Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.81 KB, 11 trang )

NỘI DUNG BÀI VIẾT

NỘI DUNG BÀI VIẾT.................................................................................................................... 1
C. KẾT LUẬN.................................................................................................................................. 9
Tài liệu tham khảo..................................................................................................................... 9
NỘI DUNG BÀI VIẾT................................................................................................................. 11

A. MỞ ĐẦU
Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là định hướng cơ bản trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta. Toà án nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan thuộc bộ máy
nhà nước, là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật trong các giai đoạn cách
mạng của đất nước. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay với cơ cấu tổ chức
không còn phủ hợp, đã xảy ra nhiều khó khăn bất cập trong việc thực thi
quyền hạn và nhiệm vụ của ngành tòa án. Vì vậy điểm nhấn quan trọng của
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà Bộ chính trị để ra chính là việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.
*
1


B. NỘI DUNG CHÍNH
I. Cơ sở của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Cải cách tư pháp nói chung, cải cách Toà án nói riêng là những nhiệm
vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đã được khẳng
định trong nhiều văn kiện của Đảng. Đặc biệt, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống
Toà án. Đánh giá về thực trạng cơ quan tư pháp, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW


ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị nêu rõ: “Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,
cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của
một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất,
đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều
tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ
quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”. Thực hiện đường lối cải cách tư pháp
của Đảng, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị đưa ra
những yêu cầu nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới như sau:
1. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức
bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của toà án nhân dân.
2. Tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính, gồm: toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc
một số đơn vị hành chính cấp huyện; toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu
là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; toà thượng thẩm được tổ
chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân tối cao có
nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập toà
chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp toà án, từng khu

2


vực.
3. Đổi mới tổ chức toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội
ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm
trong ngành
II. Nội dung chính của việc thực hiện cải cách Tòa án nhân dân
Với cơ sở, đường lối như trên, cải cách Toà án trước yêu cầu đặt ra của

chiến lược cải cách tư pháp tập trung vào các nội dung sau:
1) Xác định hợp lý phạm vi quản hạt
Từ góc độ lợi ích của người dân, phạm vi quản hạt của Toà án sơ thẩm
khu vực ở các vùng nông thôn, miền núi dù có số lượng án ít cũng nên thành
lập mỗi huyện một Toà án sơ thẩm khu vực. Ở thành phố, do điều kiện giao
thông thuận lợi hơn có thể hai hoặc ba quận thành lập một Toà án sơ thẩm
khu vực. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên thành lập một Toà án
phúc thẩm. Đối với Toà án thượng thẩm, tuỳ theo số lượng án phải thụ lý, giải
quyết cần có phạm vi quản hạt khoảng năm đến mười tỉnh thành lập một Toà
án thượng thẩm là hợp lý (chẳng hạn có thể thành lập Toà án thượng thẩm đặt
ở Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Buôn Mê Thuột, thành phố Hồ
Chí Minh, Cần Thơ…)
2) Phân định đúng thẩm quyền
Nghị quyết 49 xác định “Toà án sơ thẩm khu vực có nhiệm vụ, thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các loại vụ án; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu
là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà án thượng thẩm có
nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết
kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ
và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Yêu cầu của việc phân định thẩm quyền
cho mỗi cấp Toà án là phải đảm bảo nâng cao chất lượng giải quyết án, án
không bị tồn đọng, quá hạn luật định, giảm thiểu đến mức thấp nhất để xảy ra

3


oan sai trong hoạt động xét xử, đồng thời cũng phải kế thừa yếu tố hợp lý của
việc phân định thẩm quyền của các Toà án hiện nay, tránh việc xáo trộn lớn
không cần thiết.
Từ sự phân tích các số liệu thống kê cho thấy, để thực hiện Nghị quyết
49, có cơ sở để giao cho Toà án sơ thẩm cấp khu vực thẩm quyền xét xử các

tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng
như thẩm quyền của Toà án cấp huyện hiện nay và không nên tăng thẩm
quyền cho Toà án này. Đối với Toà án phúc thẩm, nên giao cho Toà án này
thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm như thẩm quyền của Toà án nhân dân
cấp tỉnh hiện nay và không xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Đồng thời để
giảm áp lực cho Toà án nhân dân tối cao, nên giao cho Toà án thượng thẩm
thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm. Toà án nhân
dân tối cao chỉ còn xét xử giám đốc thẩm các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật có tầm ảnh hưởng đến toàn quốc.
3) Cơ cấu tổ chức
Hiện nay cơ cấu tổ chức của ngành toà án có ba cấp: Toà án nhân dân
cấp huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao. Trong Toà
án nhân dân tối cao còn có ba Toà phúc thẩm đặt ở ba miền và các Toà
chuyên trách. Cấu trúc này làm cho tổ chức Toà án nhân dân tối cao rất “đồ
sộ” với biên chế hàng trăm thẩm phán, nhưng việc xét xử của các Toà phúc
thẩm, Toà chuyên trách này vẫn còn để xảy ra oan sai, làm ảnh hưởng nhiều
đến tính “ linh thiêng” của Toà án nhân dân tối cao – với tư cách là cơ quan
xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết 49, cơ cấu tổ chức của ngành Toà án sẽ có Toà
án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm và Toà án nhân
dân tối cao. Tuy nhiên, để góp phần nâng cao năng lực giải quyết án, tăng
cường tính độc lập của mỗi cấp Toà án và từng bước xây dựng Toà án nhân
4


