Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bình luận cách xác định và quy chế pháp lí các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam trong mối quan hệ với quy định của Công ước luật biển 1982

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.01 KB, 12 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Biển có vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia ven biền, kể cả quốc gia không có vùng biển. Biển cả trở thành đối tượng
chinh phục của các quốc gia khi họ muốn mở rộng quyền lực của mình ra biển, đồng
thời với việc ý thức được tài nguyên giàu có của biển làm cuộc cạnh tranh về biển cả
trở nên gay gắt. Chính vì vậy Luật biển quốc tế đã ra đời để điều chỉnh những mối
quan hệ giữa các quốc gia, liên hiện nay Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp
Quốc đang có hiệu lực, đã thiết lập một trật tự pháp lý cho các biển và đại dương tạo
thuận lợi cho việc sử dụng công bằng và hiệu quả tài nguyên, bảo tồn nguồn lợi sinh
vật từ biển, bảo vệ môi trường biển của các quốc gia. Công ước nêu lên cách xác định
các vùng biển và quy chế pháp lí về vùng biển của mỗi quốc gia, việc pháp điển hóa
Luật biển như vậy sẽ góp phần tăng cường hòa bình và an ninh, hợp tác hữu nghị giữa
các quốc gia, phù hợp với nguyên tắc công bằng và bình đẳng về quyền lợi giữa các
quốc gia tạo điều kiện cho sự tiến bộ về kinh tế và xã hội của mọi dân tộc trên thế
giới. Để tìm hiểu về các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam trong mối quan hệ với
các quy định của Công ước Luật biển năm 1982 nhóm em xin trình bày vấn đề : Bình
luận cách xác định và quy chế pháp lí các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt
Nam trong mối quan hệ với quy định của Công ước luật biển 1982. Mong nhận
được sự góp ý của thầy cô và các bạn.

1


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Cơ sở xác định các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam
Cơ sở lí luận: Lãnh thổ là một yếu tố không thể thiếu trong cấu thành một quốc gia, trong đó
biển là một bộ phận không thể tách rời của quốc gia ven biển như Việt Nam nên việc xác định
các vùng biển thuộc chủ quyền lành thổ quốc gia chính là xác định chủ quyền với lãnh thổ.
Trong quá trình khai thác và sử dụng biển cần phải có những tuyên bố xác định chủ quyền
của mình để bảo vệ chủ quyền trên biển và hạn chế sự mở rộng thái quá chủ quyền quốc gia
ra biển của các quốc gia khác nhằm bảo vệ lợi ích chung cho cộng đồng quốc tế.


Cơ sở thực tiễn: Trong lịch sử đấu tranh xây dựng và phát triển của đất nước, khái niệm chủ
quyền xuất hiện từ khá sớm, cho đến nay khi đất nước đã thống nhất thì chúng ta hoàn toàn
có quyền xác định chủ quyền trên các vùng biển phù hợp với các quy định của pháp luật quốc
gia và luật biển quốc tế hiện hành.
Cơ sở pháp lí: Để khẳng định chủ quyền và bảo vệ bên giới quốc gia trên biển của nước ta đã
nhiều lần ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến biển như: Tuyên bố về lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Chính phủ Việt Nam
ngày 12/5/1977; Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Chính phủ
Việt Nam ngày 12/11/1982, Luật biên giới quốc gia 2003...Đặc biệt chủ quyền về các vùng
biển của Việt Nam được tái khẳng định trong văn bản có hiệu lực pháp lí cao nhất của nhà
nước ta là Hiến pháp: Điều 1 Hiến pháp các năm 1980 và 1992 khẳng định “ Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”.Ngoài ra, Việt Nam còn đàm phán
phân định vùng biển với một số nước có vùng biển tiếp giáp như Trung Quốc ở khu vựcVịnh
Bắc Bộ, Thái lan ở vùng biển Tây Nam và Thềm lục địa với Indonesia.
Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam xác định các vùng biển có chủ quyền
của mình và để vạch định đường cơ sở phân định chủ quyền trên biển của Việt Nam với các
nước trong khu vực tiếp giáp.
II. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam
Chủ quyền trên các vùng biển là quyền tối cao của quốc gia đối với vùng biển nằm bên
trong đường biên giới quốc gia trên biển bao gồm vùng nội thủy và vùng lãnh hải.
1. Nội thủy
2


