Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tìm hiểu thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về khuyến mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.63 KB, 16 trang )

A. LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua 20 năm đất nước thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế. Theo
Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đã chủ trương: “ Phát triển mạnh
nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta bước đầu đã đạt được một
số thành tựu rất quan trọng”. Cùng với sự phát triển của xã hội và nền kinh tế thị
trường các loại hàng hoá được sản xuất, lưu thông ngày càng đa dạng với nhiều
kiểu dáng và chủng loại để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Hoạt
động khuyến mại hình thành và phát triển, đóng góp vai trò hết sức quan trọng
trong việc giúp các thương nhân tìm kiếm cơ hội thương mại thông qua giành
thắng lợi cho khoa học, thu hút hành vi mua sắm của họ. Nhận thức được vấn đề
này, nhà nước đã cụ thể hoá ý chí của mình thành pháp luật, đưa hoạt động
khuyến mại vào diện điều chỉnh bằng cách thiết lập hành lang pháp lý cho hoạt
động khuyến mại, xây dựng các hoạt động cần thiết cho các doanh nghiệp khi
thực hiện các hành vi này, đồng thời thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh
bảo vệ lợi ích của khuyến mại. Chính vì vậy em chọn đề “ Tìm hiểu thực tiễn
thực hiện các quy định pháp luật về khuyến mại ở Việt Nam” làm bài cuối kỳ
của mình.
Trong bài viết của mình em bố cục bài như sau:
Chương I: Những vấn đề về khuyến mại và pháp luật về khuyến mại.
Chương II: Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về khuyến mại ở
Việt Nam.
Chương III: Hoàn thiện các quy định pháp luật về khuyến mại ở Việt
Nam.

1


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ KHUYẾN MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KHUYẾN MẠI
1. Khái niệm và đặc điểm của khuyến mại


1.1.

Khái niệm

Khuyến mại là hình thức xúc thương mại khá phổ biến trong nền kinh tế
nước ta một vài năm trở lại đây. Khuyến mại phát triển cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị truờng với quan hệ sở hữu hàng hoá, dịch vụ ngày càng đa
dạng, phong phú.
Điều 58, LTM 2005 cho thấy chắc năng của dịch vụ chủ yếu của khuyến
mại cho thấy chức năng của dịch vụ chủ yếu của khuyến mại chính là kích thích
nhu cầu của người tiêu dùng thông qua việc dành cho khách hàng những lợi ích
vật chất nhất định. Việc “dành thêm” này có thể là lợi ích vật chất hoặc tinh thần
và hoạt động khuyến mại đó phải do thương nhân thực hiện.
1.2.

Đặc điểm

Chủ thể: Khuyến mại phải là hành vi do thương nhân thực hiện. Để tăng
cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện lựa
chọn dịch vị khuyến mại do các thương nhân khác căn cứ trên cơ sở hợp đồng
dịch vụ do thương nhân có nhu cầu khuyến mại và kinh doanh dịch vị khuyến
mại.
Cách thức xúc tiến thương mại là dành cho khách hàng những lợi ích vật
chất nhất định. Việc dành thêm những lợi ích vật chất nhất định đó enằm ngoài
giá mà người bán hàng và người mua hàng đã thoả thuận. Tuỳ vào mục tiêu của
đợt khuyến mại tuỳ thuộc vào trạng thái cạnh tranh trên thương trường, tuỳ
thuộc vào điều kiện kinh phí “ lợi ích” dành cho khuyến mại có thể là quà tặng,
hàng mẫu dùng thử, mua hàng giảm giá…
Mục đích của hoạt động khuyến mại là xúc tiến mua bán hàng hoá và
cung ứng dịch vụ, tức là tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội thương mại dành cho mình.

2


Để thực hiện mục đích này các đợt khuyến mại có thể hướng tới mục đích lôi
kéo các hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ khuyến mại, giới thiệu sản phẩm
mới…thông qua đó phát triển thị phần của doanh nghiệp trên thị trường.
2. Khái quát pháp luật về khuyến mại
2.1.