dân tối cao trở thành chốn “ linh thiêng” của pháp đình, thì cần để cho các
Toà thượng thẩm có một vị trí pháp lý độc lập, không phụ thuộc tổ chức Toà
án nhân dân tối cao. Với cơ cấu tổ chức nói trên, việc xây dựng Toà án nhân
dân tối cao ở nước ta từng bước có điều kiện tiếp cận với thông lệ của các

nước có truyền thống tư pháp, theo đó, Toà án nhân dân tối cao sẽ có vai trò
to lớn trong sáng tạo án lệ, bổ sung cho nguồn luật và số lượng thẩm phán thật
sự không cần nhiều (khoảng 9 đến 15 thẩm phán).
4) Về cơ chế bổ nhiệm thẩm phán
Cùng với việc cải cách mô hình tổ chức Toà án, thì vấn đề cải cách cơ
chế bổ nhiệm thẩm phán phải được ưu tiên đặt lên hàng đầu vì thẩm phán là
“linh hồn” của Toà án. Theo quy định của pháp luật, hiện nay có hai cơ chế
bổ nhiệm thẩm phán. Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm thẩm phán
các Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự khu vực; Chủ tịch nước bổ
nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự trung ương. Cơ
chế bổ nhiệm nhiệm hiện nay vẫn mang tính “khép kín”, chưa tạo cơ hội cho
người có phẩm chất, năng lực trong hệ thống chính trị trở thành thẩm phán
(nguồn bổ nhiệm chủ yếu vẫn từ khối thư ký Toà án), chưa phát huy được vai
trò của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thể hiện
chủ quyền nhân dân, chưa gắn công tác giám sát tư pháp của Quốc hội, Hội
đồng nhân dân với công tác cán bộ của cơ quan tư pháp. Mặt khác, việc giao
cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm thẩm phán chưa phải là
phương án tối ưu để nâng cao chất lượng hoạt động của Toà án, nhất là đảm
bảo tính độc lập trong hoạt động của mỗi cấp Toà án. Vì thế, cần thiết phải có
sự điều chỉnh theo hướng giao cho UBTVQH bổ nhiệm thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao, thẩm phán Toà án quân sự trung ương. Sở dĩ cần có sự điều
chỉnh này vì hiện nay UBTVQH là cơ quan quyết định biên chế, chế độ tiền
lương của ngành Toà án, quyết định một số thẩm phán làm thành viên của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, thực hiện giám sát hoạt động

5


của Toà án nhân dân tối cao giữa hai kỳ họp Quốc hội. Đối với việc bổ nhiệm
thẩm phán Toà án thượng thẩm, thẩm phán Toà án phúc thẩm, Toà án sơ thẩm

khu vực nên giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm. Để
tập trung cho hoạt động xét xử, sáng tạo án lệ ở cấp cao nhất, không nên giao
cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán ở bất
kỳ cấp nào.
III. Tình hình thực hiện cải cách ngành Tòa án hiện nay
Sau ba năm thực hiện nghị quyết 49 (từ tháng 6/2005 đến nay), Quốc
hội đã ban hành nhiều luật, bộ luật, pháp lệnh quan trọng về lĩnh vực tư pháp,
tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và đặc biệt là ngành
Tòa án như: Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính, Pháp lệnh sửa đổi Điều 9 Pháp lệnh Tổ chức điều tra
hình sự, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thi hành án
phạt tù,…
Ngành Tòa án hiện nay đang hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
TAND theo hướng tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức
ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm
vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng
thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; TANDTC có
nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Toà
chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu
vực. Tuy nhiên việc thực hiện đổi mới hiện nay vẫn đang còn gặp khá nhiều
khó khăn như sau:
Tỷ lệ án tồn đọng cao, số lượng án bị hủy, bị tái thẩm, giám đốc thẩm
còn nhiều, trình độ năng lực thẩm phán còn hạn chế, còn có hiện tượng chạy
án... đang đặt ra cho chương trình cải cách tư pháp của ngành tòa án nhiều
6


việc phải làm. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực trạng tổ chức, cơ cấu và nhất là

