Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Trách nhiệm pháp lý của vợ, chồng đối với những giao dịch do một bên chồng hoặc vợ thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117 KB, 17 trang )

I.

LỜI MỞ ĐẦU

Hôn nhân và gia đình – đó là những hiện tượng xã hội mà luôn luôn được
các nhà triết học, xã hội học, sử học, luật học… nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở
để của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp chặt chẽ,
hài hòa lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội.
Sự kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung
của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền về nhân
thân và các nghĩa vụ và quyền về tài sản, trong đó nghĩa vụ và quyền về nhân
thân là nội dung chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Các nghĩa vụ và quyền này
được pháp luật bảo hộ.
Quyền và nghĩa vụ nhân thân là nội dung chủ yếu của quan hệ vợ chồng
nhưng quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng cũng đóng vai trò quan trọng
không kém trong đời sống gia đình, mang những nét đặc trưng gắn liền với nhân
thân của vợ chồng.
Nhận thức được điều này, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Trách nhiệm pháp
lý của vợ, chồng đối với những giao dịch do một bên chồng hoặc vợ thực hiện
liên quan đến tài sản chung của vợ chồng”. Do kiến thức còn hạn chế nên bài
làm không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý từ các Quý
thầy cô cùng các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

1


II.

NỘI DUNG CHÍNH


Trách nhiệm pháp lý của vợ, chồng đối với những giao dịch do một bên
chồng hoặc vợ thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là một vấn đề
đang tồn tại nhiều bất cập trong thực tế. Để tìm hiểu rõ hơn, em xin trình bày
một số khái niệm.
1. Cơ sở lý luận
a. Trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh
chịu thể hiện qua việc họ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước
được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật khi họ vi phạm
pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật
quy định.
Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là điểm
khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã hội khác
như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính trị…Trách
nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy
định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Đây là điểm khác biệt giữa
trách nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước như bắt
buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng…
Trách nhiệm pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải
gánh chịu thể hiện qua việc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài
sản, về nhân thân, về tự do… mà phần chế tài của các quy phạm pháp luật đã
quy định. Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt
hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định.
2


b. Giao dịch dân sự

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Giao dịch một bên ở đây là một loại giao dịch dân sự, nó do một bên (vợ
hoặc chồng) thực hiện.
c. Tài sản chung của vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ chồng.
Theo đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát
sinh của tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau:


Tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân;



Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể
là: tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng
có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy
định của Bộ luật dân sự 2005 như: từ Điều 239 đến Điều 244 BLDS.



Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên;



Tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hoặc thừa kế chung;



Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kêt hôn hoặc những tài sản mà
vợ chồng được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng trong thời kỳ

hôn nhân nhưng vợ chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung
hoặc theo pháp luật đã quy định là tài sản chung.

3


Như vậy, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng do vợ, chồng
tạo ra bằng công sức của mỗi người từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân
chấm dứt và những tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận hoặc do pháp luật quy
định. Cơ sở pháp lý để xác định những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu là tài
sản chung của vợ chồng là giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản có ghi tên của
cả vợ và chồng.
2. Nội dung chính
a. Những vấn đề cơ bản về tài sản của vợ chồng
Được xem là tế bào của xã hội, gia đình có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con
người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, gia đình có
tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Một gia đình được xây
dựng trên cơ sở của các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng trong
đó quan hệ hôn nhân là nền tảng, có ý nghĩa quyết định các mối quan hệ khác.
Mỗi gia đình nói chung và các cặp vợ chồng nói riêng ngoài nghĩa vụ yêu
thương, quý trọng chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, các thành viên còn phải thực hiện
nghĩa vụ duy trì đời sống chung; mà đời sống đó chỉ có thể được đảm bảo một
cách vững chắc nếu nó được xây dựng từ một nền tảng vật chất nhất định. Hay
nói cách khác một trong những chức năng cơ bản của gia đình trong đó có mỗi
cặp vợ chồng đó là chức năng kinh tế và nội dung của nó là sự tham gia của các
thành viên vào quá trình hoạt động sản xuất xã hội, góp phần tạo dựng và phát
triển cơ sở vật chất, tinh thần nhất định cho gia đình và xã hội. Chính vì vậy các
quy định điều chỉnh vấn đề tài sản vợ chồng luôn được các nhà làm luật quan
tâm xây dựng như là một trong những chế định quan trọng nhất của pháp luật

hôn nhân gia đình.