Khái niệm

Nghĩa rộng: tổng hợp các QPPL điều chỉnh quá trình thương nhân thực
hiện hoạt hoạt động khuyến mại giữa các thương nhân với khách hàng, quan hệ
tổ chức quản lý hoạt động khuyến mại…Các quy định của pháp luật về khuyến
mại được ghi nhận trong nhiều văn bản.
Nghĩa hẹp: là bộ phận của pháp luật thương mại bao gồm các QPPL điều
chỉnh quan hệ mang tính tài sản hình thành trong quá trình thương nhân tìm
kiếm, thúc đẩy MBHH, cung ứng dịch vụ thông qua việc dành cho khách hàng
những lợi ích nhất định.
2.2.

Nội dung

Theo quy định của LTM 2005, nội dung chủ yếu của hoạt động thương
mại về khuyến mại gồm:
Thứ nhất, quy định về các hình thức pháp lý của hoạt động khuyến mại.
Khuyến mại là hành vi xúc tiến MBHH cung ứng dịch vụ thông qua việc dành
cho khách hàng những lợi ích nhất định. Cách khuyến mại cũng rất đa dạng
chẳng hạn như khách hàng có thể được giảm giá, phát quà tặng, phần thưởng khi
mua sản phẩm hay có thể nhận phiếu mua hàng ưu đãi.

Điều 92 LTM 2005 quy định các hình thức khuyến mại. Nhìn chung so
với LTM 1997 quy định về hình thức khuyến mại sơ với việc quy định các hình
thức khuyến mại theo LTM 2005 đã có sự bổ sung theo hướng các hình thức này
có đặc điểm chung và bổ sung các hình thức khuyến mại mà các thương nhân
thường tiến hành trên thực tế, nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh ( hình thức
cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không trả tiền, tổ chức chương
trình khuyến mại thường xuyên.
3


Các quy định về các hành vi bị cấm trong khuyến mại, LTM 2005 đã dành
khá nhiều các quy định mang tính chất hướng dẫn thương nhân thực hiện bằng
cách thức mào và làm như thế nào để khuyến mại nhưng không vi phạm các quy
định cấm đoán, hạn chế họ trong quá trình thực hiện khuyến mại. Chẳng hạn,
cấm khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ kinh doanh, hàng hoá dịch vụ hạn chế
kinh doanh, hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được cung ứng,
khuyến mại hoặc sử dụng rượu bia cho những người dưới 18 tuổi.
Đây là những quy định hết sức cần thiết nhằm hạn chế hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, tạo môi trường kinh doanh không công bằng, đảm bảo lợi ích
của nhà nước, của người tiêu dùng và các thương nhân khác.
3. Những quy định của pháp luật về hoạt động khuyến mại
Hiện nay các hoạt động khuyến mại chủ yếu ở Việt Nam chịu sự điều
chỉnh của các văn bản pháp luật sau: LTM 2005, NĐ 37/2006/NĐ-CP, Luật
cạnh tranh 2004, pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng 1999.
3.1.

Quy định về cách thức và thủ tục khuyến mại

LTM 2005 và NĐ 37 đã quy định nhiều hình thức khuyến mại khác nhau
để thương nhân lựa chọn “ dành thêm” cho khách hành những lợi ích vật chất

nhất định. Việc dành thêm này có thể xảy ra trước, trong và sau khi MBHH, sử
dụng dịch vụ do thương nhân cung ứng dịch vụ. Đây là những lợi ích mà khách
hàng sẽ được hàng khi mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ do thương nhân cung cấp
trong thời gian khuyến mại và nó là lợi ích ngoài giá đã thoả thuận giữa người
bán và người mua.
* Đưa hàng mẫu để khách hàng sử dụng không phải trả tiền. Hàng mẫu
cho khách hàng dùng thử không phải trả tiền là hàng đang bán hoặc hàng sẽ bán
trên thị trường. Hàng hoá này đựơc doanh nghiệp tặng không cho khách hàng
mà không có điều kiện kèm theo.
* Tặng hàng hoá cho khách hàng cung ứng dịch vụ không thu tiền: doanh
nghiệp được dùng hàng hoá, dịch vụ đang được khách hàng hoặc bắt cứ các
4


