Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Đánh giá và nhận xét một số chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.85 KB, 91 trang )

Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền công nghệ thông tin, thị
trường tài chính và xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu có rất nhiều nghiệp vụ kinh tế mới đã
hình thành và đang phát triển. Nhu cầu minh bạch thông tin tài chính ngày càng đòi hỏi
tính cấp thiết phải ban hành mới các chuẩn mực kế toán hướng dẫn việc ghi nhận, xác
định giá trị và trình bày thông tin về các công cụ tài chính trong BCTC.
Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế,Ủy ban Chuẩn mực BCTC quốc
tế trong năm năm qua đã không ngừng sửa đổi, bổ sung, thay thế các chuẩn mực kế toán
(CMKT) quốc tế để đáp ứng đòi hỏi về tính minh bạch thông tin trong điều kiện phát sinh
những giao dịch mới hết sức phức tạp. Do đó, tình trạng nhiều điểm không còn phù hợp
giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế hiện hành.
Việc ban hành và đưa vào áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam đã góp
phần quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, tăng cường tính
minh bạch của thông tin tài chính và tạo dựng môi trường kinh doanh phù hợp với tình
hình trong khu vực và quốc tế, duy trì niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam. Tuy nhiên, trong những năm qua, Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) đã tiến hành
sửa đổi các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và ban hành mới các Chuẩn mực BCTC
quốc tế (IFRS). Hơn nữa, nền kinh tế thị trường chuyển đổi của Việt Nam đã dần bước
sang giai đoạn ổn định và phát triển, các hoạt động kinh tế đã và đang được điều chỉnh
bởi các quy luật của thị trường. Do vậy, đã đến lúc Việt Nam cần cập nhật và ban hành
mới các chuẩn mực kế toán cho phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường của Việt Nam.
Và đối với những người làm công tác kế toán thì việc nắm vững các kiến thức về
chuẩn mực kế toán là một yêu cầu cơ bản khi làm việc.
Để góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn, nhằm nâng cao trình độ cũng như
chất lượng hoạt động khi ban hành các CMKT mới tại Việt Nam, nhóm chúng tôi đã tìm


Trang1


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

hiểu và nghiên cứu đề tài: “Đánh giá và nhận xét một số chuẩn mực kế toán quốc tế và
chuẩn mực kế toán Việt Nam”.
Do sự am hiểu về lý luận còn hạn chế, lúng túng khi tiếp cận sự khác biệt quá lớn
giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế nên bài viết của chúng
tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Với mong muốn nâng cao kĩ năng thực hành thông
qua việc tiếp cận thực tế cũng như mong muốn nắm bắt những vấn đề khó khăn trong việc
ban hành mới các chuẩn mực kế toán tại Việt Nam, rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo và các bạn đọc để đề tài chúng tôi được hoàn thiện hơn.
2. Mục đích ngiên cứu
* Về lý luận: Khái quát hóa những cơ sở lý luận về một số chuẩn mực kế toán quốc tế và
chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện nay.
* Về thực tiễn: Tìm hiểu và phân tích một số chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế
toán Việt Nam, từ đó rút ra được những ưu và nhược điểm của chuẩn mực kế toán quốc tế
so với chuẩn mực kế toán Việt Nam. Mục đích nhằm đưa ra một số giải pháp phát triển
chuẩn mực kế toán Việt Nam theo hướng chuẩn mực kế toán quốc tế nhằm góp phần quan
trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, tạo dựng mối quan hệ vững
chắc với các doanh nghiệp nước ngoài, đưa nền kinh tế của Việt Nam ngày càng đi lên
đồng thời tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Đưa ra những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam
nhằm góp phần hoàn thiện hơn hệ thống các chuẩn mực kế toán Việt Nam theo hướng hội
nhập quốc tế, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, tạo dựng mối quan hệ vững chắc
với các doanh nghiệp nước ngoài, đưa nền kinh tế của Việt Nam ngày càng đi lên đồng
thời tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng:
- Nghiên cứu những cơ sở lý luận về các chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực
kế toán ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu đánh giá và lựa chọn các chuẩn mực kế toán cho phù hợp với thông
lệ quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Trang2


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

Do thời gian có hạn và số lượng sinh viên tham gia nghiên cứu còn hạn chế nên nên
nhóm chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu những điểm giống và khác biệt của ba chuẩn
mực kế toán thông dụng thường hay áp dụng tại Doanh nghiệp cụ thể là:
- Thứ nhất: Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 4 (VAS 4) “Tài sản cố định vô hình” so
với Chuẩn mực kế toán quốc tế số 38 (IAS 38) “Intangible Assets”.
- Thứ hai: Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 16 (VAS 16) “Chi phí đi vay” so với
Chuẩn mực kế toán quốc tế số 23 (IAS 23) “Borriwing Costs”.
- Thứ ba: Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 27 (VAS 27) “Báo cáo tài chính giữa
niên độ” so với Chuẩn mực kế toán quốc tế số 34 (IAS 34) “Interim Financial Reporting”.
Đồng thời luận văn đề xuất một số giải pháp để phát triển chuẩn mực kế toán Việt Nam
theo hướng chuẩn mực kế toán quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu:
* Về mặt phương pháp luận: Bài vết dựa vào phương pháp duy vật biện chứng.
* Phương pháp cụ thể: Bài viết sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp
mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp quy nạp,
diễn giải,…trong quá trình nghiên cứu lý luận, khảo sát và thu thập thông tin cho việc ban

hành mới các chuẩn mực kế toán tại Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Hệ thống hóa những cơ sở lý luận về các chuẩn mực kế toán tại Việt Nam và trên
quốc tế.
- Bài viết đi sâu tìm hiểu về một số chuẩn mực kế toán tại Việt Nam và trên quốc
tế, từ đó rút ra được những ưu nhược điểm của từng chuẩn mực kế toán hiện có tại Việt
Nam nhằm làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hơn trong việc ban hành một chuẩn mực
kế toán mới góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, tạo
dựng môi trường kinh doanh phù hợp với khu vực quốc tế. Hơn nữa, nhằm đảm bảo hệ
thống kế toán Việt Nam luôn phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế ,duy trì niềm tin cho
các nhà nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời đưa nền kinh tế của Việt Nam ngày
càng ổn định và phát triển hơn nữa.
6. Cấu trúc của bài Nghiên cứu:
Trang3


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

Bài viết gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quá trình hình thành của chuẩn mực kế toán quốc tế và chuần
mực kế toán Việt Nam
Chương 2: Phân tích sự giống và khác nhau giữa chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn
mực kế toán Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp để phát triển chuẩn mực kế toán Việt Nam theo hướng
chuẩn mực kế toán quốc tế

