Sơn tiền thân là hai sở
Lao đông và Sở Thương binh Xã hội hợp thành, quá trình hình thành và phát
triển của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội gắn liền với sự hình thành và
phát triển của hai sở Lao động và Sở thương binh Xã hội.
Ngày 28/08/1945, Chủ Tịch Hồ Chí Minh ký thông báo thành lập 13 Bộ
của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Trong đó Bộ Lao
động và Bộ Cứu tế Xã hội, tiền thân của Bộ Lao Động – Thương binh và Xã hội
ngày nay..
Trong cuộc cách mạng kháng chiến chống Pháp (1946- 1954) ngày càng
diễn ra cam go, quyết liệt, nhiều hi sinh mất mát do chiến tranh ngày càng lan
rộng khắp cả nước. Những vấn đề thương binh, liệt sỹ ngày càng đòi hỏi phải có
các chủ trương, chính sách đúng đắn về chế độ ưu đãi. Trước tình hình đó ngày
19/07/1947, Hội đồng Chính Phủ ra quyết định thành lập Bộ Thương binh – Cựu
binh, đồng thời vào ngày 03/10/1947 Chủ tich Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số
10/SL thành lập sở và Ty Thương binh – Cựu binh trực thuộc Bộ Thương binh –
Cựu binh ở các tỉnh, để tạo điều kiện về pháp lý cho hoạt động của ngành Lao
động – Thương binh và Xã hội. Bộ máy ngành Lao động – Thương binh và Xã
hội Lạng Sơn trong giai đoạn 1947- 1950 gồm 2 bộ phận: Phòng Lao động và
Ty Thương binh – Cựu Binh. Phòng Lao động Lạng Sơn do một cán bộ uỷ viên
Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh phụ trách (đến năm 1949 do đồng chí Chu
Quế Lâm phụ trách phòng Lao động), Phòng trực thuộc Ty lao động Liên khu
Việt Bắc. Số lượng cán bộ Phòng Lao động khoảng từ 2 đến 3 người.Ty Thương
3
binh – Cựu binh Lạng Sơn trực thuộc Sở Thương binh và Cựu binh Liên khu I
(Việt Bắc), đầu tiên chỉ có 3 người do Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh
kiêm nghiệm.
Ngày 3/4 /1948, Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh Lạng Sơn ra quyết
định bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Tuất làm Trưởng Ty Thương binh – Cựu binh.
Đến ngày 11/04/1949, “ trong tổng số cán bộ - viên chức các cơ quan thuộc Uỷ
ban Kháng chiến hành chính tỉnh thì Ty Thương binh – Cựu binh có 6 cán bộ
viên chức”. Dù mới thành lập, cơ cấu tổ chức còn đơn giản, số lượng ít nhưng
ngành Lao động – Cựu binh Lạng Sơn từ những ngày đầu toàn quốc kháng
chiến đến khi tỉnh nhà hoàn toàn giải phóng đã có những đóng góp quan trọng
vào thắng lợi chung mà Đảng bộ và nhân dân Lạng Sơn giành được trong những
năm đầu của cuộc kháng chiến lâu dài, gian nan và anh dũng tuyệt vời, chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Tháng 6/1947, tại xã Phù Ninh huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã diễn ra
hội nghị quan trọng, chọn ngày thương binh để đồng bào cả nước tỏ lòng hiếu
nghĩa bác ái đối với thương binh – tử sĩ. Hội nghị nhất trí chọn ngày 27/7 hàng
năm làm ngày thương binh toàn quốc.
Sau giải phóng được kiện toàn thêm một bước và có điều kiện thuận lợi hơn
trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của ngành. Văn phòng Ty Thương binh
– Cựu binh gồm các bộ phận: Văn thư, kế toán, quản lý công tác trại, vận động
nhân dân.địa điểm đặt tại Huyện Thoát Lãng.
Trong giai đoạn 1955- 1960 có 4 bộ thực hiện nhiệm vụ Lao động –
Thương binh và xã hội : Bộ Lao động, Bộ Thương binh – Cựu binh, Bộ Nội vụ
và Bộ Cứu tế xã hội. Từ Tháng 4/1959, Bộ Cứu tế xã hội giải thể, Bộ Lao động
đảm nhân công tác bảo hiểm xã hội, cải tạo tệ nạn xã hội.
Tại Lạng Sơn, công tác lao động, thương binh và xã hội do hai cơ quan đảm
nhiệm là Phòng Lao động tỉnh và Ty Thương binh – Cựu binh tỉnh. Từ cuối năm
1959, sau khi Bộ Thương binh – Cựu binh giải thể, công tác Thương binh liệt sỹ
giao cho bộ nội vụ phụ trách thì Ty Thương binh – Cựu binh tỉnh đổi thành Ban
Thương binh – Xã hội tỉnh. Phụ trách Phòng Lao động và Ban Thương binh –
Xã hội do các đồng chí uỷ viên Uỷ ban hành chính tỉnh đảm nhận. Tổ chức bộ
máy ngành lúc này vấn đơn giản và cán bộ viên chức còn ít. Ở các huyện cũng
chỉ có 1 đến 2 cán bộ kiêm nhiệm. Trong khi đó, khối lượng công việc của
ngành phải gánh vác lại nhiều và có phần phức tạp hơn thời kỳ kháng chiến
chống Pháp.
Ngày 27/7/1955, Chính Phủ quyết định đổi “ ngày Thương binh toàn quốc”
thành ngày Thương binh – Liệt sỹ.
Căn cứ theo Nghị định số 172/CP và Nghị định số 05/NĐ-LĐ, bộ máy
ngành Lao động Lạng Sơn có thay đổi mới: Phòng Lao động chuyển thành Ty
Lao động với số lượng cán bộ từ 13-14 người, ở thị xã và một số huyện đã có bộ
4
phận phụ trách lao động nằm trong Phòng Tổ chức và Lao động do Uỷ ban
chính huyện, thị xã quản lý. Năm 1961, đồng chí Trần Quốc Vọng được bổ
nhiệm là Trưởng ty Lao động.
Bước vào giai đoạn mới, công tác Lao động – Thương binh và Xã hội có
những thay đổi mới về cơ cấu tổ chức bộ máy cũng như các chính sách và thực
hiện chính sách. Các Ban Thương binh – Xã hội ở tỉnh Lạng Sơn được đổi
thành Ty Thương binh Xã hội. Hệ thống quản lý của ngành Lao động và ngành
Thương binh Xã hội được củng cố xuống tận đơn vị cơ sở là cấp huyện và ổn
định cho đến khi hợp nhất 2 Bộ thành Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
( tháng 2/1987).
Từ 1982, Ty Lao động đổi thành Sở Lao động do đồng chí Hoàng Văn Giai
làm Giám đốc. Tháng 10/1985, đồng chí Nguyễn Đình Luyện làm giám đốc, phó
giám đốc là đồng chí Lý Viết Mình.
Cuối năm 1982, UBND tỉnh quyết định chuyển Ty Thương Binh – Xã Hội
thành Sở Thương binh – Xã Hội do dồng chí Dương Quốc Tiến làm giám
đốc(1982-1985) từ năm 1875 đến năm 1987 , đồng chí Vi Ngọc Quyến làm
Giám đốc, đồng chí Đàm Quốc Hoàn làm phó giám đốc.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc hợp nhất hai ngành Lao động,
Thương binh và Xã hội, ngày 7/12/1987, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn ra
quyết định số 517/UB-QĐ-TC hợp nhất Sở Lao động và Sở Thương binh Xã hội
thành Sở Lao động – Thương binh và Xã hội.