hàng hoá, dịch vụ nào khác để tặng cho khách hàng mua hàng hoá, dịch vụ của
mình. Hàng hoá dịch vụ được tặng không phải là hàng hoá, dịch vụ cấm lưu
thông theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trị giá hàng hoá, dịch vụ dùng để
tặng không được vượt quá 30% giá trị của hàng hoá, dịch vị của doanh nghiệp
và bán ra tính vào thời điểm trước khuyến mại.
Việc pháp luật cho phép sử dụng hàng hoá, dịch vụ của thương nhân làm
quà tặng đối với khách hàng có hành vi mua sắm hàng hoá hoặc dịch vụ của
thương nhân khuyến mại đã góp phần khuyến khích sự liên kết, xúc tiến thương
mại, nhằm khai thác lợi ích tối đa của thương nhân. Tặng quà trong trường hợp
này không chỉ thúc đẩy hành vi mua sắm sử dụng dịch vụ của thương nhân mà
còn có cơ hội quảng cáo, giới thiêu hàng hoá, dịch vụ của nhau.
* Bán hàng cung ứng với hê thống giá bán với giá thấp hơn giá, giá cung
ứng dịch vụ trước đó được áp dụng trong thời gian khuyến mại. Khi khuyến mại
bằng hình thức này thương nhân phải niêm yết thời gian khuyến mại, giá hàng
hoá, dịch vụ bình thường trước khi khuyến mại và giá hàng hoá dịch vụ đã được
giảm giá trong thời gian khuyến mại. Giá khuyến mại tại thời điểm khuyến mại

không được thấp hơn 70% giá của hàng hoá, dịch vụ trước thời gian khuyến
mại.
Đối với hàng hoá dịch vụ thuộc diện nhà nước quy định giá cụ thể thì
không được giảm giá. Trong trường hợp hàng hoá, dịch vụ được nhà nước quy
định mức giá tối thiểu hoặc quy định khung giá hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ
không được thấp hơn mức giá tối thiểu. Đối với hình thức này khi thực hiện
chương trình thương nhân cũng cần lưu ý về tổng thời gian thực hiện chương
trình không quá 90 ngày trong 1 năm, 1 chương trình khuyến mại không quá 45
ngày. Đặc biệt pháp luật hiện hành nghiêm cấm các hành vi lợi dụng hình thức
khuyến mại để bán phá giá hàng hoá, dịch vụ nhằm cạnh tranh không lành
mạnh.

5


Đây là hình thức mà thương nhân có thể tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về
hàng hoá, dịch vị mà mình đã, đang và sẽ cung cấp. Mục đích là nâng cao hiểu
biết của người tiêu dùng về sản phẩm đồng thời giúp các cơ sở sản xuất phân bố,
đánh giá đúng nhu cầu, mức độ quan tâm của khách hàng đối với hành hoá, dịch
vụ của mình từ đó đưa ra các chiến lược kinh doanh cho phù hợp. Với điều kiện
này phiều dự thi có thể mang lại những giải thưởng hoặc mang lại những lợi ích
cho khách hàng. Do đó, sẽ tác động đến tâm lý hiếu kỳ của người tiêu dùnh kích
thích họ mua hàng hoá, dịch vụ cho thương nhân cung cấp.
* Hình thức bán hàng cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng,
phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng hay không được hưởng một
số lợi ích nhất định. Người tiêu dùng khi mua hàng hoá, dịch vụ sẽ được hưởng
một hay một số lợi ích vật chất nhất định, từ việc mua hàng, phiếu sử dụng dich
vụ và sẽ được hưởng một hoặc một số lợi ích vật chất từ việc mua hàng đó.
Phiếu mua hành thường có ý nghĩa giá hoặc mệnh giá thanh toán nhất định để
thanh toán những lần mua sau trong hệ thống bán hàng của thương nhân. Phiếu