Trang4



Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA CHUẨNMỰC KẾ
TOÁN QUỐC TẾ VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
1.1.1. Khái niệm về chuẩn mực kế toán
Theo khoản 1 điều 8, luật kế toán số 03/2003/QH11 thì “chuẩn mực kế toán gồm
những nguyên tắc và những phương pháp kế toán cơ bản để ghi sổ kế toán và lập báo cáo
tài chính”.
Như vậy, các chuẩn mực kế toán là các văn bản tập hợp các nguyên tắc và phương
pháp kế toán ở mức độ tổng quát để định hướng cho các doanh nghiệp trong việc ghi sổ
kế toán các giao dịch của doanh nghiệp cũng như trong việc lập báo cáo tài chính.
Kết cấu của một chuẩn mực kế toán gồm các phần sau:
- Mục đích của chuẩn mực
- Phạm vi của chuẩn mực
- Các định nghĩa sử dụng trong chuẩn mực
- Phần nội dung chính gồm các nguyên tắc, các phương pháp, các yêu cầu về lập
và trình bày báo cáo tài chính.
1.1.2. Sự cần thiết phải có chuẩn mực kế toán
Mục đích chung của việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán là để thống
nhất các hoạt động kế toán trong một phạm vi địa lý (đó có thể là trong một quốc gia,
trong một khu vực hay trên toàn cầu). Chuẩn mực kế toán sẽ cho phép các nhà đầu tư
cũng như các nhà công ty lớn đưa ra các quyết định kinh doanh và đầu tư kịp thời và đúng
đắn.
Chính bởi lẽ đó, chuẩn mực kế toán sẽ giúp cho người sử dụng có thể so sánh được
các báo cáo tài chính với nhau để đưa ra quyết định đúng đắn nhất.Tất nhiên, điều này sẽ

còn phải tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Hiện nay có nhiều cách thức khác nhau để sắp xếp
Trang5


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

và chuẩn bị các báo cáo tài chính. Một trong những trở ngại mà nhà đầu tư phải vượt qua
đó là đưa ra các quyết định đầu tư khi mà các thông tin tài chính được báo cáo dưới nhiều
hình thức khác nhau. Mỗi quốc gia có những yêu cầu riêng của mình và quy trình mà mỗi
quốc gia đó phải tuân theo. Khi việc toàn cầu hóa các chuẩn mực kế toán xảy ra sẽ gây ra
một vài vấn đề khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài vì việc xem xét các báo cáo tài
chính được chuẩn bị dưới các chuẩn mực khác nhau sẽ là một thách thức lớn đối với họ.
Trong nhiều trường hợp, nếu như không có chuẩn mực kế toán các công ty sẽ sử
dụng nhiều phương pháp khác nhau để lập và trình bày báo cáo tài chính của mình. Ví dụ,
nếu như không có chuẩn mực kế toán thì sẽ có công ty ghi nhận chi phí sửa chữa và bảo
trì tài sản vào giá trị tài sản với lý do là các chi phí đó giúp tài sản duy trì được trạng thái
hoạt động tốt và nhờ đó đem lại lợi ích kinh tế cho công ty. Thế nhưng sẽ có công ty khác
lại lý luận rằng chi phí sửa chữa và bảo trì tài sản chỉ giúp cho tài sản duy trì trạng thái
hiện tại chứ không làm tăng thêm lợi ích kinh tế từ tài sản. Do đó, công ty không ghi nhận
chi phí đó vào giá trị tài sản. Mỗi công ty đều cho rằng lý luận của mình đúng và lập báo
cáo tài chính theo những cách khác nhau. Và tất yếu, hai báo cáo tài chính của hai công ty
không thể đem ra so sánh với nhau được do chúng không được lập trên cùng một cơ sở.
Ngoài ra, việc thiếu một bộ chuẩn mực kế toán sẽ là cơ hội cho các công ty sử
dụng các thủ pháp hay thủ thuật kế toán để làm đẹp báo cáo tài chính. Các công ty thậm
chí có thể biến tình trạng thua lỗ của công ty thành có lãi.
Việc thiếu chuẩn mực kế toán cũng tạo cơ hội cho các công ty được tùy ý trình bày
các thông tin có liên quan đến các đối tượng kế toán trên báo cáo tài chính và chỉ trình
bày những thông tin có lợi cho mình.

Chính vì những vấn đề trên, người sử dụng báo cáo tài chính sẽ không thể đưa ra
một quyết định kinh tế hợp lý dựa vào các thông tin trên báo cáo tài chính được. Ví dụ,
nhà đầu tư không thể đưa ra quyết định chọn lựa công ty nào để đầu tư vốn. Ngân hàng sẽ
không thể đánh giá được tình hình tài chính cũng như khả năng trả nợ của các công ty
trong quá trình thẩm định tín dụng để quyết định nên cho công ty nào vay. Các cơ quan

Trang6


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

thuế có thể thu không đủ thuế. Nhà nước không thể đánh giá được một cách chính xác
hiệu quả hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp…
Ngoài ra, việc có một bộ chuẩn mực kế toán cũng giúp ích cho người sử dụng báo
cáo tài chính trong việc đọc và phân tích các báo cáo tài chính trở nên dễ dàng hơn.
Người sử dụng báo cáo tài chính có thể hiểu được cấu trúc của báo cáo tài chính, bản chất
của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính, hiểu được các thuyết minh báo cáo tài chính bằng
cách đọc các chuẩn mực kế toán. Từ đó, người sử dụng báo cáo tài chính mới có thể đưa
ra các phân tích chính xác về hiệu quả hoạt động của công ty.
Một lợi ích nữa mà người sử dụng báo cáo tài chính có thể thu được từ các chuẩn
mực kế toán đó là sự đảm bảo rằng các công ty và các kiểm toán viên thực hiện việc kiểm
toán báo cáo tài chính đã tuân thủ các chuẩn mực kế toán trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ của mình. Người sử dụng có thể không có kiến thức về kế toán cũng như không đủ khả
năng để hiểu được các chuẩn mực kế toán nhưng nếu họ nghi ngờ về tính trung thực và
hợp lý của các báo cáo tài chính thì họ có thể thuê một tổ chức chuyên nghiệp để kiểm
định việc tuân thủ các chuẩn mực kế toán của ban giám đốc các công ty cũng như của các
kiểm toán viên có liên quan. Như vậy, việc ban hành các chuẩn mực kế toán là một cách
để tăng thêm lòng tin cho người sử dụng báo cáo tài chính đối với các báo cáo tài chính

và ngăn ngừa nguy cơ gian lận trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính.
Ngoài ra, chuẩn mực kế toán còn góp phần làm giảm chi phí đầu tư ở các thị
trường khác nhau. Lợi ích này có thể được nhận ra từ việc cắt giảm bớt công việc mà bình
thường trước đây nhà đầu tư yêu cầu được xem lại hồ sơ ghi chép tài chính đối với thị
trường nước ngoài.Các công ty đa quốc gia cũng có thể hợp lý hóa các loại báo cáo và
giảm bớt các chi phí liên quan trong việc thiết kế lại các báo cáo kế toán khác nhau thành
những báo cáo kế toán dễ đọc và dễ so sánh cho các nhà quản lý.
Tiếp đó là chúng cũng góp phần làm tăng uy tín, niềm tin cho các nhà đầu tư trên
thị trường với điều kiện là chuẩn mực này phải được áp dụng một cách nghiêm ngặt bởi
sự tuân thủ cao. Các công ty này có thể có đánh giá để tiến hành đầu tư, thiết lập các cơ

Trang7


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

sở sản xuất kinh doanh, các dự án hoặc thậm chí đầu tư vào các lĩnh vực mới tại nước
ngoài.