5
1.1.2. Sơ đồ bộ máy tổ chức:
Giám Đốc
Văn
phòng
Phòng
Kế
hoạch
tài
chính
Thanh
tra
Phòng Việc làm - An toàn
Lao động
Phòng Dạy nghề
Trường
trung cấp
Nghề Việt
Đức
Phó giám
đốc
Trung tâm
giới thiệu
Việc làm
Phòng
Lao
động
Tiền
Lương
&
BHXH
Phòng
Bảo
trợ Xã
hội
Trung tâm
Bảo trợ Xã
hội
Phòng
Bảo vệ
chăm
sóc
Trẻ
em
Chi cục Phòng chống tệ nạn
xã hội
Phòng Người có công
Phó Giám
Đốc
Trung tâm
Chữa bệnh
Giáo
dụcLĐXH
6
1.1.3. Tổng quan kết quả lao động;
- Giai đoạn năm 1986-1990: Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đã
được tiến hành trong hoàn cảnh cả nước đẩy mạnh thực hiện ba chương trình
kinh tế lớn: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Ngành đã thực
hiện triển khai thực hiện các nhiệm vụ phù hợp từng thời điểm lịch sử, từng nội
dung công tác, hoàn thành tốt các chính sách, các chế độ đãi ngộ đối với các đối
tượng do ngành quản lý, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong
tỉnh chăm sóc, ổn định và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các đối
tượng chính sách, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh nhà
trong giai đoạn mới.
- Giai đoạn năm 1991 – 1995: Ngành có nhiều đổi mới về tổ chức bộ máy.
Năm 1994 Sở tiến hành giải thể Xí nghiệp Thương binh T 202 do hoạt động
kém hiệu quả. Đầu năm 1995, Bảo hiểm Xã hội tỉnh tách khỏi ngành Lao động _
Thương binh xã hội. Từ đây, ngành chỉ còn thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước về bảo hiểm xã hội; việc quản lý đối tượng thực hiện công tác thu, chi trả
các chế độ bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm Xã hội tỉnh đảm nhận. Ngành Lao động
– Thương binh và Xã hội đã đóng góp tích cực vào sự phát triển toàn diện của
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh nhà . Với những thành tích đạt được, nhân
dịp kỉ niệm 45 năm ngày Thương binh – Liệt sỹ ( 27/7/1992), ngành LĐ – TB &
XH đã được UBND tỉnh Lạng Sơn tặng bằng khen cho 16 tập thể và 64 cá nhân
từ tỉnh xuống xã và các ngành làm tốt công tác lao động – thương binh và liệt
sỹ.
- Giai đoạn năm 1996-2000: Những thành quả về mọi lĩnh vực công tác mà
ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đã đạt được góp phần cùng nhân dân
các dân tộc trong tỉnh hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế xã hội mà Đảng
bộ tỉnh Lạng Sơn lần thứ XII đã đề ra.
- Giai đoạn năm 2001-2010: Với những thành tích đã đạt được trong năm
này, Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì( năm 2005),
được Bộ Lao động – Thương binh xã hội tặng Cờ Thi đua xuất sắc các năm
2002, 2004,2005, Uỷ ban Nhân dân tỉnh công nhận là đơn vị văn hoá từ năm
2006 – 2009. Riêng phòng LĐTBXH thành phố Lạng Sơn, UBND phường Tam
Thanh đã được chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
1.2. Tổ chức công tác quản trị nhân lực:
1.2.1. Thực trạng tổ chức công tác quản trị nhân lực tại Sở Lao động –
thương binh và xã hội Tỉnh Lạng Sơn:
1.2.1.1. Hiện trạng tổ chức bộ máy chuyên trách quản trị nhân lực:
Phòng thực hiện công tác quản trị nhân lực là Văn phòng Sở, đây là bộ
phận quản lý chủ yếu về nguồn nhân lực và các chính sách liên quan đến nhân
lực của Sở. Văn phòng Sở là một mô hình tổ chức trong đó việc quản lý cán bộ,
công chức và nhân viên trong phòng thuộc về Chánh Văn phòng và phó Chánh
7
Văn phòng. Nhiệm vụ của văn phòng Sở là tham mưu cho Chánh văn phòng và
Lãnh đạo Sở giám sát nhân viên, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình
được giao.
Chức năng, nhiệm vụ của văn phòng Sở:
Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo tình hình và kết của hàng tháng, quý về
tình hình thực hiện nhiệm vụ của Sở, gửi Uỷ ban nhân dân, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội và các cơ quan chức năng. Thực hiện công tác thi đua,
khen thưởng theo quy định của Luật thi đua khen thưởng.
Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, hồ sơ công chức, viên chức, người lao
động; thực hiện chế độ tiền lương; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, điều
động, luân chuyển, thuyên chuyển và các chính sách, chế độ đãi ngộ khen
thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người
lao động của Sở theo sự phân công, phân cấp của Uỷ ban nhân dân.
Hướng dẫn và tổ chức thực hiện chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch
về bình đẳng giới, tổ chức thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội địa phương.
Quản lý các nguồn kinh phí được cấp, quản lý tài sản, phương tiện, thiết bị
đảm bảo phục vụ cho các hoạt động của Sở, tổ chức thực hiện công tác văn thư
lưu trữ, bảo mật theo quy định của pháp luật.
Thực hiện công tác quản trị, đảm bảo cho hoạt động phục vụ của cơ quan
Lãnh đạo Sở, thực hiện công tác đối ngoại của Sở.
+Thực hiện việc theo dõi, đôn đốc và giúp lãnh đạo Sở thực hiện và áp
dụng Hệ thống quản lý theo chất lượng ISO của Sở.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc sở phân công.
Văn phòng Sở ngoài chức năng là thực hiện công tác quản trị nhân lực, còn
ghép với hành chính, tổng hợp, quản trị, văn thư lưu trữ,…
Tổng số cán bộ nhân viên của Văn phòng Sở gồm 12 người, trong đó số cán
bộ nhân viên chuyên trách về công tác quản trị nhân lực là 4 người, chiếm 8%
trong tổng số cán bộ, nhân viên của Sở.Có thể thấy, số lượng nhân viên phụ
trách công tác quản trị nhân lực của Sở là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu và
mức độ của công việc.
Bảng 1.2: Tổng số cán bộ nhân viên của văn phòng Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội tỉnh Lạng Sơn
S
Họ và Tên
TT
Giới Năm
Trình độ
tính sinh
Chuyên môn
Kinh
nghiêm
1
Nguyễn Văn Giang
Nam 1974 ĐHKHXH&NV
Quản lý xã hội 9 năm
2
Nguyễn Thị Kim Quy Nữ
1976 ĐHKHXH&NV
Xã hội học
14 năm
3
Nguyễn Anh Đào
Nữ
1975 ĐH Tổng Hợp
Luật
13 năm
4
Bùi Ngọc Tuyền
Nam 1983 ĐHKHXH&NV
Quản lý Xã hội 6 năm
8
5
Hoàng Thị Nga
Nữ
1957 TC Thương Nghiệp Thủ Quỹ
15 năm
6
Dương Thị Hường
Nữ
1984 CĐ Nội Vụ
Văn thư lưu trữ 7năm( HĐ)
7
Nông Thị Thuỷ
Nữ
1987 TC Tài chính
Kế toán
1năm (HĐ)
8
Lương Anh
Nam 1967
Lái xe
15 năm
9
Nguyễn Minh Hà
Nam 1971
Lái xe
10 năm
10 Tạ Hồng Quân
Nam 1981
Lái xe
6 năm
11 Lê Văn Đông
Nam 1976
Bảo vệ
10 năm (HĐ)
12 Hà Văn Huy
Nam 1982
Bảo vệ
6 năm (HĐ)
Hầu hết các cán bộ nhân viên Văn Phòng Sở có kinh nghiệm làm việc lâu
năm. Năng lực đội ngũ cán bộ chuyên trách tương đối cao. Đội ngũ chuyên trách
quản trị nhân lực đa số tốt nghiệp đại học, tuy nhiên không có một cán bộ nhân
viên nào tốt nghiệp chuyên ngành quản trị nhân lực, có thể thấy chuyên ngành
đào tạo của họ chưa thực sự phù hợp với công việc.