1.1 Cách xác định vùng nội thủy
Nội thủy là vùng nằm phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải và giáp
với bờ biển, chủ quyền của quốc gia bao trùm lên cả bên trên vùng trời, vùng đáy biển và cả
lòng đất dưới đáy biển, vùng bên dưới vùng nước, tại đó quốc gia ven biển thực hiện chủ
quyền hoàn toàn và tuyệt đối như trên lãnh thổ đất liền. Theo quy định tại điều 8 Công ước

Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 “trừ trường hợp quy định ở phần IV, các vùng nước
phía trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy quốc gia” (phần IV là phần quy định các
quốc gia quần đảo có thể vạch đường khép kín để hoạch định ranh giới nội thủy của mình
theo đúng các Điều 9. 10, 11 Công ước Luật biển 1982). Việt Nam đã xác định vùng biển ở
phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển là nội thủy của nước CHXHCN Việt Nam( Điều
1, Tuyên bố năm 1977 của Chính phủ Việt Nam).
Theo Điều 7 Luật biên giới quốc gia 2003 của Việt Nam thì nội thủy của Việt Nam bao
gồm: “1. Các vùng nước phía trong đường cơ sở; 2. Vùng nước cảng được giới hạn bởi các
điểm nhô ra ngoài khơi xa nhất của các công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ
của hệ thống cảng.” Và theo hiệp định về vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia thì
vùng nước lịch sử được giới hạn bởi các bờ biển Hà Tiên và campot, đảo Phú Quốc và các
đảo ngoài khơi Thổ Chu và Poulowai, vùng này đều được hai bên coi là vùng nội thủy.
Về phương diện pháp lý, muốn xác định nội thủy, lãnh hải và các vùng biển thuộc quyền chủ
quyền quốc gia trên biển phải xác định đường cơ sở:
* Phương pháp xác định đường cơ sở: Theo quy định tại Điều 5 và Điều 7 của Công ước Luật
biển 1982, có hai phương pháp để xác định đường cơ sở đó là phương pháp đường cơ sở
thông thường và phương pháp đường cơ sở thẳng:
Đường cơ sở thông thường: Xác định đường cơ sở dựa vào ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc
theo bờ biển, được thể hiện trên các hải đồ lớn và được các quốc gia ven biển công nhận,
thường áp dụng với các quốc gia có bờ biền phẳng. Ưu điểm của phương pháp này là phản
ánh đúng bờ biển và hạn chế sự mở rộng tái quá của các vùng biển quốc gia.
Đường cơ sở thẳng: Là đường gãy khúc nối liền những điểm ngoài cùng nhô ra nhất của bờ
biển khi ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc bờ biển hoặc và đảo ven bờ. Cách xác định này
phù hợp với quy định tại Điều 4 Luật biên giới quốc gia 2003 và Điều 7 Công ước Luật biển
1982. Phương pháp này thường áp dụng với các quốc gia có đường bờ biển bị khoét sâu, lồi

3


lõm hoặc có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển. Công ước Luật biển 1982

