Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhànước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lý hành chính Nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.83 KB, 13 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong suốt quá trình đấu tranh chống lại bọn đế quốc, thực dân xâm lược nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí minh vĩ
đại đã anh dũng đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc. Cách mạng tháng tám thành
công đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nên dân chủ
cộng hòa. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính vì thế, Nguyên tắc nhân
dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà nước được xem là một
nguyên tắc quan trọng của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Để hiểu sâu hơn về nguyên tắc này cũng như sự vận dụng nguyên tắc này trong
thực tiễn quản lý hành chính Nhà nước hiện nay. Em xin lựa chọn đề tài số 03: “Phân
tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà
nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lý hành chính Nhà nước
hiện nay”.
Trong quá trình làm bài em đã có nhiều cố gắng song do kiến thức về lĩnh vấn đề
này còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự nhận xét của các thầy cô trong tổ bộ môn để bài làm của em được hoàn thiện
hơn.

Em xin cảm ơn!

13


I.

Cơ sở lý luận.
1.

Khái niệm nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước.


Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính Nhà nước
được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là tư tưởng chủ đạo
rất quan trọng cho các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước thực hiện có hiệu quả các
công việc của mình trên các lĩnh vực được phân công. Nguyên tắc được hiểu là những
điều cơ bản nhất thiết phải tuân theo trong một loạt các việc làm.
Trong khoa học pháp lý, các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước được
hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng chủ
đạo làm cơ sở để tổ chức, thực hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
2.
Đặc điểm của các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước.
Thứ nhất, các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính tổ chức pháp lý. Các
nguyên tắc này thường được ghi nhận trong các văn pháp luật của nhà nước, từ Hiến
pháp, luật đến văn bản dưới luật. Điều này thể hiện tính chất pháp lý của các nguyên tắc
trong quản lý hành chính nhà nước. Nó tạo ra cơ sở để buộc các chủ thể phải tuân thủ
một cách thống nhất và chính xác các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước.
Ví dụ: Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) xác định:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,…”. Nguyên tắc này đã được nhà
nước ghi nhận trong Hiến pháp - đạo luật cơ bản và quan trong nhất của Nhà nước.
Thứ hai, các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước mang tính khách quan và
khoa học. Ph. Angghen cho rằng: “Nguyên tắc không phải là được ứng dụng vào giới
tự nhiên và lịch sử loài người mà được rút ra trong giới tự nhiên va lịch sử loài người.
Không phải giới tự nhiên và lịch sử loài người thích ứng với các nguyên tắc mà trái lại
nguyên tắc chỉ đúng khi nó phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử”. Các nguyên tắc quản
lý hành chính Nhà nước mang tính khách quan và khoa học bởi vì chúng được xây
dựng, được rút ra từ thực tế cuộc sống trên cơ sở nghiên cứu một cách sâu sắc các quy
luật phát triển khách quan, cơ bản của đời sống xã hội. Vì vậy, chúng phản ánh một
cách sâu sắc các quy luật đó. Mặc dù những nội dung phản ánh thực tiễn khách quan
của quản lý hành chính Nhà nước, các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước
lại được ghi nhận thông qua nhận thức chủ quan của con người. Bởi vậy, chúng bao giờ

cũng chịu sự chi phối của những điều kiện về chính trị, giai cấp và xã hội; hay nói cách

13


khác, các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước phản ánh bản chất giai cấp của
hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Thứ ba, các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước có tính ổn định. Do bản
thân các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước là sự phản ánh các quy luật
khách quan của quản lý hành chính Nhà nước nên tính ổn định của chúng trong từng
thời kỳ, từng giai đoạn được đảm bảo. Tuy vậy, tính ổn định đó chỉ có ý nghĩa tương
đối. Tính ổn định của các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước không loại bỏ
việc không ngừng đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện các nguyên
tắc để phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
Thứ tư, là các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước có mối liên hệ với
nhau và tạo thành một hệ thống nguyên tắc. Mỗi nguyên tắc trong quản lý hành chính
Nhà nước có nội dung riêng, phản ánh những quy luật khách quan khác nhau trong quản
lý hành chính nhà nước. Vì vậy, có nhiều nguyên tắc khác nhau được đặt ra trong quản
lý hành chính Nhà nước. Những nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo
thành một hệ thống thống nhất. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này tạo tiền đề cho việc
thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc khác.