1.2.1.2. Tóm lược cách thức thực hiện của cán bộ chuyên trách:
Bảng 1.1 Bảng phân công công việc
Mức độ phù
STT Họ và tên
Chức vụ
Công việc cụ thể
hợp người –
Việc.
Nguyễn văn Giang Chánh
Văn - Nắm rõ hồ sơ nhân sự
phòng
của Sở.
- Thực hiện quy trình,
thủ tục bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, miễn nhiệm,
điều động, luân chuyển,
1
thuyên chuyển công
chức, viên chức và người
lao động.
- Tham mưu trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ công chức.
2
Nguyễn thị Kim Phó
Chánh - Kiểm tra công tác vản
Quy
Văn phòng
thư, lưu trữ, in sao tài
liệu.
- Phụ trách công tác bình
đẳng giới.
- Tiếp đón khách đến cơ
quan công tác theo sự chỉ
đạo, phân công của Lãnh
9
đạo Sở.
- Chỉ đạo và thực
hiện công tác phục vụ
cac cuộc họp: soạn thảo
công văn, giấy mời, tiếp
đón đại biêu,..
Bùi Ngọc Tuyền
chuyên viên - Tổng hợp báo cáo tuần
tổng hợp
gửi Uỷ ban nhân dân.
- Theo dõi, báo cáo thực
3
hiện công tác cải cách
hành chính
- Thực hiện cơ chế
một cửa.
Nguyễn Anh Đào Chuyên viên - Thực hiện công tác thi
pháp chế
đua, khen thưởng, đánh
giá kết quả công tácc thi
đua khen thưởng.
- Thực hiện việc nâng
bậc lương và chính sách
4
tinh giảm biên chế.
- Theo dõi cấp phát sổ
Bảo hiểm xã hôi, Bảo
hiểm y tế.
- Kiểm tra việc thực hiện
nội quy, quy chế làm
việc cơ quan,…
(Nguồn: Văn phòng – Sở lao động thương binh xã hội tỉnh Lạng Sơn)
- Thu hút nhân lực.
+ Trong công tác tuyển dụng.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nước, do
vậy mà công tác tuyển dụng nhân lực là do Uỷ ban nhân dân. Trong trường hợp
Sở chưa sử dụng hết biên chế của Uỷ ban nhân dân giao thì Sở có thể tuyển
dụng thêm nhân lực từ bên ngoài vào theo hình thức ký kết hợp đồng lao động.
Căn cứ vào bản mô tả công việc và bản Tiêu chuẩn thực hiện công việc
làm cơ sở cho tuyển chọn, các ứng viên đều phải nộp hồ sơ xin việc và Sở sẽ sắp
xếp các ứng viên vào những vị trí công việc phù hợp với chuyên môn mà họ
được đào tạo.
+ Định mức lao động.
Sở Lao đông – Thương binh và Xã hội là cơ quan hành chính sự nghiệp,
không có các hính thức sản xuất, kinh doanh, do vậy mà công tác định mức lao
động chưa được quan tâm.
- Sử dụng nhân lực.
+ Thăng chức, đề bạt.
10
Việc lựa chọn cán bộ, công chức vào các vị trí lãnh đạo, phòng chuyên
môn và tương đương phụ thuộc vào trình độ, bằng cấp, năng lực kinh nghiệm,
công tác của cá nhân. Trong quá trình làm việc cán bộ, công chức đạt được
nhiều thành tích, không bị kỷ luật sẽ được cân nhắc vào những vị trí cao hơn.
+ Đánh giá thực hiện công việc:
Ở từng vị trí công việc sở đều có bản tiêu chuẩn thực hiện công việc, để từ
căn cứ đó có thể đánh giá được kết quả thực hiện công việc của từng người, để
xem mức độ hoàn thành công việc của từng cá nhân.
+ Công tác theo dõi thi đua khen thưởng.
Thi đua khen thưởng nhằm khuyến khích và tôn vinh các tập thể, cá nhân
thi đua lao động, sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ, lập thành tích suất sắc góp
phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của ngành Lao động – Thương
binh và Xã hội và các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Cuối năm, trên
cơ sở đánh giá việc thực hiện công việc của từng cán bộ, công chức, viên chức,
từng phòng sẽ họp xét thi đua khen thưởng, sau đó sẽ đưa danh sách lên Hội
đồng xét thi đua khen thưởng của Sở, Sở sẽ họp hội đồng thi đua khen thưởng,
sơ kết tổng kết đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm và bình xét công khai, cân
nhắc xem xét, xem những ai đủ diều kiện khen thưởng, ai không đủ điều kiện thì
phấn đấu năm sau.
+ Lương.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nước, do đó
mà quỹ tiền lương từ ngân sách nhà nước, chế độ trả lương cho cán bộ công
nhân viên căn cứ theo quy định của thang lương, bảng lương của nhà nước.
Lương hưởng theo hệ số lương, phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực. Lương được
trả cố định vào mùng 10 hàng tháng, thông qua the ATM của từng cá nhân.
Ngoài ra công đoàn Sở sẽ tổ chức đến thăm các cá nhân, khi họ ốm đau, gia đình
có hiếu hỉ,…
Công thức tính lương:
Lương = Lương cơ bản + Phụ cấp
Lương cơ bản = HSL * Mlmin
PC = Hệ số PC * Mlmin
Chế độ nâng lương: Văn phòng Sở sẽ có một chuyên viên phụ trách về chế
độ nâng lương. Quy trình thực hiện nâng lương bao gồm:
•
Yêu cầu nâng lương.
•
Lập danh sách cán bộ công chức, viên chức và nhân viên đến kỳ
nâng lương ( Kỳ nâng lương với cán bộ, công chức là 36 tháng trở lên, cán bộ là
24 tháng trở lên).
•
Xét duyệt tại phòng Sở.
•
Lập kế hoạch họp hội đồng nâng lương.
11
•
Họp hội đồng nâng lương ( cá nhân được nâng lương phải đáp ứng
đủ các điều kiện đó là làm tốt các nhiệm vụ được giao, trong thời gian nâng
lương không bị kỷ luật).
•
Soạn thảo Công văn quyết định nâng lương.
•
Trình ký Giám đốc Sở.
•
Nhận văn bản đóng dấu.
•
Phát hành văn bản thực hiện.
+ Thưởng.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thường xét khen thưởng vào cuối
năm, và từng phòng chuyên môn sẽ đồng ý xét khen thưởng thông qua các tiêu
chí mức độ hoàn thành các nhiệm vụ, mức độ đi làm đúng giờ. Hình thức khen
thưởng chủ yếu là trao các loại giấy khen, bằng khen và một khoản tiền hoặc
một hiện vật theo quy định của cơ quan nhà nước. Các phòng chuyên môn nếu
hoàn thành tốt nhiệm vụ sẽ được thưởng bằng hiện vật hoặc vật chất vào dịp
cuối năm.
+Phúc lợi.
Công tác phúc lợi là rất quan trọng, một chương trình phúc lợi có hiệu quả
sẽ giúp cho việc nâng cao uy tín của tổ chức trên thị trường, thu hút nhân tài và
giữ chân nhân viên giỏi. Đồng thời phúc lợi cũng có vai trò giúp nâng cao đời
sống vật chất, và tinh thần cho cán bộ nhân viên, thúc đẩy họ làm việc và nâng
cao hiệu quả lao động.