đã quy định một số điều kiện để được áp dụng đường cơ sở thẳng cho các quốc gia.
Ngày 12/11/1982 Chính phủ Việt Nam đưa ra tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng: Hệ thống đường cơ sở này gồm 10 đoạn nối 11
điểm có tọa độ xác định từ điểm A1-Hòn Nhạn dến A11 đảo Cồn cỏ, chỉ có 1 điểm duy nhất
được xác định theo phương pháp đường cơ sở thông thường ( điểm A8 tại Mũi Đại Lãnh).
Tổng chiều dài các đoạn là 846 hải lý, gộp vào nội thủy Việt Nam một khu vực rộng khoảng
27.000 hải lý vuông. Hệ thống này chưa khép kín vì còn hai điểm chưa xác định là điểm A0
phía Tây nam của vùng nước lịch sử chung giữa Việt Nam và Campuchia và điểm cuối cùng
là đảo Cồn Cỏ A11 trong Vịnh Bắc Bộ. Đường cơ sở Việt Nam có độ dài trung bình 85 hải lý,
với hơn một nửa số đoan dài trên 100 hải lý, góc lệch so với xu hướng chung của bờ biển hầu
hết là 20 độ.
Tuy nhiên trong số các đảo của Việt nam dùng để vạch đường cơ sở thẳng có 5 đảo vượt
quá khoảng cách tối đa 48 hải lý nên có những đoạn đường cơ sở dài quá quy định dẫn tới
chệch hướng so với bờ biển và bị một số nước phản đối cách xác định này. Cơ sở của tuyên
bố này Việt Nam căn cứ vào thực tế địa hình bờ biển và khoản 5 Điều 7; chứng minh được lợi
ích về an ninh quốc phòng và kinh tế của quốc gia với vùng biển nên cách xác định đường cơ
sở của Việt Nam như vậy là phù hợp với các quy định của Công ước Luật biển 1982.
Nhìn chung, về cơ bản đường bờ biển của Việt Nam hoàn toàn đáp ứng các điều kiện
để áp dụng đường cơ sở thẳng do có hai đồng bằng lớn, đứng thứ tám trên thế giới về
lượng phù sa đổ ra biển là 475 tỷ mét khối. Tuy nhiên tuyên bố về đường cơ sở này cảu
Việt Nam lại chủ yếu căn cứ vào hướng chung của bờ biển và vị trí các đảo ven bờ.
Tuyên bố về đường cơ cơ sở của Việt Nam đưa ra trong bối cảnh tranh chấp rất phức tạp
trên biển Đông, tất cả các vùng chồng lấn giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực
chưa được giải quyết hoặc đang trong giai đoạn đàm phán nên chúng ta chưa thể xác định
hệ thống đường cơ sở hoàn chỉnh, khép kín vào thời điểm đó. Tuyên bố đã nêu rõ, đoạn
đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh Bắc Bộ sẽ được công bố sau khi vấn đề của
vịnh được giải quyết.
1.2 Quy chế pháp lý với vùng nội thủy.
Nội thủy là một bộ phận của quốc gia ven biển tại đó quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và
tuyệt đối, tất cả mọi luật lệ ban hành của quốc gia ven biển đều có hiệu lực cho vùng nội thủy,

chủ quyền này bao trùm lên cả bên trên vùng trời, vùng đáy biển và cả lòng đất dưới đáy
4


biển, vùng bên dưới vùng nước. Chính vì vậy, trong vùng nội thủy, quốc gia ven biển sẽ thực
hiện đầy đủ quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giống như trên đất liền.Ta. Tuy nhiên với
tính chất là một vùng biển thì việc thực hiện chủ quyền trên biển có những khác biệt so với
trong đất liền qua quy chế hoạt động của tàu thuyền nước ngoài và vấn đề quyền tài phán của
quốc gia ven biển. Vấn đề này được pháp luật quốc gia quy định rõ. Theo pháp luật Việt Nam,
chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia trong vùng nội thủy được quy định trong nhiều văn
bản pháp lý khác nhau, từ Hiến pháp đến các luật và các văn bản dưới luật như Luật hình sự
Việt Nam năm 1999, Luật biên giới quốc gia năm 2003, Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa Việt Nam ngày 12-5-1977 (đoạn 2, điểm 1), Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam ngày
12-11-1982 (điểm 5), Nghị định 30-CP ngày 29-1-1980 về quy chế hoạt động của tàu thuyền
nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam, Nghị định số 55-CP ngày 1-10-1996 về hoạt động
của tàu quân sự vào thăm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định
71/2006/NĐ-CP về quản lý cảng biển và luồng hàng hải, Nghị định 61/2003/NĐ-CP về quy
chế khu vực biên giới biển...
Do là vùng thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia ven biển nên mọi tàu
thuyền cũng như phương tiện bay nước ngoài ra vào nội thủy đều phải xin phép theo trình
tự thủ tục do quốc gia ven biển quy định. Các tàu thương mại vào cảng biển quốc tế trên
cơ sở tụ do thông thương và có đi có lại không cần xin phép nhưng phải thông báo cho cơ
quan cảng vụ hàng hải có thẩm quyền chậm nhât là 8 giờ trước khi tàu dự kiến đến cảng.
Các tàu thuyền nhà nước là tàu quân sự và tàu phi thương mại phải tuân thủ với chế độ
nghiêm ngặt hơn để đảm bảo an nimh quốc gia. Tàu thuyền nước ngoài vào trong nội
thủy nếu vi phạm các quy định của quốc gia ven biển thì các quốc gia này có quyền thực
hiện quyền tài phán dân sự. Với tàu thuyền nhà nước được hưởng quyền ưu đãi và miễn
trừ quan hệ ngoại giao, quốc gia ven biển có quyền yêu cầu tầu thuyền vi phạm ra khỏi

nội thủy và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà tàu mang cờ xử lí và bồi
thường thiệt hại do tàu thuyền gây ra nếu có.
Với những vi phạm hình sự, về nguyên tắc là quốc gia ven biển sẽ không can thiệp vào vụ
việc xảy ra trên tàu thương mại nước ngoài trừ các trường hợp sau:
-Hành vi phạm tội do người không phải là thủy thủ đoàn thực hiện
-Thuyền trưởng của tàu hoặc thuyền yêu cầu can thiệp
5