4


Dưới góc độ pháp lý tài sản vợ chồng có thể hiểu là tổng hợp các quy định
của pháp luật điều chỉnh về vấn đề tài sản vợ chồng bao gồm các quy định căn
cứ xác lập tài sản vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung, tài sản riêng, nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng.
b. Trách nhiệm pháp lý của vợ, chồng đối với những giao dịch do một bên
chồng hoặc vợ thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ chồng
Quyền bình đẳng của vợ và chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong
việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung
có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung
để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận (Điều 28 Luật hôn
nhân và gia đình). Như vậy, mọi giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá
trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình thì vợ chồng cần bàn bạc , thỏa
thuận với nhau thì những giao dịch đó mới có giá trị pháp lý.
Đối với những giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị không lớn
hoặc để phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình thì chỉ cần một bên vợ
hoặc chồng thực hiện thì đương nhiên coi là có sự đồng ý của bên kia.
Trong trường hợp vì lý do nào đó mà chỉ có một bên vợ hoặc chồng thực
hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm để phục
vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình thì bên kia phải chịu trách
nhiệm liên đới (Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000).
Đối với trường hợp vợ chồng tiến hành sản xuất kinh doanh
Thứ nhất, chỉ có môt bên vợ hoặc chồng tiến hành hoạt độn sản xuất kinh
doanh. Có những cặp vợ chồng mà xuất phát từ điều kiện thực tế của gia đình,
họ quyết định chỉ cẩn một bên tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, một bên
5



tham gia các quan hệ lao động hoặc ở nhà chăm sóc con cái, chăm lo công việc
hàng ngày của gia đình. Cũng có thể họ thuộc đối tượng không được phép thành
lập doanh nghiệp.
Có thể xảy ra một số trường hợp khi chỉ có một bên vợ chồng tiến hành hoạt
động sản xuất, kinh doanh riêng. Có thể đó là việc hai bên thỏa thuận để cho một
bên vợ chồng tiến hành hoạt động kinh doanh nhưng cũng có thể họ sẽ chia tài
sản chung để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, cũng có thể là hoạt động kinh doanh do một bên
thực hiện diễn ra trước khi hai bên xác lập quan hệ hôn nhân. Việc phân biệt này
rất có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm về tài sản từ hoạt động sản xuất
kinh doanh. Nếu họ đã chia tài sản chung để một bên tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh riêng hoặc hoạt động kinh doanh này diễn ra trước khi hai bên
xác lập quan hệ vợ chồng thì về mặt nguyên tắc, những rủi ro, trách nhiệm về tài
sản phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh riêng đó được coi là nghĩa vụ
riêng về tài sản và sẽ được bảo đảm thực hiện bằng tài sản riêng của bên đó. Nếu
họ bàn bạc thỏa thuận dùng tài sản chung để cho một bên tiến hành hoạt động
kinh doanh thì nên coi đây là hoạt động kinh doanh chung của cả hai vợ chồng.
Do vậy lúc này trách nhiệm về tài sản phát sinh phải được xác định là nghĩa vụ
chung của cả hai vợ chồng và phải được bảo đảm thực hiện bằng nguồn tài sản
chung theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Thứ hai, trường hợp vợ, chồng cùng tham gia thành lập và quản lý hai doanh
nghiệp khác nhau. Có thể hai vợ chồng cùng thỏa thuận chia tài sản chung để
đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật HNGD và nghĩa
vụ phát sinh trong trường hợp này sẽ được bảo đảm bằng nguồn tài sản riêng của
mỗi bên. Tuy nhiên cũng có thể vợ chồng thỏa thuận dùng tài sản chung để thành
lập hai doanh nghiệp khác nhau và mỗi người sẽ quản lý một cơ sở tùy thuộc vào
6



ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh cũng như tùy thuộc vào trình độ chuyên môn
của mỗi bên. Lúc này nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động kinh doanh sẽ được bảo
đảm thực hiện bằng tài sản chung hay tài sản riêng thì vẫn còn có những quan
điểm khác nhau.
Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện
“Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp
pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết
yếu của gia đình”.
Theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật dân sự: “Nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa
vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và người có quyền có thể yêu cầu bất cứ
ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”.
Lần đầu tiên Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đặt ra vấn đề: “Vợ hoặc
chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một
trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia
đình”. Điều này có nghĩa khi vợ chồng thực hiện giao dịch dân sự nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình thì đương nhiên được coi là đã có sự
thỏa thuận của cả hai vợ chồng và vợ chồng cùng liên đới chịu trách nhiệm.
Trong cuộc sống và sinh hoạt gia đình, để đáp ứng nhu cầu về mặt vật chất và
tinh thần của các thành viên, việc vợ hoặc chồng phải tham gia giao kết nhiều
loại hợp đồng dân sự với các chủ thể khác là phổ biến, pháp luật không thể kiểm
soát mỗi khi giao kết hợp đồng phải có sự thỏa thuận, thậm chí bằng văn bản của
hai bên. Vì vậy, mặc dù giao dịch đó chỉ do một bên vợ hoặc chồng thực hiện
với người thứ ba nhưng vẫn được thừa nhận là phù hợp với pháp luật, vợ hoặc
chồng không thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng này bị vô hiệu với lý do chưa có sự
đồng ý của mình. Việc thực hiện hợp đồng phải được bảo đảm bằng tài sản
7


chung của vợ chồng, tức vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao

dịch dân sự hợp pháp do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đảm bảo nhu cầu sinh
hoạt thiết yếu của gia đình. Có như vậy quyền lợi của người thứ ba tham gia xác
lập hợp đồng liên quan đến tài sản chung của vợ chồng mới được đảm bảo trước
pháp luật.
Đây là một quy định rất quan trọng và cần thiết, nhằm ràng buộc trách nhiệm
của vợ chồng đối với nhau và đối với cuộc sống gia đình. Điều này khắc phục
một tình trạng vẫn xảy ra trên thực tế: đó là sự thờ ơ vô trách nhiệm của vợ
chồng đối với công việc gia đình. Đôi khi vợ hoặc chồng tự mình thực hiện
những giao dịch dân sự vì nhu cầu sinh hoạt chung thiết yếu của gia đình nhưng
khi trách nhiệm phát sinh người chồng hoặc vợ không chịu chia sẻ trách nhiệm,
không có sự hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau trong cuộc sống gia đình. Có thể
nói rằng, quy định tại Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là một bước
cụ thể hóa về nghĩa vụ tài sản của vợ chồng.
Tuy nhiên trên thực tế cũng có một số trường hợp hai bên đã lợi dụng quy
định để trốn tránh trách nhiệm hoặc gây thiệt hại làm ảnh hưởng đến quyền lợi
về tài sản giữa vợ hoặc chồng. Vì vậy, hướng dẫn khái niệm: “nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu của gia đình” là rất cần thiết.
Thực tế…
1. Tại Điều 25 của Luật hôn nhân và gia đình quy định: Trách nhiệm liên đới
của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện: “Vợ hoặc chồng phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai
người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Và
khoản 3 Điều 28 của Luật này còn quy định: Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc nguồn sống duy
8


nhất của gia đình việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ
chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh
riêng theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, thì việc xác lập,
thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ, chồng
được quy định như sau:
“1. Trong trường hợp việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc tài sản
chung là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc xác lập, thực hiện hoặc chấm
dứt các giao dịch liên quan đến định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một
bên vợ hoặc chồng nhưng tài sản đó đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi
tức phát sinh là nguồn sống duy nhất của gia đình mà pháp luật quy định thì sự
thỏa thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản
có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực…)
2. Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không có quy định phải tuân theo
hình thức nhất định, nhưng giao dịch đó có liên quan đến việc định đoạt tài sản
thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng đã đưa vào sử dụng
chung và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia
đình, thì việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch đó cũng phải có sự
thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng.
3. Tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng nói tại khoản 1, khoản 2 Điều này
được xác định căn cứ vào phần giá trị của tài sản đó trông khối tài sản chung
của vợ chồng.
4. Trong trường hợp vợ chồng xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản chung quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà
9