Quỹ phúc lợi của Sở được lấy từ ngân sách nhà nước. Sở thực hiện đầy đủ
các chương trình phúc lợi bắt buộc cho cán bộ công nhân viên như: cán bộ công
nhân viên tại Sở đều được hưởng các chế độ Bảo hiểm như Bảo hiểm xã hội,
Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp, hàng tháng cá khoản đóng Bảo hiểm đều
được trừ vào tiền lương mà họ nhận được. Ngoài ra các cán bộ, công chức, viên
chức đều được hưởng các loại trợ cấp ốm đau, bệnh tật, thai sản…. Hàng năm
Sở đều tổ chức ít nhất một chuyến du lịch tại các khu du lịch trên phạm vi toàn
quốc cho toàn cán bộ nhân viên, tổ chức các chương trình giao lưu, thể thao, tạo
cho họ một cảm giác vui vẻ, tạo quan hệ gần gũi, bầu không khí tập thể hài hoà
không mâu thuẫn.
Nhìn chung cán bộ nhân viên đều cảm thấy hài lòng với chương trình phúc
lợi cuả Sở. Cán bộ nhân viên làm việc hiệu quả, năng suất, có sự hiểu biết lẫn
nhau giữa cán bộ nhân viên trong sở.
- Đào tạo phát triển nhân lực:
Sở luôn coi trọng việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ công chức,
viên chức, do đó mà chính sách đào tạo nhân lực được xem là chính sách quan
trọng hàng đầu. Sở tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ của các phòng chuyên
môn, các đơn vị trực thuộc và Sở luôn luôn khuyến khích các cán bộ, công chức
tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
12
Định kỳ hàng năm Sở tổ chức đào tạo cho cán bộ để đáp ứng với yêu cầu
về chất lượng nguồn nhân lực, trưởng các phòng chuyên môn, các đơn vi trực
thuộc có nhiệm vụ xác định nhu cầu đào tạo, các cán bộ, công chức cần được
đào tạo, chuyển cho Văn phòng sở, Văn phòng sở có nhiệm vụ tập hợp các nhu
cầu đào tạo, xây dựng kế hoạch, phương pháp đào tạo và tiến hành các hoạt
động đào tạo nhằm đảm bảo sau khi được đào tạo, các cán bộ, công chức có đủ
khẳ năng hoàn thành làm tốt nhiệm vụ được giao. Sau đó, Văn phòng sở đánh
giá hiệu quả công tác đào tạo đối với cán bộ, công chức được đào tạo định kỳ.
1.3. Định hướng phát triển và công tác quản trị nhân lực tại Sở Lao
động thương binh xã hội Tỉnh Lạng Sơn năm 2012.
Sở nhận thấy cần phải có những kế hoạch, biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động, cải thiện, nâng cao đời sống cho người có công, giảm hộ nghèo, trợ giúp,
tạo điều kiện cho những người thiệt thòi, yếu thế vươn lên hoà nhập cộng đồng,
tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường thân thiện, lành mạnh, an
toàn, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xám hại, phân biệt đối xử, ngược đãi trẻ em,
góp phần xây dựng nguồn nhân lực tương lai cho đất nước,tạo bước biến chuyển
mạnh mẽ về nhân lực, phấn đấu thu hẹp khoảng cách thế giới, nâng cao vị thế
của người phụ nữ, đảm bảo sự bình đẳng phụ nữ trong các hoạt động kinh tế - xã
hội, kiểm soát chặt chẽ tiến tới giảm dần tệ nạn ma tuý, mại dâm, nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác cai nghiện và quản lý sai cai nghiện, góp phần đảm
bảo an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội. Năm 2012 cần
tập chung vào những nhiệm vụ cần thiết sau:
- Việc làm – An toàn Lao động:
Thực hiện đồng bộ Chương trình mục tiêu Việc làm giai đoạn 2012 – 2015,
thúc đẩy phát triển thị trường lao động, tiếp tục đề nghị Trung ương và đầu tư cơ
sở vật chất của Trung tâm Giới thiệu việc làm, triển khai sản giao dịch việc làm,
kết nối cung – cầu trên thị trường.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, tăng cường tuyên truyền chính sách, chế độ,
điều kiện, quy trình tuyển chọn, thông tin đầy đủ về thu nhập và sinh hoạt ở các
thị trường để người lao động có điều kiện tiếp cận.
Thực hiện đồng bộ dự án vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, lồng
ghép các chương trình, dự án tạo nhiều việc làm mới là hướng đi lâu dài và hiệu
quả nhằm góp phần thúc đẩy giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Triển khai Chương chình Quốc gia về bảo hộ lao động giai đoạn 2011 –
2015, khuyến khích các doanh nghiệp cải thiện điều kiện lao động, phòng ngừa
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp làm tốt tập huấn, huấn luyện cho cán bộ
quản lý và lao động làm việc có yêu cầu làm việc nghiêm ngặt về an toàn vệ
sinh lao động.
13
- Lao động – Tiền lương – Bảo hiểm xã hội.
Thực hiện Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người sử dụng lao
động và người lao động, tăng cườg xây dựng lao động hài hoà, ổn định và tiến
bộ trong doanh nghiệp.
Tiếp tục phối hợp với các hành trình hỗ trợ cho người nghỉ trước
01/01/1995 và số lao động nghỉ việc theo Quyết định 176/QĐ-HĐBT chưa được
hưởng chế độ.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền lương,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, thỏa ước lao động tập thể, v.v… trong
các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp sớm điều chỉnh tiền lương,
tiền công tăng mức thưởng, phát huy sáng kiến nâng cao năng suất lao động, thu
hút nhân tài.
- Dạy nghề.
Thực hiện đồng bộ hiệu quả dự án tăng cường năng lực dạy nghề, đẩy
nhanh tiến độ đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị cho trung tâm dạy
nghề các huyện triển khai toàn điện Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn đến
năm 2020 theo quyết định 1956/2009/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng
Chính phủ, Dự án đổi mới và phát triển dạy nghề.
Nâng cao chất lượng dạy nghề, tăng quy mô đào tạo, đảm bảo tiến độ dạy
nghề, phổ cập nghề và đào tạo lại nghề cho người lao động, nhất là lao động
nông thôn và dân tộc thiểu số. Đa dạng hoá các hình thức, các phương pháp dạy
nghề phù hợp với đối tượng học nghề và yêu cầu sản xuất. Phấn đấu tỷ lệ lao
động qua đào tạo đạt 37 %, trong đó đào tạo nghề là 29%.
- Chăm sóc người có công.
Tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách ưu đãi, cải thiện đời sống vật
chất tinh thần của người có công với cách mạng, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung cụ
thể từng địa bàn, từng đối tượng đảm bảo đúng pháp luật. Xây dựng cơ sở dữ
liệu người có công để quản lý chi trả trợ cấp ưu đãi với người có công đúng quy
định. Hoàn thành tu sửa, nâng cấp 02 nghĩa trang liệt sỹ, 01 đài tưởng niệm, 02
nhà bia ghi tên liệt sỹ.
Đẩy mạnh phong trào “ Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn” “xã,
phường làm công tác thương binh, liệt sỹ, người có công” nhằm huy động mọi
nguồn lực trong xã hội, cộng đồng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của
người có công với cách mạng. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư xây
dựng Trung tâm Điều dưỡng người có công, nhằm đưa vào sử dụng, phát huy
hiệu quả.
- Giảm nghèo.
Thực hiện đồng bộ, hiệu quả Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011 –
2015; triển khai thực hiện Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/05/2011 của Chính
phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020; tiếp tục rà soát
14
đánh giá đúng thực trạng để xây dựng giải pháp huy động nguồn lực thực hiện
xã hội hoá giảm nghèo, từng bước nhân rộng mô hình giảm nghèo phù hợp với
điều kiện cụ thể của từng địa bàn, từng đối tượng, nhằm mục tiêu giảm nghèo
bền vững đến xã, thôn bản và hộ gia đình. Đổi mới phương pháp thực hiện dự án
nâng cao năng lực giảm nghèo, trong đó đào tạo, tập huấn cán bộ giảm nghèo,
hoạt động truyền thông và giám sát, đánh giá cần tăng cường mở rộng đến thôn,
bản.…
- Bảo trợ xã hội.