Trang8


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

1.1.3. Phân loại chuẩn mực kế toán
Hiện nay trên thế giới đang có hai hệ thống chuẩn mực là chuẩn mực kế toán quốc

tế và chuẩn mực kế toán quốc gia.
Các chuẩn mực kế toán quốc gia được soạn thảo và ban hành theo những cơ chế rất
khác nhau ở mỗi nước. Do mỗi nước có điều kiện kinh tế và chính trị rất khác nhau nên
các chuẩn mực kế toán giữa các nước có nhiều sự khác biệt.
Chuẩn mực kế toán quốc tế được soạn thảo và ban hành bởi Hội đồng chuẩn mực
kế toán quốc tế (IASB). Mục đích của việc ban hành chuẩn mực kế toán quốc tế là để tạo
ra một sự hài hòa quốc tế trong lĩnh vực kế toán, để giảm bớt các chi phí của việc các báo
cáo tài chính được lập và trình bày theo những chuẩn mực kế toán có nhiều khác biệt giữa
các nước. Các chuẩn mực kế toán quốc tế sau một thời gian dài phát triển đã được đón
nhận bởi nhiều nước trên thế giới. Xu hướng của các nước hiện nay là cố gắng đưa ra các
chuẩn mực quốc gia phù hợp mà đồng thời tiếp cận được với các chuẩn mực kế toán quốc
tế.
1.2. CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chuẩn mực kế toán quốc tế
1.2.1.1. Sự cần thiết phải có chuẩn mực kế toán quốc tế và những rào cản đối với việc
hình thành chuẩn mực kế toán quốc tế
 Giai đoạn hình thành:
Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử kế toán, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều
tài liệu ghi khắc trên các cổ vật bằng đá, bằng đất nung của các dân tộc xa xưa cho thấy
kế toán đã xuất hiện rất lâu, từ khoảng 3, 4 ngàn năm trước công nguyên. Điều này như
minh chứng rõ hơn về lịch sử của kế toán: hình thành và phát triển cùng lúc với sự hình
thành đời sống kinh tế xã hội của loài người.
Để có thể tồn tại và phát triển trước những thử thách khắc nghiệt của giới tự
nhiên,con người luôn tìm mọi cách đương đầu và vượt khó khăn, cố gắng nâng cao đời
sống thông qua hoạt mua bán trao đổi hàng hóa. Và để hỗ trợ trong việc đo lường hiệu
quả, đánh giá và tiên liệu những hoạt động kinh tế phát sinh, con người đã sử dụng một
Trang9


Báo cáo nghiên cứu khoa học


GVHD: ThS. Trương Văn Trí

công cụ, đó chính là hạch toán. Khi xã hội phát triển thì công cụ này cũng ngày càng phát
triển, phong phú và đa dạng về nội dung, hình thức và phương pháp.Phương pháp hạch
toán kế toán ra đời và trở thành một bộ phận không thể tách rời của lịch sử hạch toán.
Có thể nói trước khi trở thành một môn khoa học độc lập, hạch toán kế toán đơn
thuần chỉ là công cụ được con người sử dụng để phản ánh, sao chép hiện thực của đời
sống kinh tế một cách thụ động trong đầu óc của con người, không có sự hỗ trợ của các
công cụ tính toán, dù là thô sơ nhất. Cho đến khi chữ viết và số học cao cấp ra đời, đỉnh
cao là việc phát minh ra hệ đếm thập phân và sử dụng rộng rãi chữ số Ả rập, đã tạo điều
kiện cho hạch toán kế toán phát triển, xuất hiện phương pháp hạch toán kế toán đầu tiên:
phương pháp kế toán đơn. Phương pháp này chịu sự ảnh hưởng nhiều bởi nền văn minh
La Mã cổ đại và Ba Tư, thể hiện ở sự lệ thuộc vào các quy tắc của tài khoản tài sản và tiền
tệ khi họ cho rằng, ban đầu người ta cần kê lại mọi tài sản, do đó phương pháp kiểm kê ra
đời trước tiên. Tuy nhiên để thực hiện công việc này, cần thiết phải phân loại tài sản theo
một số tiêu thức nhất định, điều này đã dẫn đến việc hình thành một phương pháp mới:
phương pháp tài khoản, và tài khoản trở thành một hệ thống thống nhất khi xuất hiện
thước đo bằng tiền tệ.
 Giai đoạn phát triển
Tuy nhiên do đời sống xã hội con người ngày càng phát triển, để có thể đáp ứng
được nhu cầu sống và kinh doanh, phương pháp kế toán cũng ngày càng chi tiết và tỉ mỉ
hơn.
Năm 1494, phương pháp ghi sổ kép do Luca Pacioli- một nhà toán học người Ý tạo
ra được xem là một bước ngoặc mới trong quá trình phát triển kế toán. Cách thức ghi
chép vào sổ cái, kỹ thuật ghi sổ kép cũng như các nguyên tắc kế toán căn bản, sự cân
bằng giữa nợ và có trong phương pháp này đã đưa kế toán lần đầu tiên được xem như một
môn khoa học và gây ảnh hưởng mạnh đến đời sống kinh tế xã hội của loài người khi
được ứng dụng trên toàn thế giới.
Có thể nói Luca Pacioli là một trong những nhà lý luận tiêu biểu của trường phái

xem kế toán như một môn khoa học có tính phương pháp luận tổng hợp. Tuy nhiên,
trường phái này lại quá cường điệu
Sự phát triển của kế toán ở các nước thường có sự khác nhau về các qui định và
cách thức hạch toán kế toán cộng thêm sự khác biệt về hệ thống kinh tế và điều kiện
Trang10


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

thương mại giữa các nước dẫn đến sự khác nhau giữa các nước về mô hình và phương
pháp kế toán.
Sự khác nhau này tạo nên nét đặc trưng của hệ thống kế toán mỗi quốc gia nhưng
lại có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của thị trường thế giới và có thể làm giảm sút khả
năng hợp tác, tìm kiếm vốn để cạnh tranh một cách có hiệu quả. Trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, sự tồn tại của hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế với vai trò là ngôn ngữ
chung để làm cầu nối cho các nền kinh tế là một nhu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, những rào cản đối với việc tạo lập các chuẩn mực kế toán chung là khá
nhiều:
Đối với những người theo chủ nghĩa hoài nghi thì họ tin rằng chuẩn mực kế toán
quốc tế sẽ rất là phức tạp vì nó còn liên quan đến các vấn đề thuộc về quy định và luật
pháp tại các nước sở tại. Hơn thế nữa, chuẩn mực kế toán quốc tế cũng vừa mới ra đời
nên vẫn còn trẻ và vẫn còn nhiều cơ hội để phát triển và hoàn thiện hơn. Cũng có nhiều
câu hỏi được đặt ra trong vấn đề này đó là thực chất của quá trình xích lại gần nhau của
GAAP(“generally accepted accounting principles” – là thuật ngữ kế toán bao gồm các
nguyên tắc, quy tắc và thông lệ kế toán được chấp nhận) và IFRS là như thế nào? Chuẩn
mực kế toán toàn cầu sẽ là một sự kết hợp mang tính toàn diện hay là sự kết hợp bao gồm
cả 2 hệ thống (hệ thống kế toán dựa trên các điều luật và hệ thống kế toán dựa trên các
quy tắc) nhưng tách biệt nhau.