II.

Giải quyết vấn đề.
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
Nhà nước.
1.1. Cơ sở pháp lý.
Xuất phát từ bản chất Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước của nhân dân được hiểu là, Nhà nước xã hội chủ

nghĩa là của toàn thể nhân dân lao động trong xã hội, nhân dân là chủ của đất nước, có
toàn quyền quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước; Nhà nước phải phục tùng ý
chí của nhân dân. Nhà nước do nhân dân có nghĩa là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời
là do thành quả của cuộc cách mạng do nhân dân lao động tiến hành. Nhân dân thông
qua bầu cử trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập ra các cơ quan trong Bộ máy nhà nước.
Nhân dân có quyền miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm những người do nhân dân bầu ra nếu
thấy khống còn tín nhiệm đối với người đó. Nhà nước vì dân có nghĩa là, quyền lực Nhà
nước do nhân dân tổ chức ra là để phục vụ nhân dân “Các cơ quan của chính phủ từ
toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của nhân dân, nghĩa là để ghánh vác việc
chung cho dân”. Dân là gốc của nước, vì vậy, Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm, bảo
1.

13


vệ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, nghiêm trị các hành vi xâm phạm quyền, lợi
ích chính đáng của nhân dân, đồng thời, “Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rể, bền
gốc”. Điều 2 Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là lien minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức…”. Cụ thể hơn Điều 53 Hiến pháp ghi nhận: “Công dân có quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa
phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân”. Vì vậy, nhân dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước là một nguyên tắc
quan trọng của quản lý hành chính Nhà nước ta.
1.2. Biểu hiện của nguyên tắc.
Trong quản lý hành chính nhà nước nguyên tắc này được thể hiện ở những hình
thức tham gia vào hoạt động quản lý hành chính của nhân dân lao động.
1.2.1. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Các cơ quan trong Bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước.
Vì vậy, tham gia vào các hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích
cực, trực tiếp và có hiệu quả của nhân dân lao động vào hoạt động quản lý hành chính
nhà nước.
Thứ nhất, nhân dân lao động có thể tham gia vào các cơ quan quyền lực của Nhà
nước với tư cách là thành viên của cơ quan này, những người đại biểu được lựa chọn
thông qua con đường bầu cử. Nhân dân lao động có thể tham gia vào Quốc hội, Hội
đồng nhân dân là những cơ quan quyền lực của Nhà nước. Điều 83 Hiến pháp 1992 (đã
được sữa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội
quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của Bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Khi tham gia
vào cơ quan quyền lực Nhà nước, nhân dân lao động có trực tiếp xem xét, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước; của từng địa phương trong đó các vấn đề quản lý

13


hành chính Nhà nước. Nhân dân lao động có đủ điều kiện do pháp luật quy định sẽ có
thể tham gia vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước. Ví dụ: Điều 3 Luật bầu cử đại
biểu quốc hội quy định tiểu chuẩn của đại biểu Quốc hội: “1.Trung thành với tổ quốc
và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công
cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp
hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan lieu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật;

3. Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước;
4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín
nhiệm;
5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội”. Như vậy, công dân Việt Nam
nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện trên thì sẽ được tham gia ứng cử đại biểu Quốc
hội.
Thứ hai, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan Nhà
nước khác như các cơ quan hành chính, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử với tư cách là
những cán bộ, công chức của Nhà nước. Ở những cương vị này, nhân dân lao động sẽ
sử dụng một cách trực tiếp quyền lực nhà nước để tiến hành những công việc khác nhau
của quản lý hành chính nhà nước, thể hiện người làm chủ đất nước làm chủ xã hộ của
mình. Họ sẽ có đẩy đủ các điều kiện biến ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực.
Công dân Việt Nam có đủ điều kiện do pháp luật quy định đều có thể trở thành cán bộ,
công chức trong các cơ quan Nhà nước. Ví dụ: Khoản 1 Điều 36 Luật cán bộ, công
chức năm 2008 quy định: “1. Người đủ các điều kiện sau đây không phân biệt dân tộc,
nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo được đăng ký dự tuyển công chức:
a.
Có một quốc tịch là quốc tịch Việt nam;
b.
Đủ 18 tuổi trở lên;
c.
Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;
d.
Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp;
e.
Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;
f.
Đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ;


13


g.