Thực hiện kịp thời, đầy đủ chính sách đã ban hành đối với những người yếu
thế, đảm bảo các đối tượng đặc biệt khó khăn được hưởng trợ cấp xã hội, tạo
điều kiện để các đối tượng học nghề, vay vốn, tạo việc làm hoà nhập cộng đồng.
Theo dõi sát tình hình thiên tai, bão lụt, thiếu đói giáp hạt, chủ động xây
dựng phương án cứu trợ, đề xuất giải pháp khắc phục hậu quả, nhanh chóng
phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Phát triển nghề công tác xã hội theo Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày
25/03/2010, đào tạo và hình thành mạng lưới cán sự xã hội tại xã, phường, thôn,
bản chăm sóc đối tượng xã hội dựa vào cộng đồng.
- Bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Thúc đẩy mạnh mẽ phong trào toàn dân tham gia bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em. Tạo điều kiện để trẻ em được sống trong môi trường thân thiện, lành
mạnh, an toàn; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xâm hại, phân biệt đối xử, ngược đãi
trẻ em. Xây dựng, triển khai thực hiện chương trình hành động quốc gia vì trẻ
em giai đoạn 2011-2020. Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 20112015 theo Quyết định 267/QĐ-TTg ngày 24/10/2010.
+ Phòng, chống tệ nạn mại dâm và cai nghiện phục hồi.
Lồng ghép thông tin tuyên truyền, giáo dục phòng, chống tệ nạn xã hội với
xây dựng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Hạn chế
gia tăng hoạt động mại dâm, phát sinh người nghiện mà tuý. Phát triển các hình
thức cai nghiện, quản lý sau cai phù hợp với từng đối tượng. Tạo mô hình dạy
nghề và quản lý đối tượng sau cai tại gia đình nhằm tạo việc làm, tái hoà nhập
cộng đồng, coi đây là bước đột phá để tháo gỡ khó khăn trong công tác chữa trị,
cai nghiện.
Đẩy nhanh tiến độ sự án đầu tư mở rộng, nâng cấp Trung tâm Chữa bệnh
Giáo dục Lao động xã hội, để tiếp nhận đối tượng 05/06 vào giáo dục, cai
nghiện phục hồi, chữa trị, dạy nghề nhằm giải quyết nhu cầu bức xúc xã hội.
+ Thanh tra.
Xây dựng, thực hiện kế hoạch thanh tra chuyên ngành, liên ngành, thực
hiện tốt cơ chế phối hợp với thanh tra viên phụ trách vùng để thanh kiểm tra
thực hiện pháp luật lao động.
15
Tiếp tục củng cố, kiện toàn lực lượng thanh tra ngành theo hướng chuyên
nghiệp hoá và hướng dẫn thực hiện toàn diện phiếu kiểm tra chấp hành bảo hộ
lao động trong các doanh nghiệp, xử lý kịp thời vi phạm
Duy trì lịch tiếp công dân của Lãnh đạo Sở, các phòng chuyên môn, các đơn vị
trực thuộc chủ động giải quyết tốt đơn, thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, giảm
thiểu đơn thư tồn đọng, đơn thư phát sinh đúng Luật Khiếu nại tố cáo.
+ Thực hiện Bình đẳng giới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Tăng cường đề án thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2020 theo Quyết định 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 và Chương
trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2014.
Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng
giới, cộng tác viên thực hiện công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ,
đảm bảo bình đẳng giới, trong các hoạt động kinh tế - xã hội và gia đình. Hướng
dẫn lồng ghép nội dung bình đẳng giới. Vì sự tiến bộ phụ nữ vào kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bản.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Tỉnh Lạng Sơn đặt con người là
trung tâm của mọi sự phát triển, về nâng cao trình độ nhân lực là mối quan tâm
hàng đầu của Sở, có thể nói yếu tố con người là tài sản vô giá của Sở. Do dó mà
rất coi trọng công tác quản trị nhân lực, coi “ quản trị nhân lực là môt nghệ
thuật” trong sử dụng nhân lực phải biết triển khai tiềm năng của mỗi người, để
họ có thể phát huy hết khả năng vốn có của mình. Quản trị nhân lực bao gồm
các hoạt động như hoạch định nguồn nhân lực, tuyển chọn nhân lực, phân tích
và thiết kế công việc, đánh giá thực hiện công việc, các chính sách đào tạo, thù
lao, lương, thưởng ,….
16
Phần II: Chuyên đề chuyên sâu
Đề tài “ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH
LẠNG SƠN”.
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Một số khái niệm
• Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng được hiểu là tổng thể tiềm năng về lao
động của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương, là một bộ phận của
các nguồn nhân lực có khả năng huy động, tổ chức quản lý để tham gia vào quá
trình phát triển kinh tế – xã hội, như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính
Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp là tiềm năng về lao động và được lượng hoá
hoặc là chỉ tiêu thống kê mà người ta căn cứ vào độ tuổi, khả năng lao động.
Nguồn nhân lực là dân số trong độ tuổi lao động (từ đủ 15 tuổi trở lên) có khả
năng lao động.
Ở Việt Nam, Nguồn nhân lực bao gồm những người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân (độ tuổi lao động của: Nam giới từ 16 –
60 tuổi; nữ giới từ 16 – 55 tuổi).
Nói đến nguồn nhân lực, số lượng nguồn nhân lực được xác định dựa trên
quy mô và tốc độ tăng dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu
vực, lãnh thổ của dân số. Chất lượng nguồn nhân lực bao gồm: Tình trạng thể
lực, trí lực, trình độ văn hoá, chuyên môn, phong cách, đạo đức, hiểu biết xã hội
của đội ngũ nhân lực. Trong đó, trình độ học vấn là yếu tố rất quan trọng trong
phát triển kinh tế nhờ nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất và tiến bộ
xã hội.
• Đào tạo.
Đào tạo là quá trình trang bị tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành nhân
cách người lao động, chuẩn bị cho các cá nhân tham gia vào hoạt động lao động
cụ thể, chuyên nghiệp trong xã hội.
Đào tạo là việc huấn luyện, giảng dạy, tập huấn cho một nhóm người, một
tổ chức, một xã hội về một vấn đề, và nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định.Phát
triển là sự tiến bộ, đi lên.
• Nghề.
Nghề là thuật ngữ để chỉ mọi hình thức lao động, là mọi việc làm theo sự
phân công của xã hội. Con người thông qua việc hành nghề để kiếm sống nhằm
duy trì bản thân và xây dựng đất nước. Nghề nằm trong một ngành hay một
nhóm nghề nào đó. Nghề được sinh ra, phát triển trong sự phát triển tiến bộ của
xã hội, có những nghề ra đời và phát triển lâu dài thì trở thành nghề truyền
thống, đồng thời cũng có những nghề mới du nhập do tiến bộ của KHKT đem
lại (Tài liệu SHHN, THPT tháng 8/2000 trang 74). Nghề có 3 cấp độ khác nhau:
17
bán lành nghề, lành nghề và lành nghề ở trình độ cao. Bán lành nghề là được
trang bị một phần kiến thức và kĩ năng của một nghề với các công việc đơn giản,
quen thuộc lặp đi lặp lại nhiều lần trong một phần nhất định, khi phối hợp với
các công việc khác cần có sự hướng dẫn và giám sát của những người có trình
độ cao hơn. Lành nghề là được trang bị kiến thức và kĩ năng nghề ở diện rộng
chuyên môn sâu, có khả năng đảm bảo được công việc phức tạp của nghề, biết
phát hiện và sửa chữa những trục trặc kĩ thuật, có khả năng đưa ra một số sáng
kiến cải tiến đơn giản trong phạm vi hẹp, có khả năng kiểm tra, hướng dẫn
người khác một số công việc ở mức độ phức tạp trung bình, có tính độc lập và
chịu trách nhiệm cá nhân cao. Lành nghề ở trình độ cao là được trang bị kiến
thức chuyên môn vững vàng, kĩ năng thành thạo, có khả năng tự vận hành được
các thiết bị hiện đại và tự sử lý được các tình huống phức tạp, đa dạng trong một
dây truyền lao động, đọc và vẽ được hầu hết các bản vẽ kĩ thuật, các sơ đồ phức
tạp trong nghề, có khả năng lãnh đạo một nhóm, một tổ về chuyên môn nghề
nghiệp, giám sát và quản lý tốt các lao động bán lành nghề, lành nghề, có tính
độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân cao trong công việc...