Một sự chấp nhận đối với một chuẩn mực kế toán dựa trên các nguyên tắc có nghĩa
là đã cho nó một chỗ đứng qua việc làm hiểu rõ các nguyên tắc kế toán được áp dụng như
thế nào. Chính điều này có thể chứa đựng những rủi ro tiềm tàng tạo ra sự không nhất
quán đối với các báo cáo của các quốc gia. Trên thực tế, đây là một sự cản trở cho các
quốc gia trong việc nỗ lực tham gia quá trình toàn cầu hóa này.
Ủy ban Châu Âu, một bộ phận điều hành của Khối liên minh Châu Âu trong lĩnh
vực này cũng đã thành lập những bộ phận tư vấn như là một sự xác nhận của IFRS.
Eumedion - một diễn đàn về quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư cũng bày tỏ
những mỗi quan tâm của mình đối với việc chuyển đổi sang hệ thống kế toán dựa trên các
nguyên tắc này. Qua diễn đàn, cũng có nhiều ý kiến bày tỏ rằng sẽ có những rủi ro tiềm
Trang11


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

ẩn đó là các thông tin tiêu cực sẽ không được chia sẻ với các thành viên của Ủy ban chuẩn
mực kế toán quốc tế và cuối cùng nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình quản trị công ty. Diễn
đàn cũng nhìn nhận và chỉ thẳng ra các vấn đề còn tồn tại như là thiếu tính khách quan,
không có khả năng so sánh, thiếu các thông tin về địa lý và sự không nhất quán đối với
các tiêu chí đo lường mà họ đã áp dụng.
Một mối quan tâm khác cũng được đưa ra thảo luận đó là ảnh hưởng của nó đến
những người thuộc cộng đồng quốc gia Hồi giáo, nơi mà con người có thói quen là đặt
niềm tin vào đồng tiền. Thời kỳ phát triển của nền tài chính Hồi giáo thường được biết
đến là vào năm 1970 với sự ra đời hàng loạt các ngân hàng Hồi giáo tại Ả Rập và Tiểu
vương quốc Ả Rập thống nhất. Nền tài chính của Hồi giáo phát triển được dựa trên nguồn
gốc là luật Hồi giáo và Sharia. Sharia tuyên bố rằng không có khoảng cách nào giữa nhà
thờ và nhà nước của họ, đó là một thế thống nhất.
Khi xem xét các vấn đề đã nêu trên có thế thấy rằng việc toàn cầu hóa đối với

chuẩn mực kế toán sẽ xảy ra trong một tương lai không xa. Và mục tiêu của IFRS nhằm
thúc đẩy các công ty đa quốc gia hoạt động với một một sự thống nhất cao và quyết liệt
trong việc áp dụng các chuẩn mực kế toán.
Sự khác biệt trong mục đích sử dụng báo cáo tài chính giữa các nước: ở một số
nước báo cáo tài chính chỉ đơn thuần được lập cho mục đích tính thuế, còn ở nước khác là
để hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của nhà đầu tư. Điều đó sẽ khiến cho yêu cầu trình
bày báo cáo chi tiết đến mức độ nào và chi tiết những khoản mục nào là khác nhau giữa
các nước.
Do hệ thống pháp luật khác nhau dẫn đến sự hạn chế của một số hoạt động kế toán
và điều này đương nhiên sẽ được phản ánh trong các chuẩn mực kế toán.
Ngoài ra, mỗi nước có một quan điểm khác nhau về người sử dụng báo cáo tài
chính và tầm quan trọng của họ. Như ở Mỹ thì nhà đầu tư và các tổ chức tín dung được
đặt ưu tiên lên hàng đầu trong khi ở Châu Âu thì người lao động lại được quan tâm nhiều
hơn.
Các nước đang phát triển hiển nhiên đang chậm chân hơn so với các nước đã phát
triển trong việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán. Có những quy tắc và những chuẩn mực
Trang12


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

cơ bản đã được ban hành từ lâu ở các nước đã phát triển thì nay mới chỉ được các nước
đang phát triển tiến hành soạn thảo.
Sự khác biệt về văn hóa khiến cho mục tiêu của hệ thống kế toán khác nhau giữa
các nước.
Một vài nước phải ở vào trong những hoàn cảnh đặc biệt như siêu lạm phát, nội
chiến, hạn chế lưu thông tiền tệ,… tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội cũng như ảnh
hưởng lớn tới các công ty khiến cho họ không thể lập được các báo cáo theo các tiêu

chuẩn bình thường.
Hơn nữa,một số nước không có một tổ chức kế toán độc lập đủ vững mạnh để tạo
áp lực dư luận giúp cho việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán tốt hơn và thúc đẩy sự hài
hòa về các nguyên tắc kế toán giữa các quốc gia.
1.2.1.2. Sự hình thành và phát triển của tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế:
* Ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC):
a, Ra đời năm 1973 ở London, nước Anh:
Thế nhưng, bất chấp những rào cản kể trên, năm 1973, Ủy ban xây dựng chuẩn
mực kế toán quốc tế (IASC) đã ra đời tại London, nước Anh với tư cách là tổ chức soạn
thảo chuẩn mực quốc tế đầu tiên trên thế. Sự ra đời của IASC là kết quả của một thỏa
thuận giữa các hiệp hội nghề nghiệp của các nước Autralia, Canada,Pháp, Đức,
Nhật,Mexico, Phần Lan, Anh, Ireland và Mỹ.
IASC được thành lập trong một thời kỳ chứng nhiều biến động trong quy định kế
toán. Ở Mỹ, Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) vừa mới được thành lập. Ở
Anh, cơ quan soạn thảo chuẩn mực quốc gia đầu tiên ra đời (accounting standads
committee – ASC). Trong khi đó, EU đang soạn thảo những điểm chính trong kế hoạch
hài hòa hóa hệ thống kế toán của riêng mình (được đánh dấu bởi sự ra đời của chỉ thị số
bốn (fourth directive) ban hành ngày 25/7/1978 bởi hội đồng liên minh Châu Âu). UN và
OECD tại thời điểm này cũng vừa mới thành lập hội đồng kế toán của riêng mình.
b, Giai đoạn nỗ lực để tồn tại như một tổ chức độc lập với IFAC và duy trì vai trò là
tổ chức duy nhất soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế:
Đến năm 1977, Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) được thành lập. IASC đã phải
đấu tranh quyết liệt để kháng cự lại những nỗ lực muốn biến IASC thành thành viên của
Trang13