sử dụng dịch vụ có thể cho sử dụng dịch vụ miễn phí theo điều kiện do nhà cung
cấp đưa ra. Với cách này thương nhân có thể khuyến khích khách hàng mua
hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ miễn phí trong thời gian nhất định. Để tạo hành
lang pháp lý cho thương nhân khi tiến hành khuyến mại theo pháp luật quy định:
giá trị tối đa của phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ được cung ứng trong
thời gia khuyến mại không lớn hơn 50% giá trị hàng hoá, dịch vụ khuyến mại đó
trước thời gian khuyến mại.
* Các hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo tham dự các
chương trình mang tính may rủi. Hiện nay, pháp luật mở chương trình khuyến
mại mang tính chất công khai, theo tỷ lệ đã công bố, có sự chứng kiến của khách
hàng. Trong trường hợp giá trị giải thưởng từ 100 000 000 trở lên, thương nhân
phải công bố cho Sở thương mại nơi tổ chức khuyến mại.
3.2. Quy định hạn chế, cấm đoán trong hoạt động khuyến mại
6


a. Về quy định hạn chế trong hoạt động khuyến mại
Hạn mức theo đơn giá: Theo quy định của pháp luật hiện hành quy định
mức giá tối đa cho hành hoá, dịch vụ khuyến mại không lớn hơn 50% giá trị
hành hoá dịch vụ này trước thời điểm khuyến mại.
Hạn mức tính theo tổng giá trị hành hoá, dịch vụ dùnh để khuyến mại.
Tổng giá trị của hành hoá, dịch vụ mà thương nhân thực hiện trong một chương
trình khuyến mại không lớn hơn 50% tổng giá trị hành hoá, dịch vụ khuyến mại
trừ trường hợp khuyến mẫu bằng đưa hành mẫu, cung ứng dịch vụ hành mẫu
dung thử không phải trả tiền.
Hạn mức thời gian khuyến mại: Tổng thời gian thực hiện chương trình
khuyến mại đối với một nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ không đước quá 90 ngày
trong năm, một chương trình khuyến mại không được quá 45 ngày. Quy định
này áp dụng đối với các hình thức khuyến mại: bán hàng, cung ứng dịch vụ giá
giảm hơn so với giá bán hang cung ứng dịch vụ trước đó.

Tổng thời gian thực hiện khuyến mại đối với một nhãn hiệu hàng hoá dịch
vụ không được qua 180 ngày trong 1năm và 1 chương trình khuyến mại không
quá 90 ngày. Hạn mức này áp dụng đối với các hình thức bán hàng: cung ứng
dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính chất may rủi.
b. Các quy định cấm đoán trong hoạt động khuyến mại
Để đảm bảo có môi trường cạnh tranh lành mạnh, trong đó có lợi ích hợp
pháp của thương nhân khác, của người tiêu dung cũng như bảo vệ lợi ích của
con người. LTM đã quy định các hành vi cấm đoán trong hoạt động thương mại,
điều 100: các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại:
“ 1. Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch
vụ hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được
phép cung ứng.

7


2. Sử dụng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ
cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa chưa được
phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng.
3. Khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18
tuổi.
4. Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để
khuyến mại dưới mọi hình thức.
5. Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ
để lừa dối khách hàng.
6. Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến
môi trường, sức khoẻ con người và lợi ích công cộng khác.
7. Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.
8. Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng.

9. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
10. Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến
mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại
quá mức tối đa theo quy định tại khoản 4 Điều 94 của Luật này.”
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI TẠI VIỆT NAM
Như đã phân tích ở trên hoạt động khuyến mại có ảnh hưởng rất lớn đến
nhận thức, sự lựa chọn của công chúng. Khuyến mại nếu được sử dụng đúng sẽ
đem lại những hiệu quả thiết thực và những lợi ích cho doanh nghiệp, người tiêu
dung và toàn xã hội. Ngược lại nó có thể gây ra những tiêu cực với đối tượng
này.
LTM 2005 quy định cụ thể 8 hình thức khuyến mại được phép thực hiện
và quy định để các doanh nghiệp có thể áp dụng các hình thức khuyến mại khác
nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp nhận. Theo quy định
8


của pháp luật hiện hành về khuyến mại trước khi tiến hành chương trình khuyến
mại thương nhân phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sau khi
kết thức hoạt động khuyến mại phải thông báo với cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại. Thực tiễn quản lý các chương trình khuyến mại hiện nay còn nhiều
khó khăn và hạn chế.
Thứ nhất, khi thương nhân dùng hành hoá dịch vụ của mình được kinh
doanh hợp pháp để phát tặng khuyến mại mà không kèm theo hành vi mua bán
thì khi nào là hành mẫu khi nào là quà tặng. Tháng 6/2006 tại Trung tâm thương
mại Big C( Hà Nội), Công ty TNHH nước giải khát Coca Cola tổ chức phát quà
uống tại chổ số lượng lớn chai Coca cola cho mọi đối tượng khách hàng. Đó là
hình thức tặng quà hay hàng mẫu? Nếu là hàng mẫu thì thương nhân không phải
thực hiện bất kỳ quy định nào về hạn mức khuyến mại, nếu là quà tặng thì thực
hiện các quy định về hạn mức tối giá trị hàng hoá, dịch vụ dùnh để khuyến mại