• Đào tạo nghề.
Đào tạo nghề là những hoạt động giúp cho người học có được các kiến
thức về lý thuyết và kĩ năng thực hành một số nghề nào đó để sau một thời
gian nhất định người học có thể đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm
việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao tay nghề theo những chuẩn mực mới.
Đào tạo nghề có 3 giai đoạn cơ bản :
+ Đào tạo nghề cho người chưa biết gì về nghề trở thành người bán lành
nghề.
+ Đào tạo nghề cho người bán lành nghề trở thành người lành nghề (trong
đó có nhiều cấp bậc).
+ Đào tạo nghề cho người lành nghề trở thành những người lành nghề ở
trình độ cao.
2.1.2. Nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Thứ nhất, gắn đào tạo nghề với quy hoạch định hướng phát triển kinh tế, xã
hội của địa phương. Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, các địa
phương xác định nhu cầu đào tạo. Thực tiễn cho thấy, tất cả các xã trong mô
hình thí điểm nông thôn mới đều đang triển khai các mô hình nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp nhưng chưa xác định được nhu cầu nhân lực để triển khai mô
hình và nhân rộng mô hình bền vững. Việc xác định nhu cầu đào tạo phải chi tiết
đến từng nghề, vật nuôi, cây trồng cụ thể.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tư vấn cho nông dân, giúp bà con biết các chủ
trương, chính sách, định hướng phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, cơ hội
việc làm, các vật nuôi, cây trồng có thể triển khai hiệu quả trên mảnh đất của
18
mình, từ đó bà con sẽ chủ động trong việc lựa chọn lĩnh vực sản xuất và tự
nguyện tham gia các khóa học nghề do Nhà nước hỗ trợ. Để làm việc này, cần
nâng cao vai trò của thôn, xã, lấy thôn, xã và các cơ quan chuyên ngành, các
hiệp hội nghề nghiệp làm nòng cốt trong công tác tư vấn, tuyên truyền và xác
định nhu cầu đào tạo.
Thứ ba, huy động đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực từ các viện nghiên
cứu, các tập đoàn, tổng công ty, hiệp hội nghề nghiệp phối hợp với các cơ sở
đào tạo để tư vấn cho bà con và triển khai các khóa đào tạo. Điều này bảo đảm
sự thành công của việc ứng dụng công nghệ mới, phương thức sản xuất mới,
đồng thời bảo đảm nội dung đào tạo phù hợp và mang tính hiện đại.
Thứ tư, đầu tư đồng bộ, cân xứng cho công tác đào tạo nghề và các hoạt
động khác trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Tránh trường hợp một số
địa phương quá chú trọng đến việc xây dựng cơ sở vật chất, thủy lợi, trường phổ
thông, không đầu tư thỏa đáng cho xây dựng cơ sở dạy nghề và hoạt động dạy
nghề, làm cho công tác dạy nghề không đáp ứng được yêu cầu.
Thứ năm, triển khai đào tạo nghề linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế
của nông dân, cho từng địa phương và từng lĩnh vực nông nghiệp. Đẩy mạnh
dạy nghề thường xuyên tại chỗ và theo thời vụ phát triển.
2.1.3. Đặc điểm của đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
- Đào tạo nghề là hình thành nhân cách người lao động mới. Thông qua quá
trình đào tạo giúp người học có được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn
nghề nghiệp nhất định để có thể làm việc theo nghề nghiệp đó sau khi ra trường;
đồng thời giáo dục cho người học những phẩm chất nghề nghiệp như: lòng yêu
nghề, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức, kỷ luật trong lao động sản xuất.
- Đào tạo nghề gắn liền với quá trình sản xuất. Đây là đặc điểm cơ bản
nhất. Trong quá trình dạy – học, người học muốn nắm được nội dung nghề
nghiệp thì phải trực tiếp nhìn thấy quá trình sản xuất hay ít nhất thấy được mô
hình của nó. Muốn đào tạo nghề có kết quả phải có một số điều kiện cơ bản sau:
Máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, quỹ thời gian để luyện tay nghề, có đội ngũ
giáo viên dạy lý thuyết và thực hành vừa giỏi kỹ thuật, vừa giỏi nghiệp vụ sư
phạm. Ngoài ra phải tính đến việc sử dụng các thành tựu kỹ thuật, công nghệ, tổ
chức sản xuất theo khoa học. Thiếu những điều kiện này, đào tạo nghề không
thể đạt hiệu quả cao.
- Đào tạo nghề là đào tạo thực hành sản xuất. Nội dung giảng dạy bao gồm
cả lý thuyết và thực hành, nhưng thời gian thực hành sản xuất giữ vai trò chủ
đạo và chiếm khoảng 2/3 thời gian đào tạo. Nội dung dạy lý thuyết và thực hành
được phản ánh trong kế hoạch giảng dạy và chương trình môn học. Hiện nay,
khoa học kỹ thuật phát triển nhanh, liên tục đổi mới công nghệ sản xuất. Vì thế,
trong vòng 5 đến 7 năm phải xây dựng danh mục nghề đào tạo một lần. Đây là
điểm khác biệt giữa đào tạo nghề với giáo dục phổ thông.
19
- Hình thức đào tạo đa dạng, phong phú. Đào tạo lưu động, cơ bản không
tập trung tại cơ sở đào tạo. Mở lớp đào tạo tại thôn bản, xã, không cố định tại
một chỗ.
- Đội ngũ giáo viên đa dạng, phong phú:
+ Giáo viên cơ hữu.
+ Giáo viên thỉnh giảng.
+ Giáo viên kiêm chức.
+ Người dạy nghề.
- Nghề đào tạo đa dạng,phong phú. Theo nhu cầu của lao động nông thôn.
Đối tượng đào tạo rộng, bao gồm :
+ Những người trong độ tuổi lao động (nam từ 18- 60, nữ từ 18-55)
+ Trình độ học vấn đa dạng, từ người biết chữ cho đến người trình độ học
vấn cao
2.1.4. Vai trò của đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay
• Vai trò của đào tạo nghề về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở khu vực
nông thôn:
Thứ nhất, các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế
muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: (i)
áp dụng công nghệ mới, (ii) phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và (iii) nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là những con người được đào tạo, đặc biệt là
nhân lực có kỹ năng nghề cao. Trong bối cảnh các nguồn lực tự nhiên và nguồn
lực khác là hữu hạn và ngày càng có nguy cơ cạn kiệt, thì nguồn nhân lực có
chất lượng chính là vũ khí mạnh mẽ nhất để giành thắng lợi trong cạnh tranh
giữa các nền kinh tế.