-Hậu quả của hành vi vi phạm ảnh hưởng đến an ninh trật tự biển.
Vậy các quy chế pháp lý đói với vùng nội thủy được pháp luật Việt Nam quy định hoàn toàn
phù hợp với các quy định của Công ước Luật biển 1982.
2. Lãnh hải
Theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982 thì : “Chủ quyền của quốc gia ven biển
được mở rộng ra ngoài vùng đất và nội thủy của mình, và trong trường hợp quốc gia quần
đảo ra ngoài vùng quốc gia quần đảo đến một vùng tiếp liền gọi là lãnh hải” và “Mọi quốc
gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải cảu mình, chiều rộng này không được vượt
quấ 12 hải lý tính từ đường cơ sở xác định theo đúng quy định của công ước”. Như vậy lãnh
hải là vùng nằm giữa nội thủy và vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia ven biển và có chiều
rộng không lớn hơn 12 hải lí tính từ đường cơ sở. Lãnh hải được giới hạn phía trong bởi
đường cơ sở và phía ngoài là đường biên giới quốc gia trên biển
2.1 Cách xác định lãnh hải:
Xác định chiều rộng của lãnh hải sẽ được tiến hành trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, nếu quốc gia không đối diện, không tiếp giáp trên biển. Theo đó quốc gia
sẽ căn cứ vào đặc điểm địa hình của bờ biển và các quy định của Công ước 1982 để xác
định đường cơ sở và tuyên bố chiều rộng lãnh hải (không quá 12 hải lý tính từ đường cơ
sở). Sau đó quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các hải đồ gửi đến Tổng thư ký
Liên hợp quốc để lưu chiểu.
Thứ hai, việc hoạch định ranh giới lãnh hải giữa hai quốc gia có bờ biển liền kề hoặc
đối diện nhau. Việc định lãnh hải theo quy định tại Điều 15 Công ước 1982: “Khi hai

quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở
rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần
nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có
thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có
những danh nghĩa lịch sử hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh
giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác”.
Điều 3 Công ước 1982 về chiều rộng lãnh hải: Mọi quốc gia đều có ấn định chiều rộng
lãnh hải của mình; chiều rộng này không quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ta
theo đúng Công ước. Như vậy, theo tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam
6


về lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngày 12-5-1977 và Luật
biên giới quốc gia năm 2003, lãnh hải Việt Nam rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Theo
các văn bản pháp luật này thì chiều rộng lãnh hải Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy
định của Công ước 1982.
Tuy nhiên, theo Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục
địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước ta và Trung Quốc ngày 25-12-2000, đường phân định
biển trong Vịnh Bắc Bộ và đường cửa vịnh đã được xác lập nhưng đây chỉ là đường phân
định lãnh hải (các điểm từ 1 đến 9) hoặc đường phân định vùng đặc quyền về kinh tế và
thềm lục địa (các điểm từ 9 đến 21) giữa hai nước. Như vậy, theo tinh thần của Hiệp
định, Vịnh Bắc Bộ là vịnh chung giữa hai nước, không phải là vịnh lịch sử như trong các
tuyên bố năm 1977 và 1982 của nước ta. Trong thời gian tới nước ta sẽ phải xác lập hệ
thống đường cơ sở trong vịnh để xác lập nội thủy và các vùng biển khác của ta trong
Vịnh Bắc Bộ cho phù hợp. Đây là trường hợp đặc biệt trong tiền lệ phân định biển do
đường cơ sở được xác lập sau đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa mà thông thường các đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác lập sau khi đã xác lập được đường cơ
sở.
Như vậy, việc xác lập khu vực lãnh hải cụ thể trên thực địa của chúng ta hiện nay