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí


IFAC. Cuối cùng, IASC phải đi đến một nhượng bộ là dù cho IASB vẫn tồn tại độc lập
với IFAC nhưng các thành viên của IFAC tự động trở thành viên của IASC và IFAC có
thể đề cử thành viên cho cơ quan soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Cả UN và OECD trong giai đoạn những năm 70 của thế kỷ 19 đều rất tích cực
soạn thảo những nguyên tắc kế toán quốc tế. Thế nhưng, IASC đã thành công trong việc
thuyết phục UN và OECD hãy để IASC soạn thảo những nguyên tắc quốc tế về ghi nhận
và xác định giá trị của các đối tượng kế toán.
Như vậy, IASC đã thành công trong việc duy trì vai trò của mình là tổ chức soạn
thảo chuẩn mực kế toán quốc tế duy nhất trên thế giới. Tuy nhiên, IASC lại gặp khó khăn
trong việc thuyết phục mọi người sử dụng các chuẩn mực do chính mình soạn thảo ra. Dù
cho các thành viên của IASC đã cam kết thúc đẩy việc sử dụng các chuẩn mực kế toán
quốc tế ở mỗi quốc gia nhưng trên thực tế thì một số hiệp hội nghề nghiệp thành viên lại ít
có ảnh hưởng trong việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc gia, một số hiệp hội thành
viên lại ưa chuộng chuẩn mực kế toán của quốc gia mình hơn là những chuẩn mực kế
toán do IASC soạn thảo và ban hành.
c. Những nỗ lực tìm kiếm sự tiếp nhận của cộng đồng thế giới đối với những chuẩn
mực kế toán quốc tế của IASC:
Năm 1987 đánh dấu một bước chuyển mới trong nỗ lực thúc đẩy việc sử dụng các
chuẩn mực quốc tế của IASC. Được sự ủng hộ và khích lệ từ ủy ban chứng khoán Mỹ
(US SEC), tổng thư ký IASC, ông David Cairns, đã ký một thỏa thuận với tổ chức thế
giới các ủy ban chứng khoán (IOSCO). Theo đó, IASC sẽ xem xét sửa đổi các chuẩn mực
kế toán quốc tế hiện có của mình để có thể thỏa mãn nhu cầu của IOSCO là cần có một
tập hợp các chuẩn mực làm cơ sở chung cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính của
các công ty muốn được niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài.
IASC đã hoàn thành việc sửa đổi các chuẩn mực kế toán quốc tế vào năm 1993.
Thế nhưng, IOSCO đã đưa ra một quyết định làm cho IASC vô cùng thất vọng. Thay vì
sử dụng toàn bộ bộ chuẩn mực kế toán quốc tế do IASC soạn thảo, IOSCO chỉ lựa chọn
một số chuẩn mực để áp dụng.
Đến năm 1995, IASC với một ban lãnh đạo hoàn toàn mới đã tiến hành xem xét và
sửa đổi một lần nữa các chuẩn mực kế toán quốc tế đã được ban hành với mong muốn

khắc phục những khiếm khuyết trong các chuẩn mực kế toán đó. Lần này, với rất nhiều
Trang14


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

nỗ lực và nhượng bộ, bộ chuẩn mực kế toán quốc tế đã được sửa đổi của IASC đã được
IOSCO chấp nhận vào phụ lục nhưng đó chỉ mới là sự chấp nhận tạm thời.
Cùng thời gian đó, IASC cũng quan tâm xem xét tới việc tổ chức lại cơ cấu của
mình. Trong vòng 25 năm kể từ khi IASC được thành lập, mô hình soạn thảo chuẩn mực
kế toán mà theo đó việc soạn thảo các chuẩn mực là do các hội nghề nghiệp đảm trách, đã
và đang dần được thay thể bởi mô hình mới. Đó là mô hình mà việc soạn thảo các chuẩn
mực kế toán được giao cho một hội đồng quốc gia chuyên trách và độc lập thay vì cho
một hội nghề nghiệp kế toán đảm trách. Sự chuyển đổi này có thể thấy ở Anh và Mỹ. Ở
Mỹ, việc soạn thảo chuẩn mực kế toán được giao cho Hội đồng chuẩn mực kế toán tài
chính (FASB) thay vì cho hiệp hội kế toán công chứng Mỹ (AICPA). Còn ở Anh là giao
cho Ủy ban chuẩn mực kế toán (ASC) sau đổi thành hội đồng chuẩn mực kế toán (ASB)
thay vì cho hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA).
d. Mốc son năm 2000:
Năm 2000 có thể nói là một năm có nhiều biến động với IASC. Tháng 5 năm 2000,
các thành viên IOSCO đã bỏ phiếu chấp nhận chính thức tất cả các chuẩn mực kế toán
quốc tế của IASC. Đây là một bước tiến đáng kể sau rất nhiều nỗ lực kiên trì và bền bỉ
của các thành viên IASC với hai lần sửa đổi chuẩn mực kế toán kế toán quốc tế vào năm
1993 và 1995. Giấc mơ về một bộ chuẩn mực kế toán chung được sử dụng rộng rãi trên
toàn thế giới đã có cơ hội được trở thành hiện thực bất chấp rất nhiều khó khăn và rào
cản. IASC cuối cùng đã nhận được sự hậu thuẫn của các cơ quan quản lý chứng khoán
toàn cầu thông qua IOSCO.
Tháng 6 năm 2000, Cao Ủy Châu Âu đưa ra tuyên bố sẽ đưa việc sử dụng các

chuẩn mực kế toán quốc tế của IASC trong việc lập trình và trình bày báo cáo tài chính
làm điều kiện cho các công ty có ý định niêm yết chứng khoán tại bất kỳ nước thành viên
nào của Liên Minh Châu Âu (EU). Đây là một thành công ngoài sự mong đợi của IASC.
Kể từ thời điểm đó, EU đã trở thành một tổ chức có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tiến trình
thúc đẩy sự tiếp nhận của cộng đồng thế giới đối với các chuẩn mực kế toán quốc tế. Quả
thực, sự hậu thuẫn từng một thời là cứu cánh của IOSCO đối với IASC nay đã giảm bớt
tầm quan trọng trước tuyên bố trên của Cao Ủy Châu Âu.
Trang15


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

Tiếp đó, tháng 7 năm 2000, các thành viên của IASC đã bỏ phiếu tán thành chuyển
đổi cơ cấu từ chỗ dựa trên các hiệp hội nghề nghiệp thành một hội đồng soạn thảo chuẩn
mực kế toán chuyên trách và độc lập với các hội nghề nghiệp. Ủy ban xây dựng chuẩn
mực kế toán quốc tế (IASC) chính thức đổi tên thành Hội đồng kế toán quốc tế (IASB).
* Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB):
Đến năm 2001, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB – International
Accounting Standards Board) ra đời thay thế IASC và tồn tại cho đến ngày nay. Cấu trúc
của IASB có những cơ quan như sau:
Đứng đầu là Ban quản trị ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC
foundation). Đây là một pháp nhân độc lập gồm hai bộ phận – các ủy viên quản trị
(trustee) và IASB. Ban quản trị ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế là cơ quan
nắm giữ bản quyền của các chuẩn mực kế toán quốc tế và các văn bản khác của IASB.
Các ủy viên quản trị chỉ định các thành viên của IASB, thực hiện việc giám sát và
gây quỹcần thiết. Còn IASB có toàn bộ trách nhiệm đối với việc soạn thảo các chuẩn mực
kế toán.
Ngoài ra, cơ cấu của IASB còn bao gồm hai cơ quan nữa là Hội đồng tư vấn chuẩn

mực (Standards Advisory Council –SAC) và Ủy ban giải thích các chuẩn mực kế toán
quốc tế(International Financial Reporting Interpretations Committee – IFRI).