không có sự đồng ý của một bên, thì bên đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch đó vô hiệu theo quy định tại Điều 139 của Bộ luật Dân sự và hậu quả
pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật Dân sự.”
2. Theo các quy định nêu trên của pháp luật thì khi tham gia vào giao dịch

dân sự nói chung cũng như hợp đồng dân sự nói riêng đối với tài sản chung của
vợ và chồng đều phải có sự thỏa thuận và đồng ý của cả vợ và chồng. Nếu một
bên vợ hoặc chồng không có sự đồng ý, thì giao dịch dân sự hay hợp đồng dân
sự đó là bất hợp pháp, bị coi là vô hiệu. Đối với các hợp đồng dân sự do một bên
vợ hoặc chồng thực hiện thì vợ hoặc chồng chỉ phải chịu trách nhiệm liên đới
khi:
- Giao dịch đó phải hợp pháp;
- Nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình.
Song trên thực tế giải quyết các vụ án về vấn đề này lại rất phức tạp, rất
nhiều hợp đồng dân sự do một bên vợ hoặc chồng thực hiện không có sự bàn
bạc, thỏa thuận với bên kia. Khi một bên vợ hoặc chồng phát hiện ra, có yêu cầu
Tòa án hủy hợp đồng, các Tòa án đều xác định hợp đồng dân sự đó vị vô hiệu,
nhưng việc xác định trách nhiệm liên đới của bên không tham gia của các Tòa án
lại rất khác nhau. Nhận thấy cần phải nhận thức đúng về vấn đề này và có đường
lối giải quyết cho thống nhất, xin nêu một số ví dụ cụ thể như sau:
Ví dụ thứ nhất: Theo hợp đồng mua bán căn nhà số 24 A Lê Minh Ngương,
phường Mỹ Long thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang ngày 3-01-2001 lập tại
Phòng Công chứng Nhà nước thì vợ chồng ông Vương Tấn Dũng, bà Phạm Thị
Nga thỏa thuận bán nhà cho vợ chồng ông Lâm Đức Trung, bà Văng Thị Bạch
Tuyết với giá 300.000.000 đồng. Ngày 28-02-2001 ông Lâm Đức Trung được
UBND tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với căn nhà
nêu trên. Trong khi bán nhà cho ông Trung, thì ông Dũng vẫn đang cho bà
10


Nguyễn Kim Hoàng thuê. Ngày 6-3-2001 ông Dũng lại lập hợp đồng bán căn
nhà trên cho bà Kha Thị Hiếng với giá 345.000.000 đồng. Do đó ông Dũng đã
khởi kiện xin hủy hợp đồng mua bán nhà với ông Trung vì cho rằng ông bị ông
Trung ép buộc bán nhà trừ nợ và nhà đất là tài sản của ông và bà Nga, hợp đồng
mua bán nhà có chữ ký của bà Nga, ông Dũng xin hoàn lại tiền bán nhà cho ông