vẫn chưa hoàn tất vì hệ thống đường cơ sở của ta vẫn chưa đầy đủ. Điểm này gây rất
nhiều khó khăn cho hoạt động của các lực lượng quản lý biển cũng như người đi biển. Do
vậy Nhà nước cần khẩn trương xác lập và công bố hệ thống đường cơ sở hoàn chỉnh để
đảm bảo chủ quyền đất nước với vùng lãnh hải.
2.2 Quy chế pháp lý với vùng lãnh hải
Theo quy định tại Điều 2, Công ước Luật biển 1982 thì quốc gia ven biển có chủ quyền
đối với lãnh. Việc thực hiện chủ quyền chỉ mang tính chất chỉ mang tính chất hoàn toàn
và đầy đủ thể hiện thông qua việc thừa nhận quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền
nước ngoài và thực thi thẩm quyền tài phán quốc gia. Tuy nhiên vùng trời trên lãnh hải
vẫn thuộc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt và vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
vẫn thuộc chủ quyền hoàn toàn tuyệt đối của quốc gia. có quyền ấn định các tuyến
đường, phân chi đường giao thông dành cho tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của
mình theo quy định của công ước.

7


Theo Điều 17 của Công ước Luật biển năm 1982 thì: Với điều kiện phải chấp hành
Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được
hưởng quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải. Công ước cũng chỉ rõ, khi thực hiện
quyền qua lại lãnh hải, tàu thuyền nước ngoài phải đi liên tục, nhanh chóng theo những
tuyến hàng hải bình thường, không được dừng lại và không được đổi hướng, việc dừng
lại và thả neo chỉ được phép trong những trường hợp ngoại lệ ( Khoản 2 Điều 18). Trong
trường hợp tàu thuyền nước ngoài không tuân thủ các quy định về quyền qua lại không
gây hại trong lãnh hải, quốc gia ven biển có quyền thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết
nhằm ngăn chặn việc đi qua này ( Khoản 1 Điều 25 Công ước Luật biển 1982).
Nghị định 30 – CP của Chính phủ Việt Nam đã tiếp nối tư tưởng đề ra trong Tuyên bố
của Chính phủ ngày 12 tháng 5 năm 1977: Việt Nam tôn trọng quyền tự đi qua không gây
hại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải của mình. Luật pháp Việt Nam cho phép tàu
thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam có

khả năng được dừng trú trong các trường hợp bất khả kháng hay các sự cố hàng hải ảnh
hưởng đến an toàn hàng hải hay tính mạng của hành khách. Tuy nhiên, tàu thuyền này
phải lập tức thông báo với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ở gần nhất và phải chịu
sự kiểm tra, kiểm soát của các nhà chức trách Việt Nam nhằm xác định nguyên nhân của
tai nạn, tính chân thực của lí do nêu ra và tuân thủ các chỉ dẫn của nhà chức trách Việt
Nam ( Điều 6 của Nghị định 30- CP).
Tuy nhiên, Nghị định 30 – CP không công nhận quyền đi qua không gây hại của tàu
thuyền quân sự nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam còn Công ước Luật biển 1982 thì cho
phép điều này. Sự khác nhau này cũng dễ hiểu, bởi lẽ Việt Nam nghi ngại nếu tàu quân
sự nước ngoài được tự do lưu thông trong vùng lãnh hải Việt Nam thì sẽ dễ dẫn đến sự
bất ổn về chính trị, đe dọa hòa bình của Việt Nam. Tuy nhiên, sau này do hoàn cảnh đã
trở nên thuận lợi, pháp luật nước ta đã có những bước tiến mới theo xu hướng sớm chấp
nhận quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền quân sự.
Khi thực hiện quyền qua lại vô hại, tàu thuyền nước ngoài có nghĩa vụ phải tuân thủ các
quy định của quốc gia ven biển, tàu nhà nước được hưởng các quyền miễn trừ và bất khả xâm
phạm. Nếu có vi phạm sẽ xử lí theo con đường ngoại giao. Tàu thương mại, với các vấn đề
dân sự thì quốc gia ven biển có quyền xét xử dân sự nếu tàu thuyền dừng lại trong lãnh hải và
đang đi qua sau khi rời nội thủy mà vi phạm luật cảu quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển
không có quyền bắt giữ hay thay đổi hành trình của tàu để thực hiện quyền tài phán đối với
một các nhân ở trên đó nếu tàu thuyền chỉ đi qua lãnh hải. Tuy nhiên quốc gia ven biển có
8


quyền bắt giữ và dự thẩm với tàu thuyền nước ngoài vi phạm những nghĩa vụ đã cam kết hay
trách nhiệm cam kết thực hiện để được đi qua lãnh hải.
Với các vi phạm hình sự khi tàu thuyền đi từ nội thủy ra lãnh hải quốc gia có quyền áp dụng
các biện pháp để bắt, giữ hay tiền hành dự thẩm theo pháp luật nước mình nhưng phải thông
báo trước cho cơ thì quan ngoại giao mà tàu thuyền treo cờ, trừ trường hợp khẩn cấp thì thông
báo cũng phải được gửi cùng thời điểm bắt, giữ. Quốc gia ven biển không có quyền bắt giữ
hoặc thẩm vấn, xét xử một vụ vi phạm xảy ra trên tàu trừ các trường hợp sau:

+ Hành vi vi phạm có ảnh hưởng đến quốc gia ven biển
+ Thuyền trưởng hoặc cơ qua ngoại giao của nước mà tàu treo cờ yêu cầu giúp đỡ
+ Vi phạm có tĩnh chất phá hoại hòa bình, an ninh và trật tự của quốc gia ven biển
+ Biện pháp này là cần thiết để ngăn chặn và trừng trị các hành vi buôn lậu ma túy và các chất
hướng thần.
III. Đánh giá chung.
Việt nam tuy đã sớm có những tuyên bố về các vùng biển chủ quyền nhưng lại chưa có hệ
thống luật thống nhất về biển đảo quốc gia. Việc xác định đường cơ sở thẳng để tính chiều
rộng của lãnh hải Việt Nam là chưa hợp lí bởi tính không rõ ràng và xác định cách quá xa bờ
các mốc tính đường cơ sở. Đặc biệt là điểm Ao là một điểm nằm ngoài biển thuộc vùng nước
lịch sử giữa VN và Campuchia, quá xa đất liền lại đang trong tranh chấp, điểm kết thúc tại
Vịnh Bắc Bộ nằm trên một vùng nước không phải là vịnh lịch sử như trong Tuyên bố 1982
của Việt Nam; hơn nữa các đoạn đường cơ sở của Việt nam lại kéo quá dài, chưa có quy định
cụ thể về các đường cơ sở các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa- một trong những
vùng biển đang trong trang chấp gay gắt giữa Việt Nam và Trung Quốc. Chính vì vậy pháp
luật cần phải có sự điều chỉnh phù hợp và kịp thời theo Công ước 1982 để có căn cứ xác định
chính xác các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, phát huy tối đa chủ quyền của quốc gia
trên các vùng biển để phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc gia.
NĐ 30/NĐ-CP ngày 29/1/1980 của Chính phủ Việt nam về hoạt động của tàu thuyền nước
ngoài trong các vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam quy định tàu thuyền quân sự nước
ngoài khi vào vùng tiếp giáp lãnh hải và lãnh hải của Việt nam phải xin phép, quy định này
được ban hành trước khi có Công ước Luật biển 1982 nên cần nhanh chóng sửa đồi cho phù
hợp với Công ước Luật biển 1982.
9


KẾT LUẬN
Trong hệ thống luật pháp quốc tế về biển, Công ước của Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982 là văn bản pháp lý quốc tế duy nhất được nhiều quốc gia chấp nhận
và vận dụng trong việc tuyên bố các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và

quyền tài phán của mình. Công ước Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý cho việc thương
lượng, đàm phán phân định biển giữa các quốc gia có biển với nhau; hoặc, trong tranh
tụng trước các tòa án quốc tế về biển. Bên cạnh đó, Công ước về Luật biển 1982 đã
định ra khung pháp lý cho các quốc gia trong việc xác định các vùng biển và quy chế
pháp lý của chúng, xác định ranh giới, biên giới trên biển giữa các quốc gia. Việt Nam
đã đưa ra cách xác định và quy chế pháp lý với các vùng biển thuộc chủ quyền quốc
gian là nội thủy và lãnh hải tương đối phù hợp với các quy định trong Công ước và
đang hoàn thiện các quy định về vấn đề này cho phù hợp nhất với quy định cảu quốc
tế nhưng vẫn đảm bảo lợi ích quốc gia.

10


Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982
2. Giáo trình Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004-NXB CAND.
3. Tailieu.vn
4. Bài thuyết trình cách xác định và chế độ pháp lý của các vùng biển theo Công
ước của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982,NCS.Ths. Ngô Hữu Phước.
Trưởng Bộ môn Công pháp quốc tế, trường học Luật TP. Hồ Chí Minh
5. Luật quốc tế lý luận và thực tiễn, NXB Giá dục 2001.
6. Giáo trình Luật quốc tế, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010.

11


MỤC LỤC

Contents
Contents....................................................................................................................................................12


12



×