Trang16


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

Ban quản trị ủy ban xây dựng
chuẩn mực kế toán quốc tế (22 ủy
viên)
Các tổ chức soạn thảo
chuẩn mực kế toán quốc
gia và các bên liên quan

Hội đồng chuẩn mực kế toán
quốc tế (14 thành viên)

Ủy ban giải thích các
chuẩn mực kế toán quốc
tế (12 thành viên)

Hội đồng tư vấn chuẩn mực

Bảng 1 : Sơ đồ cấu trúc IASB
Các ủy viên quản trị (trustees) bao gồm một nhóm 20 người đến từ những khu vực
Chú thích


Bổ nhiệm

địa lý khác nhau và có những kinh nghiệm hoạt động khác nhau. Các ủy viên quản trị bổ
Báo
cáo cho
nhiệm thành viên của
IASB,
IFRIC, SAC. Bên cạnh việc giám sát IASC để đảm bảo hoạt

động hiệu quả của ủy
ban này và gây quỹ, các ủy viên quản trị còn phê chuẩn ngân sách
Có liên hệ với
của IASC và chịu trách nhiệm xem xét những thay đổi trong điều lệ hoạt động của hội
Tham vấn

đồng. Các ủy viên quản trị được bầu sao cho có 6 người đến từ Bắc Mỹ, 6 người đến từ
Châu Âu, 4 người đến từ Châu Á Thái Bình Dương và 3 người đến từ các khu vực khác
để đảm bảo sự cân bằng địa lý.
Hội đồng tư vấn chuẩn mực (Standards Advisory Council - SAC) tạo ra một cầu
nối chính thức giúp cho các tổ chức và cá nhân khác, những người mà đến từ những khu
vực địa lý khác nhau và có nền tảng học vấn đa dạng, được đưa ra những ý kiến góp ý cho
hội đồng và cũng có thể là tư vấn cho các ủy viên quản trị. Hội đồng này bao gồm 15
thành viên và gặp nhau ít nhất 3 lần một năm. Hội đồng này được tham vấn bởi IASB
trong những dự án quan trọng. Hội đồng cũng tư vấn cho IASB về những ưu tiên trong
lịch trình hoạt động và tác động của các chuẩn mực được đề xuất có ảnh hưởng đến người
sử dụng và người lập báo cáo tài chính.
Trang17


Báo cáo nghiên cứu khoa học


GVHD: ThS. Trương Văn Trí

Ủy ban giải thích chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRIC) đưa ra những chỉ dẫn về cách
áp dụng và giải thích các tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế. Ủy ban này chịu trách
nhiệm về những vấn đề báo cáo tài chính mới xuất hiện mà chưa được nêu ra trong các
tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế hoặc những vấn đề mà chưa có cách giải thích phù
hợp hoặc có những sự giải thích trái ngược.
Trong quá trình hoạt động, hội đồng này đã sửa đổi, bổ sung một số chuẩn mực kế
toán cũ, thay thế chuẩn mực kế toán cũ bằng những những chuẩn mực kế toán bằng trình
bày báo cáo tài chính và ban hành một số chuẩn mực kế toán mới về những vấn đề chưa
được đề cập trước đó.
1.2.1.3. Sự tiếp nhận của cộng đồng quốc tế đối với các chuẩn mực kế toán quốc tế
Ngoài hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế, mỗi quốc gia lại cho sự lựa chọn riêng
để xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán của mình. Các quốc gia vận dụng 100% các
chuẩn mực kế toán quốc tế mà không cần sự sửa đổi, bổ sung (như Nam Phi, Mông Cổ,
Thụy Sỹ,…); có quốc gia tuy vận dụng 100% chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng có thêm
phụ lục để bổ sung hoặc bớt đi một số nội dung (như Malaysia, Singapo,…); có quốc gia
vận dụng có chọn lọc các nội dung của chuẩn mực kế toán quốc tế và sửa đổi bổ sung
thêm để phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế quốc gia mình (như Anh, Pháp, Việt
Nam…) và có quốc gia tự xây dựng hệ thống chuẩn mực có sử dụng chuẩn mực kế toán
quốc tế (như Mỹ, Thái Lan,…).
1.2.2. Quy trình soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế
Chuẩn mực kế toán quốc tế được hình thành qua một hệ thống các quy trình chuẩn
và được sự tham vấn rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
Quy trình chuẩn cho việc soạn thảo một chuẩn mực kế toán quốc tế gồm các bước
sau:
Bước 1: Các nhân viên của IASB sẽ nhận diện, xem xét và đề xuất các vấn đề mà có thể
làm cho hội đồng quan tâm. Hội đồng sẽ thảo luận về các dự án tiềm năng và quyết định
để theo đuổi một dự án phải được đưa ra trong một cuộc họp hội đồng công khai. Trước


Trang18


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

khi đi đến một quyết định như vậy, IASB sẽ tham vấn SAC để lên một lịch trình hoạt
động và đặt ra các ưu tiên.
Đề xuất dự án soạn thảo chuẩn mực kế
toán quốc tế

Xem xét việc hợp tác với các tổ chức
soạn thảo chuẩn mực quốc gia

Thành lập các nhóm làm việc
(working group)

Đưa ra văn bản mời thảo luận
(discussion paper)

Công bố bản thảo lấy ý kiến công
chúng (exposure draft)

Thu thập và xem xét các nhận xét

Soạn thảo chính thức chuẩn mực kế
toán quốc tế


Bảng 2: Quy trình chuẩn cho việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế.

Trang19


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

Bước 2: Khi đưa một dự án vào một lịch trình hoạt động, IASB sẽ quyết định có thực
hiện dự án đó một mình hay là sẽ hợp tác với các tổ chức soạn thảo chuẩn mực khác.
Bước 3: Sau khi xem xét bản chất của vấn đề, IASB sẽ thiết lập một nhóm làm việc.
Bước 4: Mặc dầu một văn bản mời thảo luận không phải là một bước bắt buộc trong quy
trình chuẩn, IASB vẫn thường công bố một văn bản mời thảo luận cho những chủ đề mới
quan trọng. Thông thường thì một văn bản mời thảo luận sẽ bao gồm một phần tổng quát
về vấn đề được bàn luận, các cách tiếp cận để giải quyết vấn đề, quan điểm ban đầu của
tác giả hay của IASB và một lời mời đưa ra ý kiến. Nếu IASB quyết định bỏ bước này thì
IASB phải đưa ra lý do giải thích.
Bước 5: Công bố bản thảo (draft) lấy ý kiến công chúng là một bước bắt buộc trong quy
trình chuẩn. Bản thảo này phải được chín thành viên của IASB phê chuẩn. Một bản thảo
sẽ bao gồm cơ sở để đưa ra kết luận và các quan điểm trái ngược từ các thành viên IASB
không phê chuẩn.
Bước 6: IASB sẽ xem xét những lời nhận xét và kết quả của những lần tham vấn khác.
Bước 7: Khi IASB thấy rằng hội đồng đã có thể đưa ra một kết luận về vấn đề đang được
thảo luận, hội đồng sẽ chỉ đạo cho nhân viên của mình soạn thảo chính thức các chuẩn
mực kế toán quốc tế. Một chuẩn mực kế toán mới phải được chính thành viên của IASB
phê chuẩn. Một chuẩn mực kế toán sẽ bao gồm cơ sở để đưa ra kết luận và các quan điểm
trái ngược từ các thành viên IASB không phê chuẩn.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa IASB và các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán của
các quốc gia là một nhân tố quan trọng giúp cho IASB có thể hoàn thành nhiệm vụ của