Trung.
Căn cứ vào kết luận giám định số 1017 ngày 15-4-2002 của Viện khoa học
hình sự Bộ Công an thì chữ ký trông hợp đồng mua bán nhà giữa ông Dũng, bà
Nga với ông Trung, bà Tuyết không phải chữ ký của bà Nga, nên Tòa án cấp sơ
thẩm và cấp phúc thẩm đều xác định hợp đồng mua bán nhà giữa ông Dũng với
vợ chồng ông Trung là vô hiệu. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 147/DSPT ngày
16-4-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang nhận định để đảm bảo việc thi
hành án nên tuyên xử buộc vợ chồng ông Dũng và bà Nga cùng liên đới hoàn trả
cho vợ chồng ông Trung 300.000.000 đồng tiền bán nhà đã nhận và tiền chênh
lệch 1/2 giá trị căn nhà là 191.807.000 đồng. (Ngoài ra Bản án còn giải quyết các
quan hệ pháp luật khác).
Ví dụ thứ hai: Ngày 16-3-2000 ông Nguyễn Văn Can lập hợp đồng bán cho
anh Doãn Hữu Hùng căn nhà tại tổ 6, khu 5, phường Trần Hưng Đạo, thành phố
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh là tài sản chung của ông và bà Ngô Thị Lý (là vợ
ông) với giá 34.500.000 đồng, không có sự đồng ý của bà Lý. Do đó bà Lý đã
khởi kiện đòi anh Hùng phải trả lại nhà cho bà. Ông Can và anh Hùng đều thừa
nhận việc mua bán nhà chưa có sự đồng ý của bà Lý, tiền bán nhà ông Can đã sử
dụng. Anh Hùng đề nghị được tiếp tục thực hiện hợp đồng, trường hợp phải trả
lại nhà thì yêu cầu ông Can, bà Lý phải trả cho anh tiền mua nhà và tiền sửa
chữa nhà mà anh đã bỏ ra là 28.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc
thẩm đều xác định hợp đồng mua bán nhà giữa ông Can với anh Hùng là vô hiệu.
11


Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 11/DSPT ngày 6-3-2002 của Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh đã quyết định: Buộc anh Hùng phải trả cho bà Lý, ông Can căn
nhà tại tổ 6, khu 5, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh. Buộc ông Can phải trả cho anh Hùng 34.500.000 đồng. Vợ chồng bà Lý,
ông Can có trách nhiệm liên đới thanh toán tiền sửa chữa nhà cho anh Hùng.
19.000.000 đồng (vì bà Lý, ông Can cùng được nhận lại nhà, thì cùng phải liên

đới thanh toán cho anh Hùng tiền sửa chữa nhà).
Ví dụ thứ ba: Từ ngày 2-7-1997 đến 28-10-1998, bà Nguyễn Thị Nga có cho
bà Đào Thị Nhâm vay 7 lần tổng cộng là 477.000.000 đồng. Việc vay nợ chỉ do
một mình bà Nhâm ký giấy nhận nợ. Hai bên thỏa thuận lãi suất 2%/tháng, bà
Nhâm có giao cho bà Nga giấy tờ nhà 3 tầng do bà Nhâm đứng tên để thế chấp
nợ. Do bà Nhâm không chịu trả nợ nên bà Nga đã khởi kiện đòi nợ. Tại Bản án
dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 23-3-1999 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm
Phả và tại Bản án dân sự phúc thẩm số 32/DSPT của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh đều quyết định: Buộc bà Nhâm phải hoàn trả bà Nga 477.000.000
đồng tiền nợ gốc và 143.000.000 đồng tiền lãi. Ngày 03-5-2002 Phó chánh án
Tòa án nhân dân tối cao đã có Quyết định số 54/KNDS kháng nghị Bản án dân
sự phúc thẩm nêu trên với nhận định: Cần xác định ông Hà Văn Hiên – chồng bà
Nhâm liên đới chịu trách nhiệm trả nợ, vì việc kinh doanh của bà Nhâm nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình và ông Hiên không thừa nhận nhưng ông
Hiên đương nhiên phải biết việc kinh doanh đó của bà Nhâm. Tại Quyết định
giám đốc thẩm số 173/GĐT-DS ngày 22-8-2002 của Tòa án nhân dân tối cao đã
hủy Bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho Toà án nhân
dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo hướng kháng nghị của Phó chánh
án. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 30-6-2003 và Bản án dân sự
phúc thẩm số 131/DSPT ngày 19-6-2003 đều quyết định: Buộc bà Nhâm và ông
12