Nguồn nhân lực chất lượng cao, là những con người được đầu tư phát triển,
có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo. Năng lực thực
hiện này chỉ có thể có được thông qua giáo dục - đào tạo và tích lũy kinh nghiệm
trong quá trình làm việc. Tuy nhiên, ngay cả việc tích lũy kinh nghiệm này cũng
phải dựa trên một nền tảng là giáo dục- đào tạo nghề nghiệp cơ bản. Như vậy, có
thể thấy, vai trò quyết định của giáo dục- đào tạo nghề nghiệp đối với việc hình
thành và phát triển năng lực thực hiện của con người. Nhờ có đào tạo nghề,
người lao động có thể nâng cao được kiến thức và kĩ năng nghề của mình.
- Thứ hai, vai trò của giáo dục - đào tạo nghề nghiệp đối với chất lượng
nguồn nhân lực xuất phát từ khía cạnh lợi ích cá nhân của con người (con người
lao động). Lý thuyết về vốn nhân lực hiện đại cho rằng “tất cả các hành vi của
con người đều xuất phát từ những nhu cầu lợi ích kinh tế cho chính các cá nhân
hoạt động tự do trong thị trường mang tính cạnh tranh. Các dạng biểu hiện khác
đều bị cho là không thuộc phạm vi hoặc sự biến dạng của lý thuyết này”
(Fitzimons, 1999).
20
Nội dung chính của lý thuyết trên cho rằng, các cá nhân đầu tư vào giáo dục
và đào tạo nghề nhằm tích luỹ những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, những
cái có thể mang lại lợi ích lâu dài sau đó và đó là nhân tố cơ bản cho sự phát
triển bền vững. Chính sự đầu tư này, dưới giác độ xã hội, tạo ra chất lượng
nguồn nhân lực và do đó, cũng mang lại lợi ích kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế. Nhà kinh tế học Becker đã đưa ra bằng chứng về mối tương
quan giữa trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp và thu nhập: học vấn và kỹ
năng nghề càng cao, thu nhập càng tăng và ngược lại. Khảo sát của Viện Nghiên
cứu Khoa học Dạy nghề cũng cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp của những người qua
đào tạo nghề thấp hơn nhiều so với lao động phổ thông, thậm chí còn thấp hơn
cả tỷ lệ thất nghiệp của những người tốt nghiệp đại học (Mạc Văn Tiến và cộng
sự, 2006). Đây chính là động lực để con người đầu tư vào giáo dục- đào tạo và
đào tạo nghề đồng thời có đã tác động tích cực làm cho chất lượng nguồn nhân
lực được nâng lên.
- Thứ ba, giáo dục- đào tạo nghề tạo ra sự “tranh đua” xã hội và trong bối
cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, những người học vấn thấp, kỹ
năng, tay nghề thấp hoặc không có nghề khó có thể cạnh tranh được so với
những người có trình độ, có kỹ năng nghề cao. Khi đó, họ sẽ trở thành nhóm
người “yếu thế”, phải làm những việc thu nhập thấp, thậm chí không kiếm được
việc làm, trở thành người thất nghiệp dài hạn và nhận trợ cấp xã hội. Nhưng dù
sao, những trợ cấp đó chỉ mang tính tức thời, giúp họ “cầm cự” được trong cuộc
sống thường nhật, tạo cơ hội cho họ quay trở lại thị trường lao động. Nhưng nếu
những người này không tự tạo cho họ năng lực, nâng cao “vốn nhân lực” của
mình thì sớm hay muộn, họ cũng lại bị “bật” ra khỏi thị trường lao động. Muốn
thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, buộc những người đó, bằng cách này hay cách
khác phải nâng cao “vốn nhân lực” của mình và cách hiệu quả nhất là đầu tư vào
giáo dục, đào tạo nghề.
- Thứ tư, vai trò của đào tạo nghề đối với nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực được thể hiện thông qua chính nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nhu cầu
của nền kinh tế công nghiệp đòi hỏi phải phát triển đội ngũ lao động có kiến
thức, có kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng làm chủ được các phương tiện,
máy móc, làm chủ được công nghệ. Quá trình công nghiệp hóa dài hay ngắn,
ngoài các yếu tố về cơ chế, chính sách và thể chế còn phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực của đội ngũ lao động kỹ thuật này. Đây có thể nói là nhu cầu khách
quan của nền kinh tế, đòi hỏi Chính phủ các nước phải đầu tư cho đào tạo nghề.
Trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi quy mô và cơ cấu
giáo dục- đào tạo nghề và qua đó, quy mô và cơ cấu nhân lực kỹ thuật khác
nhau. Nếu như ở thời kỳ phát triển thấp, cơ cấu giáo dục – đào tạo theo trật tự
ưu tiên sẽ là giáo dục phổ thông- giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học và cơ
cấu nhân lực sẽ là lao động phổ thông- công nhân kỹ thuật bậc thấp và bậc trung
21
- lao động kỹ thuật bậc cao và lao động quản lý; thì ở thời kỳ nền kinh tế phát
triển cao nhất là trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu trên sẽ là giáo dục đại học giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông và cơ cấu nhân lực sẽ là lao động
kỹ thuật bậc cao và lao động quản lý - công nhân kỹ thuật bậc trung và bậc thấp
- lao động phổ thông hoặc trong thời kỳ…Ngược lại, giáo dục - đào tạo nghề lại
là động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức rõ được vai trò của giáo dục, đào tạo nghề nghiệp đối với việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và qua đó tạo ra sự phát triển tương lai,
Chính phủ của nhiều nước đã có chiến lược dài hạn phát triển giáo dục - đào tạo
và đầu tư thỏa đáng ngân sách cho lĩnh vực này. Chẳng hạn, hàng năm, Mỹ đã
chi khoảng 5%-7% GDP cho việc đào tạo và phát triển nhân tài, các nước công
nhiệp phát triển khác cũng đầu tư cho giáo dục- đào tạo rất lớn, như Hà Lan
6,7% GDP, Pháp 5,7%, Nhật 5,0... Ngoài ra, Chính phủ các nước công nghiệp
phát triển còn có chính sách huy động sự tham gia mạnh mẽ cuả các doanh
nghiệp, các tập đoàn lớn đầu tư cho phát triển giáo dục nghề nghiệp, nhất là phát
triển các trung tâm đào tạo chất lượng cao, tạo ra những nhà kỹ thuật, những nhà
phát minh, sáng chế hàng đầu trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. tạo
cho Nhật bản một vị thế là cường quốc kinh tế đứng thứ hai trên thế giới.
Ngay ở Đông Nam Á, một số nước cũng đã có chiến lược đầu tư cho phát
triển giáo dục- đào tạo nghề khá ấn tượng, trong đó phải kể đến Brunei. Để trang
bị cho thế hệ trẻ những kiến thức và kỹ năng trong một thế giới hiện đại, Quốc
vương đã đề ra một số định hướng về chiến lược được gọi là " Hệ thống giáo
dục quốc gia cho thế kỷ XXI- SPN 21", hướng tới đào tạo con người phát triển
cả về trình độ và kỹ năng, đáp ứng nhu cầu của các ngành, nghề cần thiết trong
những thập niên đầu thế kỷ mới; đồng thời, nâng cao trình độ kiến thức và kỹ
năng cho đội ngũ giáo viên, những người làm công tác giảng dạy, có tính chất
quyết định đối với công tác đào tạo thế hệ tương lai…
Ở nước ta, ngay từ Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “ Phát triển
giáo dục- đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững”. Phát triển giáo dục- đại học gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội;
xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”; thực
hiện công bằng trong giáo dục.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng đã đề ra chủ trương phát
triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề giai đoạn 2006 - 2010 là: “Phát triển mạnh
hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung
cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho xuất khẩu
lao động” và “Tạo chuyển biến căn bản về chất lượng dạy nghề tiếp cận với
trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích
22
phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, linh hoạt: dạy nghề ngoài công lập,
tại doanh nghiệp, tại làng nghề”. Đặc biệt Dự thảo Chiến lược Phát triển kinh
tế- xã hội 2011-2020 sẽ được trình tại Đại hội lần thứ XI cũng đã nêu rõ: Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân là một trong ba khâu
đột phá chiến lược…Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm, nhất là ở nông thôn và
vùng đô thị hoá; hỗ trợ các đối tượng chính sách, người nghèo học nghề.