(tổng giá trị hàng hoá dùng để khuyến mại trong 1 chương trình khuyến mại
không được vượt quá 50% tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại).
Mục đích của thương nhân khi đưa hàng mẫu cho khách hàng là giới thiệu
với họ về hàng hoá, dịch vụ mình mà định hướng cho hành vi mua bán của họ
sau khi kiểm nghiệm chất lượng hàng mẫu. Khác với điều này mục đích của
hình thức tặng quà là dụng giá trị quà là dùng giá trị quà để thu hút khách hàng
mua hàng hoá, dịch vụ của thương nhân. Bởi vì cùng với loại hàng hoá có chất
lượng tương đương khách hàng sẽ có tâm lý muốn mua hàng hoá đang được
khuyến mại. Chính vì vậy pháp luật chỉ nên quy định việc tặng quà kèm theo
việc mua bán hàng hoá sử dụng dịch vụ còn lại các trường hợp đưa hàng hoá
cho khách hàng không thu tiền được coi là hình thức hàng mẫu. Mặt khác việc
xác định rõ bản chất ở đây của hình thức quà tặng cho phép phân biệt với các
hình thức xúc tiến thương mại khác. Ví dụ: hãnh điện tử Panasonic tại một trung
tâm thương mại hành vi này thực chất là quảng cáo chứ không phải quà tặng vì

9


lợi ích khuyến mại có được từ quả bóng bay không thu hút họ đến với sản phẩm
của công ty.
Thứ hai, quy định của pháp luật về trách nhiệm của thương nhân khuyến
mại chưa thật sự đầy đủ để đảm bảo lợi ích của khách hàng. Trong thực tế khách
hàng là người chịu thiệt thòi do những gian lận trong khuyến mại do các sai sót
kỹ thuât in ấn tem, phiếu, vật phẩm chứa đựng các thông tin về lợi ích vật chất
mà khách hàng được hưởng trong đó có khuyến mại. Ví dụ:1 khách hàng của
công ty sữa Hanoimilk mua sữa IZZI trong đợt khuyên mại từ 15/4->15/8/2005
với thẻ cào có thông tin trúng thưởng 30 000 000đồng ( sau khi cào phần nhũ
bạc). Sau khi liên hệ với công ty nhận giải thưởng khách hàng nhận đươc câu trả
lời: “ Phiếu cào đó không hợp lệ”. Khi sự việc xảy ra Công ty TNHH Sáng tạo
(đơn vị thực hiện in ấn toàn bộ thẻ cào của Công ty Hanoimilk đã thừa nhận lỗi

sai sót kỹ thuật. Lợi ích mà khách hàn nhận được chỉ là lời xin lỗi của Công ty
Hanoimilk bởi vì không có quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành làm cơ sở
pháp lý bảp vệ quyền lợi của họ trong trường hợp này.
Thứ ba, để đảm bảo sự trung thực của thương nhân về giải thưởng trong
các chương trình khuyến mại mang tích chất may rủi. Pháp luật quy định:
“Thương nhân có nghĩa vụ thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông
báo, cam kết với khách hàng ( khoản 3 điều 96 LTM 2005) là chưa đủ. Thực
tiễn cho thấy trong chương trình bật nắp chai trúng thưởng với cơ cấu 200 000
giải thưởng với 6 nắp chai in hình BMW trong số sản phẩm được bán trong đợt
khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó cục trưởng Cục xúc tiến thương mại (
Bộ thương mại) trong tổng số 215 tỷ đồng giá trị hàng hoá, dịch vụ dùng để
khuyến mại với cục tiếp xúc tiến thương mại tổng số giá trị giải thưởng trao rất
thấp chỉ đạt hơn 6 tỷ đồng chiếm 30% tổng số tiền khuyến mại đã được đăng ký.
Trong khi thương nhân vẫn tiêu thụ hàng hoá mà số lượng giải thưởng trao là rất
ít, như vậy chăc chắn có sự vi phạm trong nghĩa vụ thực hiện đúng như chương
trình khuyến mại đã được thông báo.
10