năng lực của ngành tòa án hiện nay thì mới thấu hiểu được những nan giải của
ngành có nhiệm vụ cầm cân, nảy mực này.
Trên phạm vi toàn quốc, theo cơ cấu tổ chức theo địa giới hành chính
hiện nay có 678 Tòa án nhân dân cấp huyện, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và
Tòa án nhân dân tối cao. Nếu theo thẩm quyền xét xử, hệ thống Tòa án nhân
dân có thể phân thành 741 Tòa án cấp sơ thẩm; 66 Tòa án cấp phúc thẩm; 69
Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Số lượng thì có vẻ
nhiều nhưng cơ cấu, tổ chức được cho là chưa hợp lý. Còn về đội ngũ cán bộ,
theo dự báo, trong 5 năm tới, mỗi năm ngành Tòa án phải bổ sung 1.000
người trong đó có bổ nhiệm mới khoảng 500 Thẩm phán mới có thể đáp ứng
được nhu cầu xét xử. Khó khăn đối với ngành Tòa án không chỉ là thiếu số
lượng cán bộ mà vấn đề trình độ, năng lực chuyên môn, đặc biệt là khả năng
sử dụng ngoại ngữ của đội ngũ Thẩm phán trong bối cảnh cải cách tư pháp và
hội nhập quốc tế một cách sâu rộng. Việc phát sinh nhiều loại vụ án phức tạp
trong tất cả các lĩnh vực dân sự, hình sự, kinh doanh thương mại, lao động có
yếu tố nước ngoài đòi hỏi năng lực cần được nâng cao của đội ngũ thẩm phán.
Một khó khăn khác là TAND được thành lập theo địa giới hành chính
nên bị dàn trải khó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là Tòa
án cấp huyện tại các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. TANDTC còn nặng về
công tác xét xử hơn là công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật. Các TAND cấp tỉnh, tuy là cấp dưới nhưng có vai
trò vừa là Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm; do đó, áp lực
công việc đối với TAND cấp tỉnh là rất lớn. Đối với TAND cấp huyện thì số
lượng Tòa án nhiều, dàn trải, có nơi thì quá nhiều vụ án, có nơi thì lại quá ít.
Hiện tại, ngành Tòa án đang triển khai xây dựng Đề án thành lập Tòa
án sơ thẩm khu vực, Tòa phúc thẩm, Tòa thượng thẩm và đổi mới tổ chức
hoạt động của TANDTC. Mặc dù, Chương trình cải cách tư pháp đã triển khai
7



được 4 năm, nhưng kết quả cụ thể của ngành Tòa án chưa được là bao khiến
người dân cảm thấy sốt ruột vì sự chậm trễ này.
IV. Một số kiến nghị
Trước thực trạng, tình hình của công cuộc đổi mới về tổ chức và hoạt
động của ngành Tòa án đang còn nhiều khó khăn và bất cập, để thực hiện tốt
chiến lược này trong thời gian tới ngoài việc đẩy mạnh thực hiện vào các nội
dung chính của việc đổi mới bài viết xin đưa ra một số giải pháp kiến nghị
như sau:
Một là, tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ
sở pháp lý vững chắc cho hoạt động tư pháp. Do đó, cần xây dựng mới và sửa
đổi, bổ sung Luật Tổ chức Toà án nhân dân để cơ cấu tổ chức và chức năng,
nhiệm vụ của Tòa án nhân dân có sự hợp lý hơn, nhằm bảo đảm cải cách Toà
án phục vụ cho cải cách tư pháp.
Hai là, chương trình cải cách tư pháp của ngành Tòa án cần được
nghiên cứu và có tiêu chí, kế hoạch cụ thể và đề ra lộ trình cho từng năm thì
mới có kết quả. Cải cách là một chương trình lâu dài, sẽ bao gồm rất nhiều
công việc phải làm, ngành tòa án cần đặt ra những nhiệm vụ một cách cụ thể
trong thời gian ngắn như vậy sẽ tạo nên sự thống nhất, tập trung dễ dàng thực
hiện hơn và có thể đẩy nhanh tiến độ đổi mới.
Ba là thời gian tới cần xây dựng chiến lược nâng cao trình độ cán bộ
ngành Toà án; trang bị cơ sở vật chất – kỹ thuật tốt hơn nữa cho Toà án nhân
dân cấp huyện để bảo đảm cho việc tăng thẩm quyền xét xử của Toà án cấp
huyện có tính khả thi trên thực tế
Cuối cùng là bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ chức
và hoạt động của Toà án trên cơ sở đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy,
cần tăng cường hoạt động kiểm tra của Đảng, công tác cán bộ Đảng, kết hợp
với hoạt động giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Toà án;

8



đồng thời, nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, của Hội thẩm nhân dân
trước nhân dân và trước Đảng.
**
C. KẾT LUẬN
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân là yêu cầu bức thiết
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án. Việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của Toà án nhân dân không chỉ tác động đến ngành toà án mà còn liên
quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan khác, như cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát; liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện
hành và có thể phải sửa đổi cả Hiến pháp, vì vậy cần phải có bước đi thích
hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của cả hệ thống các cơ
quan nhà nước.

Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp 1992 sửa đổi.
2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002.
3. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
4. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 135 tháng 11 năm 2008.
5. Phạm Quý Tỵ: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, tháng 7 -2005, tr23.
6. Tạp chí Cộng sản số 104 năm 2008.
7. Cải cách tư pháp: nhiều vấn đề cần được giải quyết – Báo điện tử Đại
9


biểu nhân dân. ( />tabid=81&NewsId=62887)

10



NỘI DUNG BÀI VIẾT

NỘI DUNG BÀI VIẾT.................................................................................................................... 1
C. KẾT LUẬN.................................................................................................................................. 9
Tài liệu tham khảo..................................................................................................................... 9
NỘI DUNG BÀI VIẾT................................................................................................................. 11

11



×