mình. IASB đang tìm cách để tạo ra sự hài hòa giữa quy trình chuẩn của IASB và quy
trình chuẩn của các quốc gia. Đặc biệt, IASB đang đề xuất một quy trình phối hợp giữa
IASB và các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia cho những dự án mang tầm
quốc tế. Quy trình đó như sau:
(a) IASB sẽ phối hợp với các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán của các quốc
gia để khi IASB bắt đầu thực hiện một dự án, các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán đó
sẽ đưa dự án đó vào kế hoạch hoạt động của mình. Nhờ đó, một sự đồng thuận quốc tế
cao trong việc soạn thảo chuẩn mực kế toán có thể đạt được. Tương tự, khi tổ chức soạn
thảo chuẩn mực kế toán của một quốc gia bắt đầu một dự án của họ, IASB cũng sẽ xem
Trang20


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

xét xem liệu hội đồng có cần soạn thảo một chuẩn mực kế toán mới hay xem xét lại các
chuẩn mực kế toán hiện hành. Qua một khoảng thời gian hợp lý, IASB và các tổ chức
soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia sẽ cùng xem xét lại tất cả các chuẩn mực nơi có sự
khác biệt đáng kể và ưu tiên cho những vấn đề có sự khác biệt lớn nhất.
(b) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia không bắt buộc phải dựa
theo các chuẩn mực kế toán quốc tế khi soạn thảo các chuẩn mực kế toán của quốc gia
mình vì mỗi nước có quyền tự do lựa chọn có sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, có
bổ sung sửa đổi một số điều hay là lựa chọn các chuẩn mực khác. Tuy nhiên, một sự đồng
thuận quốc tế sẽ là một nhân tố mà các nhà soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia sẽ xem
xét đến khi họ soạn thảo các chuẩn mực kế toán của quốc gia mình.
(c) IASB sẽ tiếp tục công bố bản dự thảo chuẩn mực lấy ý kiến công chúng của
riêng mình.
(d) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia cũng sẽ công bố cho công
chúng bản dự thảo chuẩn mực của riêng mình cùng thời gian với bản dự thảo chuẩn mực

của IASB và sẽ cùng kêu gọi những góp ý cho những sự khác biệt quan trọng trong cả hai
bản dự thảo. Trong một số trường hợp, các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia
có thể đưa vào bản dự thảo những quan điểm cụ thể về những vấn đề có liên quan đến
quốc gia họ hoặc có thể kèm theo những chỉ dẫn cụ thể thường có trong những văn bản
tương ứng của IASB.
(e) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia sẽ tuân theo quy trình soạn
thảo chuẩn mực riêng mà họ cho rằng là hài hòa nhất với quy trình soạn thảo chuẩn mực
của IASB. Sự hài hòa này sẽ loại bỏ mọi sự trì hoãn không cần thiết trong quá trình soạn
thảo chuẩn mực và hạn chế ở mức tối đa những sự khác biệt không cần thiết giữa chuẩn
mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán quốc gia.
1.2.3. Lợi ích của việc ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế
Các chuẩn mực kế toán quốc tế ra đời dựa trên nhu cầu thực tế của đời sống.
Chúng ta có thể liệt kê ra rất nhiều lợi ích của việc có những chuẩn mực quốc tế chung:
1.2.3.1. Lợi ích đối với các nhà đầu tư:
- Các nhà đầu tư, cả nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức, sẽ có thể so sánh
các kết quả tài chính của các công ty khác nhau nằm ở các nước khác nhau trên toàn thế
Trang21


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

giới cũng như đưa ra các quyết định đầu tư quốc tế một cách dễ dàng hơn và tốn kém ít
chi phí hơn.
1.2.3.2. Lợi ích đối với các công ty đa quốc gia:
- Các công ty đa quốc gia sẽ dễ dàng kêu gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư
nước ngoài hơn.
- Quản lý cũng dễ dàng hơn với các công ty này do cùng được soạn thảo trên một
chuẩn mực kế toán chung làm cho các thông tin tài chính được truyền tải giữa công ty con

và công ty mẹ dễ dàng hơn.
-Việc thâu tóm và sáp nhập các công ty nước ngoài cũng dễ dàng hơn. Các công ty
đa quốc gia cũng có thể tuân thủ theo các yêu cầu về báo cáo của các sở giao dịch chứng
khoán ở nước ngoài được thuận lợi hơn.
- Việc soạn thảo các báo cáo hợp nhất cấp tập đoàn sẽ không phải trải qua nhiều
bước chuyển đổi từ báo cáo theo chuẩn mực kế toán quốc gia nơi công ty con đóng trụ sở
sang báo cáo theo chuẩn mực kế toán nơi công ty mẹ đóng trụ sở.
- Phí kiểm toán sẽ được giảm bớt do khi các báo cáo cùng được lập trên cùng một
cơ sở thì sẽ tạo điều kiện cho kiểm toán kiểm tra nhanh hơn dẫn đến tốn ít thời gian và chi
phí hơn.
- Việc điều chuyển các nhân viên kế toán từ nước này sang nước khác sẽ trở nên dễ
dàng hơn.
1.2.3.3. Lợi ích đối với các nước đang phát triển:
Chính phủ của các nước đang phát triển cũng sẽ tiết kiệm được thời gian nếu họ có
thể sử dụng luôn các chuẩn mực kế toán quốc tế thay vì phải soạn thảo các chuẩn mực kế
toán riêng cho quốc gia mình. Nếu các quốc gia này sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc
tế thì họ có thể kiểm soát tốt hơn hoạt động của các công ty đa quốc gia đang hoạt động
trong phạm vi lãnh thổ của nước mình. Các công ty này không thể viện lý do là họ không
thể hiểu bản chất của các chuẩn mực kế toán quốc gia này.
1.2.3.4. Lợi ích đối với các cơ quan thuế:
Việc tính thuế cho các khoản thu nhập có nguồn gốc nước ngoài của các nhà đầu
tư hay của các công ty đa quốc gia sẽ dễ dàng hơn.