Thứ tư, quy định về hạn mức thời gian giảm giá: Thời gian thực hiện
giảm giá đối với 1 loại nhãn hiệu hành hoá, dịch vụ không được vượt quá 90
ngày trong 1 năm và 1 chương trình khuyến mại khác bị giới hạn giá trị dùng để
khuyến mại tính cho cả đợt khuyến mại sau.
Quy định về hạn mức tối đa giá trị hàng hoá dịch vụ dùnh để khuyến mại
tính cho cả đợt khuyến mại gặp khá nhiều khó khăn khi thi hành. Nếu thương
nhân tặng dịch vụ cho khách hành không thu tiền thì hạn nức tổng giá trị dịch vụ
không quá 50% giá trị dịch vụ. Cả 2 mức giá trị này chỉ có thể được xác định và
xử lý vi phạm khi chưa hết thời gian khuyến mãi không tránh khỏi sự bất đồng
giữa cơ quan quản lý nhà nước và thương nhân do mọi số liệu liên quan chỉ có
thể là ước tính.

Trong trường hợp thương nhân thực hiện nhiều hình thức khuyến mại
trong 1 chương trình khuyến mại, việc xác định giá trị dung để khuyến mại cũng
không đơn giản do thiếu cơ sở pháp lý. Ví dụ: Chương trình “ Những số 6 may
mắn” của Viettel Mobile được thực hiện từ ngày 26/3-> 26/5/2006 với nội dung
các thuê bao tham gia rút thăm trúng thưởng 6 xe cho khách hàng trả sau, tặng
60% giá trị thẻ nạp tiền tiếp theo cho khách hàng trả trước…Chương trình này
đã thực hiện theo các hình thức: bán hàng cung ứng dịch vụ kèm theo rút tham
trúng thưởng mang tính chất may rủi, giảm giá…Theo quy định của pháp luật
hiện hành việc xem xét chương trình khuyến mại nay có nội dung nào vi phạm
hay không sẽ gặp khá nhiều khó khăn vướng mắc đó là:
Khó có thể xác định được giá trị của hàng hoá, dịch vụ khuyến mại để làm
cơ sở xác định tổng giá trị hàng hoá dịch vụ dung để khuyến mại hay không? Vì
mỗi hình thức khuyến mại của chương trình lại có thêm đối tượng khuyến mại
khác nhau.
Việc xác định giá trị hạn mức vật chất tối đa dùng để khuyến mại sẽ xác
định cơ sở tổng hợp cả 3 hình thức hay xác định riêng cho từng hình thức.

11


Chỉ có thể tính chính xác giá trị hàng hoá dịch vụ để khuyến mại sau khi
kết thúc đợt khuyến mại trên cơ sở xác định số thuê bao mà khách hàng sử dụng
trên thực tế.
Thứ năm, quy định về chủ thể của hoạt động khuyến mại và vấn đề xác
định trách nhiệm pháp lý của chủ thể hoạt động khuyến mại. Theo quy định của
LTM 2005 chủ thể của hoạt động khuyến mại thương nhân có hành hoá khuyến
mại (tự tổ chức khuyến mại và tự chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm hoạt
động khuyến mại. Tuy nhiên pháp luật về xử lý hành chính và xử lý hình sự đối
với thương nhân hoạt động khuyến mại còn một số bất cập:
- Thiếu cơ sở pháp lý để xử lý hành chính đối với trách nhiệm kinh doanh

dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến mại cho thương nhân khác để hưởng thù
lao, LTM không có quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại. Do đó, việc xác định trách nhiệm của kinh doanh
dịch vụ có thể dựa trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại. Hợp đồng thường
chỉ cho phép trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ với bên thuê dịch
vụ mà khó rang buộc trách nhiệm của họ đối với người tiêu dung và nhà nước.
- Thiếu quy định để xử lý hình sự với trách nhiệm là doanh nghiệp khi thi
vi phạm pháp luật hoạt động khuyến mại và các hoạt động xúc tiến thương mại
khác. BLHS hiện hành quy đinh chủ thể chịu trách nhiệm hình sự là cá nhân,
trong khi đó có thể xuất hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do cá nhân thực hiện
với danh nghĩa của pháp nhân , theo yêu cầu và vì lợi ích của pháp nhân.
Thứ sáu, xuất phát từ phía người tiêu dùng. Họ dễ dàng tiếp cận một cách
tin tưởng vào các hoạt động khuyến mại của các thương nhân và thương phó
mặc bảo vệ quyền lợi vào tay cơ quan nhà nước và pháp luật. Xét trên khía cạnh
này có thể nói đại đa số người tiêu dùng dễ tính khi đối mặt với kinh nghiệm
hành chục năm có thể là hành trăm năm của các thương nhân trên thị trường.
Lợi dụng sự dễ tính của đa số người tiêu dung các thương nhân làm ăn
thường thiếu nghiêm túc đã thường xuyên lách vào các kẽ hở của hệ thống pháp
12


luật và tiến hành các hoạt động khuyến mại thiếu trung thực và rõ ràng vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng làm biến dạng thị trường. Có những thương nhân
tung ra hàng loạt các chiến dịch khuyến mại quy mô lớn, hứa hẹn nhiều lợi ích
cho khách hàng, gây nhiễu loạn thị trường, cạnh tranh không lành mạnh làm tổn
hại tới quyền của các thương nhân hoạt động khuyến mại trung thực, nghiêm
chỉnh.
Mặt khác với mức độ nhận thức của người tiêu dùng đôi khi gây sức ép
ngược lại đối với các hoạt động kinh doanh của các thương nhân trên thị trường.
Người tiêu dùng có thể tiếp cận với các hoạt động không đầy đủ này và từ đó xử

phạt khiếu nại trái pháp luật, trái nguyên tắc thị trường gây trở ngại cho hoạt
động kinh doanh và làm mất uy tín của các thương nhân bị khiếu nại. Cộng thêm
vào đó là hệ thống trả lời khiếu nại chưa tốt từ phía thương nhân lẫn từ phía cơ
quan quản lý nhà nước làm tình trạng này ngày càng phổ biến.
CHƯƠNG III: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
KHUYẾN MẠI
1. Hoàn thiện các quy định bảo vệ người tiêu dùng
Các thông tin khuyến mại phải được thương nhân đưa ra ở các mức đầy
đủ, cần thiết. Quy định này có ý nghĩa đặc biệt nhằm bảo vệ người tiêu dùng.
Các thông tin này có ý nghĩa nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Các thông tin
khuyến mại này phải đảm bảo rằng các khuyến mại được thực hiện theo đúng
như ngày cấp giấy phép khuyến mại hay các quy định chung của pháp luật.
Thương nhân tiến hành các hoạt động khuyến mại phải có nghiã vụ đưa ra các
thông tin khuyến mại rõ ràng cụ thể.
Các thông tin khuyến mại phải trong sáng rõ ràng đối với đa số người tiêu
dùng. Thông tin khuyến mại phải được thương nhân căn cứ vô điều kiện vào
người tiêu dùng ngay khi có yếu cầu về hàng hóa, dịch vụ đang được khuyến
mại. Các thông tin này phải đảm bảo căn cứ đầy đủ, rõ ràng các điều kiện khoa
học phải có để tham gia vào chương trình khuyến mại.
13