Các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển”.
Thứ ba, nhân dân lao động có thể tham gia gián tiếp vào các cơ quan Nhà nước
thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào
cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Điều 54 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam
nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư
trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mốt tuổi trở lên có quyền
ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”. Bầu cử vừa là
quyền chính trị cực kỳ quan trọng của công dân, nhờ quyền bầu cử mà các công dân có
thể lựa chọn những người ưu tú nhất, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của
mình vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước, giải quyết những vấn đề quan trọng
nhất của đất nước. Chính ở quyền này nhân dân lao động thực hiện được quyền lực của
mình, thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình.
1.2.2. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân tổ chức Việt Nam có
chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ không vì lợi nhuận
nhằm đáp ứng những lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Ví dụ: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,… Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi
để nhân dân lao động có thể tham gia một cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức
xã hội. Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Mặt trận
tổ quốc Việt nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính
trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân,
cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân

dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, giám
sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà
nước”. Ngoài việc ghi nhận địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội trong Hiến pháp, Nhà
nước ta còn ban hành luật về các tổ chức xã hội như: Luật Mặt trận tổ quốc năm 1999,
Luật công đoàn năm 1990. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng giúp đỡ về vật chất và tinh
thần để cho các tổ chức xã hội thực sự trở thành công cụ đăc lực của nhân dân lao động

13


trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của mình. Ví dụ: Điều 15 Luật
Mặt trận tổ quốc quy định: “1. Người đứng đầu các cơ quan tổ chức có trách nhiệm:
a.
Tạo điều kiện để cán bộ, công chức làm nhiệm vụ khi họ được cử vào Mặt trận tổ
quốc Việt Nam hoặc được phân công phối hợp công tác với Mặt trận tổ quốc Việt Nam;
b.
Cung cấp thông tin cần thiết khi Mặt trận tổ quốc Việt Nam có yêu cầu để Mặt
trận tổ quốc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
2
Các cơ quan tổ chức trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận tổ quốc thực hiện các cuộc vận động do Mặt trận
tổ quốc Việt Nam đề xướng hoặc thực hiện các chương trình, dự án mà Mặt trận được
giao”.
Thông qua các hình thức hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động, sáng
tạo của nhân dân lao động được phát huy trong quản lý hành chính Nhà nước. Trên thực
tế, các tổ chức xã hội đã thu hút một lượng đông đảo quần chúng nhân dân lao động
tham gia vào quản lý hành chính nhà nước.
1.2.3. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Ở nơi cư trú, sinh hoạt, làm việc, nhân dân lao động thường xuyên thực hiện các
hoạt động mang tính chất tự quản. Đây là những hoạt động do chính nhân dân lao động

tự thực hiện nó có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác của quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Các hoạt động tự quản ở cơ sở như: bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi
trường, tổ chức đời sống công cộng,… đều rất gần gủi và thiết thực đối với cuộc sống
của mỗi người dân. Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản mà người dân
lao động là những chủ thể tham gia tích cực, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội của người dân mà pháp luật đã quy định thực sự được tôn trọng và bảo đảm thực
hiện.
1.2.4. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành
chính Nhà nước.
Ngoài việc tham gia vào hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội,
các hoạt động tự quản thì việc nghiêm chỉnh thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
cũng là một hình thức tham gia vào quản lý hành chính Nhà nước của công dân. Điều
53 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định; “Công dân có
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chúng của
cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ

13


chức trưng cầu ý dân”. Để thực hiện các quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định
những quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý
hành chính Nhà nước. Ví dụ: Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có
quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân hoặc bất cứ cá nhân nào”. Khi thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình công
dân đấu tranh chống những vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể,
của công dân góp phần vào việc giám sát các hoạt động của cơ quan Nhà nước, làm
trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của Bộ máy Nhà nước.
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính Nhà nước.

Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà
nước là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý hành chính Nhà nước. Việc quy định
và thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn.
Thứ nhất, nó khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong quản lý
hành chính Nhà nước, tuân theo nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin “Nhân
dân là cái gốc của quyền lực Nhà nước” đã được thực tiễn lịch sử chứng minh.
Thứ hai, phát huy dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào quản lý hành
chính Nhà nước nhằm bảo đảm cho Nhà nước ta giữ vững bản chất là Nhà nước “của
dân, do dân, vì dân”, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả các chính sách của Đảng, của Nhà
nước.
Thứ ba, việc mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý
hành chính Nhà nước không chỉ đòi hỏi từ sự hội nhập mà quan trọng hơn là từ chính
yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa đời sống xã
hội và của bản than Nhà nước. Mở rộng sự tham gia mạnh mẽ của người dân vào các
quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý hành chính Nhà nước sẽ góp phần quan
trọng cho việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ, ổn định chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Do đó, chỉ khi nào
người dân thật sự đóng vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước
thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thành công.

13


2.
Sự vận dụng Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính Nhà nước hiện nay.
Hiện nay, việc vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào
quản lý hành chính Nhà nước được thực hiện rộng rãi. Nhà nước ta luôn tạo mọi điều

kiện thuận lợi để cho nhân dân lao động có thể tham gia tích cực vào hoạt động quản lý
hành chính Nhà nước. Để đảm bảo cho nhân dân lao động được tham gia vào quản lý
hành chính Nhà nước, Nhà nước ta đã ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và các
Luật như: Luật bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ
chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật thanh tra, Luật phòng chống
tham nhũng,…trong đó quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân
dân tham gia vào hoạt động quản lý hành chính Nhà nước như việc các đại biểu, cơ
quan Nhà nước phải tiếp nhận và giải quyết các đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người
dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp vào việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật,
các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Các luật về tổ chức chính trị - xã
hội như Luật Mặt trận tổ quốc, Luật công đoàn cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp
về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong quản lý hành chính nhà nước. Ngoài
ra, Nhà nước còn ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện quyền tham
gia vào quản lý hành chính Nhà nước của nhân dân lao động như: Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở
xã; Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây
dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, ấp, cụm dân cư; Nghị định số
79/2003/NĐ-CP ngày 13/2/1999 của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở
doanh nghiệp Nhà nước; Nghị định số 87/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 của Chính phủ
ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Trong thời gian qua việc tham gia vào hoạt động của các cơ quan Nhà nước của nhân
dân được đảm bảo, nhân dân lao động nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định
của pháp luật và có năng lực đều có thể tham gia vào các cơ quan Nhà nước. Việc bầu
cử đại biểu cũng ngày càng thể hiện đúng ý kiến của người dân, giúp cho hiệu quả làm
việc của Quốc hội ngày càng được nâng cao. Để đảm bảo cho toàn thể cử tri có thể đi
bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì Luật bầu cử đại biểu
quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân quy định ngày bầu cử là ngày chủ nhật.