Trang22


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí


1.2.3.5. Lợi ích đối với việc xúc tiến thương mại trong khu vực:
Các tổ chức kinh tế khu vực có thể đẩy mạnh giao thương trong một khu vực địa lý
nhất định nhờ có các chuẩn mực kế toán chung làm nền tảng cho việc lập và cung cấp các
thông tin kế toán được thống nhất. Các nước trong khu vực tham gia buôn bán với nhau
không phải mất thời gian và chi phí tìm hiểu, nghiên cứu về chuẩn mực kế toán của nước
kia và cũng không tốn chi phí phải chuyển đổi báo cáo từ chuẩn mực của nước này sang
chuẩn mực của nước khác.
1.2.3.6. Lợi ích đối với các công ty kế toán và kiểm toán
Các công ty kế toán hay kiểm toán cũng sẽ hoạt động dễ dàng hơn trên phạm vi
quốc tế khi có các chuẩn mực kế toán quốc tế chung được sử dụng ở nhiều nước trên thế
giới.
1.3. CHUẨN MỰC KẾ TOÁN Ở VIỆT NAM
1.3.1 Sự hình thành và phát triển của chuẩn mực kế toán Việt Nam
1.3.1.1. Hoàn cảnh ra đời của các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam
Trước khi mở cửa hội nhập, Việt Nam không có chuẩn mực kế toán mà chỉ có chế
độ kế toán. Chế độ kế toán là các quy định do doanh nghiệp Nhà Nước ban hành chủ yếu
để hướng dẫn các doanh nghiệp Nhà Nước và Hợp tác xã thực hiện công tác kế toán.
Đến năm 2000, thời điểm các chuẩn mực kế toán đầu tiên được soạn thảo ở Việt
Nam cũng là thời điểm chứng kiến nhiều biến động có ảnh hưởng tới hoạt động kế toán
cả trên thế giới và ở Việt Nam. Như đã phân tích ở phần 1.2.1, năm 2000 được coi là mốc
son đánh dấu nhiều thành công sau hơn 30 năm nỗ lực không ngừng nghỉ của IASC trong
việc thúc đẩy sự tiếp nhận của cộng đồng quốc tế đối với các chuẩn mực kế toán quốc tế.
IASC đã nhận được sự hậu thuẫn từ IOSCO với tuyên bố sử dụng các chuẩn mực kế toán
quốc tế làm điều kiện cho việc niêm yết chứng khoán ở tất cả các nước thành viên của
EU.
Năm 2000 cũng là năm chứng kiến sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam
đánh dấu bằng sự kiện khai trương Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP HCM ngày
20/7/2000. Sự ra đời của thị trường chứng khoán tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt
Nam có thêm một kênh thu hút vốn bằng việc niêm yết trên tại các trung tâm mà sau này
Trang23



Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

thành các sở giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, để có thể thu vốn được thì các doanh
nghiệp phải có những báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính
của doanh nghiệp cũng như có khả năng so sánh được giữa các doanh nghiệp. Nhu cầu đó
đòi hỏi sự ra đời của các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam để thống nhất cách hạch toán kế
toán của các doanh nghiệp.
1.3.1.2. Việc ban hành các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam
Việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán ở Việt Nam có các đặc điểm
sau:
1.3.1.2.1. Các chuẩn mực kế toán Việt Nam được ban hành trên cở sở các chuẩn mực kế
toán quốc tế:
Các chuẩn mực này được soạn thảo dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế đã
được ban hành nhưng có sửa đổi bổ sung một số điều. Điều này được thể hiện rõ ở khoản
2, điều 8 Luật kế toán số 03/2003/QH11: “Bộ Tài Chính quy định chuẩn mực kế toán trên
cơ sở chuẩn mực kế toán quốc tế về kế toán và theo quy định của Luật này (Luật kế
toán)”.
Việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán Việt Nam dựa trên các chuẩn mực kế toán
quốc tế là một bước phát triển từ chỗ hoạt động kế toán chỉ chú trọng cho mục đích tính
thuế sang một hệ thống kế toán toàn diện hơn, tiếp cận gần hơn với những quy định báo
cáo tài chính phức tạp trong các chuẩn mực kế toán quốc tế, góp phần tạo nên sự hài hòa
quốc tế về hoạt động kế toán.
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam đã được dịch ra tiếng anh tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư nước ngoài, các nước thành viên trong khu vực và trên toàn thế giới có thể tiếp
cận dễ dàng với hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam. Điều này không chỉ góp phần
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán của Việt Nam bắt nhịp kịp với sự hội

nhập kế toán ở các nước có nền kinh tế thị trường mà quan trọng hơn là tạo môi trường
pháp lý cho hội nhập kinh tếquốc tế và khu vực.

Trang24


Báo cáo nghiên cứu khoa học

GVHD: ThS. Trương Văn Trí

1.3.1.2.2. Tuy dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng tính đến nay số lượng của
các chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa tương đương:
Tính cho đến nay đã có 5 đợt Bộ Tài Chính ban hành các chuẩn mực kế toán. Đợt
1 và đợt 2 là vào ngày 31 tháng 12 năm 2001 với 10 chuẩn mực kế toán đầu tiên. Đợt 3 là
vào ngày 30 tháng 12 năm 2003 với 6 chuẩn mực kế toán. Đợt 4 là vào ngày 15 tháng 2
năm 2005 với 6 chuẩn mực kế toán và đợt 5 là vào ngày 28 tháng 12 năm 2005 với 4
chuẩn mực kế toán. Sau mỗi lần ban hành chuẩn mực đều có thông tư hướng dẫn đi kèm
hướng dẫn cách hạch toán cụ thể trong từng trường hợp. Và cho đến tháng 12/2005, Bộ
Tài Chính đã ban hành được hai mươi sáu chuẩn mực kế toán.
Như vậy, so với số lượng 38 chuẩn mực kế toán quốc tế hiện có (bao gồm 9 IFRS
và 29 IAS) thì Việt Nam còn thiếu nhiều chuẩn mực tuơng đương. Điều đó cho thấy có
một số chuẩn mực kế toán mà Việt Nam còn phải nghiên cứu để soạn thảo nhằm đáp ứng
nhu cầu hạch toán kế toán của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời đại mà các giao dịch
mới phát sinh ngày một nhiều và bản chất của các giao dịch kinh tế ngày một phức tạp.
Việc thiếu các chuẩn mực hướng dẫn cho các doanh nghiệp xử lý các giao dịch khi chúng
phát sinh sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính
cũng như không đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin cho người sử dụng.
1.3.1.2.3. Việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán Việt Nam không dựa trên một Khung
Khái niệm (conceptual framework:
Một vấn đề lớn nữa đối với việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán ở

Việt Nam là chúng ta hiện nay chưa có một khung khái niệm(conceptual framework) để
cung cấp nền tảng và những nguyên tắc cơ bản cho việc soạn thảo cũng như phát triển các
chuẩn mực kế toán. Mục đích của việc xây dựng khung khái niệm là để đảm bảo rằng các
chuẩn mực kế toán quốc tế được soạn thảo không mâu thuẫn với nhau và cung cấp một cơ
sở để đánh giá xem một hành vi không tuân theo chuẩn mực có thể được chấp nhận hay
không nếu như nó đi ngược lại các nguyên tắc đã được đề ra trong khung khái niệm. Có
thể nói, khung khái niệm có chức năng như hiến pháp của một nước, đề ra các nguyên tắc
cơ bản cho một hệ thống kế toán mà các chuẩn mực kế toán được soạn thảo theo khung
khái niệm này không được có bất cứ quy định nào đi ngược lại các nguyên tắc của khung
Trang25


×