Đây là những định hướng rất cơ bản, là căn cứ để phát triển đào tạo nghề,
nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta trong giai đoạn tới.
2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn
2.1.5.1. Điều kiện tự nhiên:
Không thể nào có sự thuận lợi trong giải quyết việc làm tại chỗ đối với một
số bộ phận người lao động sống ở những nơi bất lợi (vùng núi cao, hải đảo...) ở
những nơi thuận lợi: Hạ tầng cơ sở phát triển, tài nguyên phong phú, có nhiều
dự án, nhiều chương trình kinh tế, xã hội đầu tư vấn đề giải quyết việc làm ở đây
sẽ có điều kiện hơn.
2.1.5.2. Điều kiện kinh tế xã hội:
Đặc điểm kinh tế của địa phương: Lạng sơn với thế mạnh về phát triển du
lịch - thương mại thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, các thành
phần kinh tế tham gia các cơ sở kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh.
Thương mại du lịch phát triển nhanh chóng đã góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển,nâng cao mức sống của nhân dân, tăng thu ngân sách địa phương và
trung ương.
2.1.5.3. Cơ chế chính sách :
• Chính sách đối với người học
- Lao động nông thôn thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị
thu hồi đất canh tác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn, hỗ trợ tiền, hỗ trợ
tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng đối với người học nghề xa nơi cư trú
từ 15 km trở lên.
- Lao động nông thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập
của hộ nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và
dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ
trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế).
- Lao động nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ
sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 02 triệu đồng/người/khóa
học (mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế).
- Lao động nông thôn học nghề được vay để học theo quy định hiện hành
về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao động nông thôn làm việc ổn định ở
23
nông thôn sau khi học nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản
vay để học nghề.
- Lao động nông thôn là người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng
chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo và hộ có thu nhập tối
đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo các khóa học trình độ trung cấp nghề, cao
đẳng nghề được hưởng chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội
trú.
- Lao động nông thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về
việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm.
• Chính sách đối với giáo viên, giảng viên
- Giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề thường xuyên phải xuống thôn, bản,
phum, sóc thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để dạy
nghề với thời gian từ 15 ngày trở lên trong tháng được hưởng phụ cấp lưu động
hệ số 0,2 so với mức lương tối thiểu chung như đối với giáo viên thực hiện công
tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục thường xuyên phải xuống thôn, bản, phum,
sóc.
- Giáo viên của các cơ sở dạy nghề công lập ở các huyện miền núi, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số được
giải quyết nhà công vụ như đối với giáo viên ở các cơ sở giáo dục mầm non đến
các cấp học phổ thông.
- Người dạy nghề (cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao
tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và các trung tâm khuyến nông,
lâm, ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề lao động nông thôn) được
trả tiền công giảng dạy với mức tối thiểu 25.000 đồng/giờ; người dạy nghề là
các tiến sĩ khoa học, tiến sĩ trong lĩnh vực nông nghiệp, nghệ nhân cấp tỉnh trở
lên được trả tiền công giảng dạy với mức tối thiểu 300.000 đồng/buổi. Mức cụ
thể do cơ sở dạy nghề quyết định.
- Xây dựng các tiêu chuẩn, chế độ, cơ chế đãi ngộ phù hợp để thu hút
những người giỏi, có năng lực giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức; những người hoạt động trên các lĩnh vực, mọi thành phần tham gia
vào công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút những người có năng lực đang công tác
tại các cơ quan, đơn vị tham gia giảng dạy theo chế độ kiêm chức.
• Chính sách đối với cơ sở đào tạo nghề cho lao động nông thôn
- 61 huyện nghèo được đầu tư cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề cho trung
tâm dạy nghề theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008
của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
61 huyện nghèo.
- 30 huyện có tỷ lệ hộ nghèo từ 30 - 50% mới thành lập trung tâm dạy nghề
năm 2009 được hỗ trợ đầu tư phòng học lý thuyết, xưởng thực hành, ký túc xá,
nhà công vụ cho giáo viên, nhà ăn, ô tô bán tải hoặc thuyền máy để chuyên chở
24
thiết bị, cán bộ, giáo viên đi dạy nghề lưu động, thiết bị dạy nghề cho 4 nghề
phổ biến và 3 - 5 nghề đặc thù của địa phương.
- 74 huyện miền núi, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số mới thành lập
trung tâm dạy nghề năm 2009 được hỗ trợ đầu tư xưởng thực hành, ký túc xá;
nhà công vụ cho giáo viên, nhà ăn, ô tô bán tải hoặc thuyền máy để chuyên chở
thiết bị, cán bộ, giáo viên đi dạy nghề lưu động, thiết bị dạy nghề cho 3 nghề
phổ biến và 3 - 4 nghề đặc thù của địa phương.
- 116 huyện đồng bằng mới thành lập trung tâm dạy nghề năm 2009 được
hỗ trợ kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề.
- 09 trường trung cấp nghề thủ công mỹ nghệ ở 09 tỉnh tập trung nhiều làng
nghề truyền thống được hỗ trợ đầu tư xây dựng và thiết bị dạy nghề.
- Tiếp tục hỗ trợ đầu tư thiết bị dạy nghề cho các trung tâm dạy nghề công
lập huyện được đầu tư giai đoạn 2006 - 2009 nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu
đảm bảo chất lượng dạy nghề.
- Hỗ trợ kinh phí mua sắm thiết bị dạy nghề cho 100 trung tâm giáo dục
thường xuyên ở những huyện chưa có trung tâm dạy nghề để tham gia dạy nghề
cho lao động nông thôn.
- Các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, trường đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp của các Bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã
hội, địa phương, doanh nghiệp và cơ sở tư thục; trung tâm giáo dục thường
xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, các viện nghiên cứu, trung
tâm học tập cộng đồng, trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, trang trại, nông
trường, lâm trường, doanh nghiệp, hợp tác xã và các cơ sở sản xuất, kinh doanh
dịch vụ … có đủ điều kiện dạy nghề cho lao động nông thôn được tham gia dạy
nghề cho lao động nông thôn và được cung cấp chương trình, giáo trình, học liệu
và bồi dưỡng giáo viên dạy nghề.
- Trình độ học vấn của đa số nông dân và lao động nông thôn còn thấp;
phần lớn lao động nông thôn nhất là lao động làm nông nghiệp và là lao động
lớn tuổi (khoảng từ 35 tuổi trở lên), do đó ít nhiều có tâm lý ngần ngại, sợ gặp
khó khăn khi tham gia học nghề;
- Ảnh hưởng của nền kinh tế tiểu nông, nhỏ lẻ, tập quán sản xuất, canh tác
theo kinh nghiệm lâu đời, cha truyền con nối,… tâm lý ít muốn thay đổi, ngại
tiếp thu cái mới, chỉ quan tâm cái lợi trước mắt, chưa quan tâm đến lợi ích lâu
dài; bị hạn chế về ý thức tổ chức, tính kỷ luật, tác phong lao động vẫn còn khá
phổ biến trong nông dân và lao động nông thôn cũng là trở ngại lớn trong thực
hiện dạy nghề cho các đối tượng này.
- Do đặc điểm sản xuất và làm việc theo mùa vụ; bên cạnh đó một bộ phận
lớn các đối tượng lao động nông thôn thuộc diện cần hỗ trợ dạy nghề có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn, phải lao động sản xuất hàng ngày để kiếm sống nên gặp
khó khăn về thời gian, chi phí cho việc đi lại, học tập,… khi tham gia học nghề.
25