Thương nhân phải đưa ra các thông tin khuyến mại, các quy định về giải
quyết tranh chấp, căn cứ thông tin điều chỉnh giải quyết tranh chấp. Điều này
đảm bao cho người tiêu dùng muốn khiếu nại thương nhân về hoạt động khuyến
mại thì họ có thể thực hiện được mà không gặp bất kỳ trở ngại, khó khăn nào.
Thương nhân phải có sẵn các thông tin khuyến mại cho người tiêu dùng
ngay khi các chương trình khuyến mại bắt đầu thực hiện. Thương nhân phải căn
cứ vào các bằng chứng chính xác về việc thực hiện các quy định về thông tin
khuyến mại khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2. Quy định hạn mức tối đa giá trị hàng hoá, dịch vị dùng đê khuyến mại
Việc quy định khống chế thời gian khuyến mại có thể gây khó khăn cho
doanh nghiệp sản xuất cùng lúc nhiều nhãn hiệu sản phẩm trên cùng một loại
hành hoá, dịch vụ. Nếu thực hiện khắt khe về quy định thời gian khuyến mại thì
doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng khuyến mại cho nhãn hiệu này sẽ mất khuyến
mại cho nhãn hiệu khác đang trong giai đoạn sản xuất. Và như hiện nay có thể
một số doanh nghiệp lách luật bằng nhiều cách, cuối cùng nhằm bán phá giá
hành hoá.
Ngoài ra quy định thời gian tối đa để doanh nghiệp trao thưởng là 30 ngày
đối với chương trình khuyến mại có trao giải thưởng cũng chưa hợp lý. Và thực
tế chương trình khuyến mại của doanh nghiệp cũng khác nhau, doanh nghiệp
cũng phải trải qua một loạt quá trình như phân loại hành khuyến mại, kiểm tra
chất lượng hành…Đối với chương trình khuyến mại trong phạm vi một tỉnh vấn
đề cũng gặp nhiều khó khăn, vậy trong trường hợp khuyến mại trên phạm vi
nhiều tỉnh, thành phố thì doanh nghiệp cũng cần có khoảng thời gian nhất định
để thực hiện. Để quy định này được linh hoạt hơn, pháp luật cần bổ sung đối với
chương trình khuyến mại có quy mô lớn từ hai tỉnh thành phố trực thuộc trung
ương trở lên thì thời gian doanh nghiệp trao giải thưởng 30 ngày hoặc không
hơn 60 ngày và phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp nhận.

14


3. Vấn đề phải trích tiền thưởng nộp cho ngân sách nhà nước sau khi
trúng thưởng
Doanh nghiệp trích50% giá trị giải thưởng công bố vào ngân sách nhà
nước trong trường hợp có người trúng thưởng. Quy định này chưa thật sự đảm
bảo quyền lợi cho thương nhân trong hoạt động khuyến mại. Bởi lẽ, thực tế
không phải doanh nghiệp nào cũng có sự gian lận trong chương trình khuyến
mại. Ngoài ra trong một số trường hợp khuyến mại bằng thẻ cào nếu bán thẻ

không hết thì doanh nghiệp phải bán thẻ đi để nộp tiền cho ngân sách nhà nước.
4. Vấn đề nâng cao trách nhiệm trung thực về giải thưởng và chọn người
trúng thưởng trong các chương trình khuyến mại mang tính chất may rủi cần
quy định cụ thể hơn nữa trong các văn bản kể cả trách nhiệm hình sự và hành
chính.
Về quy định cấm chương trình khuyến mại bắt khuyến mại phải trả tiền
hoặc thực hiện nghĩa vụ tài chính khi tham gia. Thực tiễn quy định nay không áp
dụng trong một số trường hợp: chẳng hạn chương trình cho phép dung thử sản
phẩm là máy điện thoại, để dung khuyến mại phải có sim. Nếu như vậy đối
tượng chương trình không hợp lệ.

15


C. KẾT LUẬN
Hoạt động khuyến mại là hoạt động cần thiết gắn liền với kinh tế thị
trường nói chung và nền kinh tế thị trường có sự đièu tiết của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghiã nói riêng. Hoạt động khuyến mại không chỉ cần
thiết đối với các thương nhân mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với người tiêu dùng
và hoạt động quản lý nhà nước bằng căn cứ pháp luật. Để áp dụng yêu cầu trên
hệ thống pháp luật thương mại về khuyến mại cần được xác định trên cơ sở
thống nhất hợp lý, hài hoà lợi ích cộng đồng của thương nhân, cộng đồng người
tiêu dung. Ngoài ra hệ thống pháp luật còn phải đảm bảo sao cho các cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể hỗ trợ được hoạt động hợp pháp và ngăn
chặn những hoạt động trong phạm lĩnh vực thương mại.

16




×