Hiên phải trả nợ cho bà Nga 477.000.000 đồng nợ gốc và 143.000.000 đồng tiền
lãi.
Như vậy, qua các ví dụ nêu trên đều cho thấy: Các hợp đồng dân sự (hợp
đồng mua bán nhà và hợp đồng vay nợ) đều được một bên vợ hoặc chồng xác
lập liên quan đến tài sản chung của vợ chồng các hợp đồng dân sự đó đều bị Tòa
án các cấp tuyên bố vô hiệu là đúng. Song việc xác định trách nhiệm liên đới của
vợ chồng đối với hợp đồng dân sự do một bên thực hiện và việc xử lý hậu quả

pháp lý của hợp đồng vô hiệu có khác nhau.
3. Để khắc phục tình trạng trên khi giải quyết các vụ án xác định trách nhiệm
liên đới liên quan đến hợp đồng dân sự bất hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng
thực hiện đối với tài sản chung của vợ chồng, em nhận thấy cần phải thống nhất
đường lối giải quyết loại việc này như sau:
- Nếu một bên vợ hoặc chồng tham giá các hợp đồng dân sự liên quan đến tài sản
chung có giá trị lớn mà không có sự đồng ý của bên kia, thì bên đó có quyền yêu
cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng dân sự đó, Tòa án phải tuyên bố hợp đồng dân sự
đó là vô hiệu.
- Tuy một bên vợ hoặc chồng không có sự tham gia hợp đồng dân sự, làm cho
hợp đồng dân sự đó trở nên bất hợp pháp, bị coi là vô hiệu, song thông qua các
hợp đồng đó vẫn nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình, thì bên vợ hoặc
chồng không tham gia hợp đồng dân sự vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới đối
với việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu.
- Việc thể hiện sự đồng ý hay không đồng ý của bên vợ hoặc chồng không tham
gia hợp đồng dân sự, không nhất thiết phải được xác định bằng văn bản thỏa
thuận, mà chỉ cần xác định bên vợ hoặc chồng không tham gia hợp đồng dân sự
đó có biết và phải biết việc tham gia hợp đồng dân sự của phía bên kia, thì sẽ
13


buộc họ phải có trách nhiệm liên đới đối với việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp
đồng vô hiệu.
Tóm lại, vấn đề về trách nhiệm pháp lý của vợ chồng cũng như vấn đề về
trách nhiệm và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng luôn là một trong những vấn đề
quan trọng nhất của Luật hôn nhân và gia đình. Bên cạnh những quy phạm đã
được quy định sẵn thì trên thực tế vẫn còn rất nhiều những bất cập, vì vậy mong
rằng trong tương lai, nước ta sẽ có một hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện
hơn nữa, xứng đáng là công cụ đắc lực của Nhà nước về quản lý xã hội.


14


III.

LỜI KẾT

Bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời đã mang lại rất nhiều những
điểm tiến bộ, có nhiều những quy định mới hơn, chi tiết và cụ thể hơn. Điều này
cũng thể hiện sự tiến bộ về trình độ, kỹ thuật lập pháp cũng như tiến bộ trong
cách tiếp cận với vấn đề bình đẳng giới. Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình
đã dần được hoàn thiện theo thời gian, là công cụ pháp lý của Nhà nước ta, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân lao động.
Có thể nói Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã thể hiện được
phần nào “trách nhiệm” của nó trong việc duy trì những “tế bào của xã hội” được
ổn định, giúp cho mối quan hệ tình cảm giữa vợ chồng tránh được những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường thay đổi và giữ được mục đích tốt đẹp
của hôn nhân.

Hết.

15


MỤC LỤC
Trang
I.
II.

III.


Lời mở đầu
Nội dung chính
1. Cơ sở lý luận
a. Trách nhiệm pháp lý
b. Giao dịch dân sự
c. Tài sản chung của vợ và chồng trong TKHN
2. Nội dung chính
a. Những vấn đề cơ bản về tài sản của vợ chồng
b. Trách nhiệm pháp lý của vợ, chồng đối với những giao
dịch do một bên chồng hoặc vợ thực hiện liên quan đến
tài sản chung của vợ chồng
Đối với trường hợp vợ chồng tiến hành SXKD
Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch
một bên thực hiện
Thực tế
Lời kết

1
2
2
2
3
3
4
4
5
5
7
8

15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

16


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
3. Nghị định của Chính phủ số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001.
4. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2005.
5. http:// vietnamese-law-consultancy.com
6.
7.
8.
9.
10.

17



×