13



Tuy nhiên, bên cạnh đó thì việc vận dụng nguyên tắc này còn có một số điểm chưa
hợp lý. Hiến pháp quy định nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước thông qua việc trưng cầu ý dân nhưng hiện nay vấn đề trưng cầu ý dân chưa
được triển khai thực hiện, Luật trưng cầu dân ý vẫn đang chỉ là một dự án. Việc tiếp dân
và giải quyết những thắc mắc cho nhân dân của các đại biểu Quốc hội vẫn còn mang
tính hình thức, hiệu quả của hoạt động này chưa cao. Việc tham gia vào các hoạt động
tự quản ở địa phương của nhân dân thực hiện chưa được đồng bộ, mạnh mẽ mà chỉ lẻ tẻ
ở một số đơn vị. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho người dân chưa được thực hiên
tốt. Nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân chưa được các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền giải quyết hợp lý gây mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền. Sở dĩ còn
có những hạn chế này là do các nguyên nhân.
Thứ nhất là do nhận thức xã hội, nhận thức của những người quản lý. Mặc dù
hiện nay tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân đã được phổ biến trong xã hội nhưng việc nhận thức đúng về tư tưởng này vẫn
còn khoảng cách. Những người quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở người dân. Ngược lại
chính người dân cũng coi đó chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước mà không phải
là của mình.
Thứ hai, trình độ dân trí nhất là trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn rất
hạn chế. Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà ý thức chấp
hành pháp luật của người dân không cao. Chính vì vậy khi tham gia vào công việc quản
lý hành chính Nhà nước người dân vẫn còn đang rất lung túng.
Thứ ba,việc tổ chức các hình thức, phương thức tham gia của người dân được các
cơ quan Nhà nước thực hiện cũng chưa thật khoa học. Nhiều văn bản quy phạm pháp
luật được tổ chức lấy ý kiến của người dân chưa thật sự hướng vào các đối tượng bị
điều chỉnh. Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân dân đưa ra chậm và luôn bị
tránh né làm giảm long tin và nhiệt tình của nhân dân.
Thứ tư, trình độ sử dụng công nghệ thông tin để tham gia đóng góp ý kiến cho các
văn bản pháp luật của người dân còn thấp. Sự phổ cập bào chí điện tử mới chỉ giới hạn

ở các thành phố và một số đối tượng.
3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc nhân
dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà nước.

13


Thứ nhất, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi cơ chế bầu cử đại biểu Quốc
hội và Hội đồng nhân dân sao cho những người được bầu phải gắn bó với người dân,
phản ánh được ý chí, nguyện vọng của người dân không còn đại diện chung chung, hình
thức.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh cải cách nên hành chính Nhà nước, đổi mới cơ cấu tổ
chức và phương thức hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Mở rộng sự công khai,
minh bạch, tạo cơ hội để người dân nằm bắt được các công việc của Nhà nước một cách
chủ động, thiết thực và hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước,
công chức trong việc tiếp thu ý kiến và nguyện vọng của nhân dân.
Thứ ba, tiếp tục có các biện pháp giáo dục, nâng cao trình độ nhất là ý thức chính
trị, tinh thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức hơn nữa
trong việc tham gia vào công việc xã hội và hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Thứ tư, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong việc tuyên truyền, giáo
dục và tổ chức tham gia của người dân đối với việc xây dựng chính sách, pháp luật.
Thứ năm, sử dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng. Mở rộng việc sử
dụng các bào điện tử trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước và
thu thập, phản ánh các ý kiến đóng góp, tham gia của nhân dân.
III.

Kết luận.
Qua việc tìm hiểu nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính Nhà nước chúng ta càng hiểu sâu hơn về bản chất Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt nam là nhà nước “Của dân, do dân, vì dân”. Việc ghi nhận và thực hiện

tốt nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn và đây cũng là một điểm giúp chúng ta phân biệt
giữa chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa và Nhà nước tư bản chủ nghĩa.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà nội, nxb Công an
nhân dân.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội.
4. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
5. Luật Mặt trận tổ quốc Việt nam.
6. Luật cán bộ, công chức.
7. Luật tổ chức Chính phủ.
8. http:// www.tapchicongsan. Org.vn.
9. http:// www.Nhandan.com.vn
10. www.tintuc.xalo.vn

13


MỤC LỤC

Mục lục

trang

Đặt vấn đề…………………………………………………………………….1
Cơ sở lý luận

1. Khái niệm nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước……………………..2
2. Đặc điểm của các nguyên tắc……………………………………………..2
Giải quyết vấn đề
1.

2.
3.

Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
Nhà nước.
1.1. Cơ sở pháp lý………………………………………………………3
1.2. Biểu hiện của nguyên tắc……………………………………….....4
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc…………………………………………….8
Sự vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính Nhà nước…………………………………………………….9
Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng nguyên tắc
nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà
nước……………………………………………………………………...11

Kết luận…………………………………………………………………….11
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………12
Mục lục…………………………………………………………………......13

13



×