Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ASEAN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.9 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Là một thành viên của ASEAN từ năm 1995 nhưng Việt Nam vẫn thuộc
nhóm các nước chậm phát triển và chưa tham gia một cách có hiệu quả cao vào các
quá trình liên kết kinh tế của ASEAN. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu sâu hơn
về AEC sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam tìm ra biện pháp nâng
cao hiệu quả hợp tác kinh tế Việt Nam- ASEAN nói riêng và hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam nói chung, nhằm đạt được lợi ích cao nhất và giảm thiểu tối đa
những tác động tiêu cực do quá trình này đem lại, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành
viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ASEAN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT
NAM
1. Khái quát chung về ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một liên minh chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức
này được thành lập ngày 8-8-1967, sau khi Bộ trưởng Bộ ngoại giao các nước
Indonesia, Malaysia, Philipines, Singapore và Thái lan ký bản tuyên bố ASEAN
(còn gọi là Tuyên bố Bangkok). Hiện nay tổ chức này có 10 hội viên bao gồm 5
nước hội viên nguyên thuỷ và 5 hội viên gia nhập sau này là Brunei Darussalam (81-1984), Việt Nam (28-7-1995), Lào và Myanma (23-7-1997), Campuchia (30-41999). Trong thập kỷ 90, ASEAN nổi lên như là một tổ chức tiểu khu vực hoạt động
năng nổ và hữu hiệu, tuy nhiên cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính từ giữa năm
1997 đang đặt ra một số thách thức lớn đối với ASEAN.
Trong những năm qua, ASEAN đã đạt được những thành tưu to lớn. Trên
lĩnh vực kinh tế, ASEAN đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc tự do hoá


thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Thương mại hàng hoá nội khối hiện nay đã
đạt hơn 320 tỷ đô la mỗi năm1
Nỗ lực của ASEAN trong tự do hoá thương mại có thể được tính từ khi
thành lập khu vực mậu dịch tự do (AFTA) năm 1992. Từ đó đến nay, thuế quan
trong khu vực đã được cắt giảm một cách đáng kể. ASEAN cũng đang từng bước


giảm thiểu các hàng rào phi thuế quan đối với thương mại.
Trên lĩnh vực phi kinh tế, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) cùng với các tổ
chức về Quốc phòng, Luật và Tội phạm xuyên quốc gia thuộc ASEAN đã tăng
cường đối thoại giữa các chính phủ/tổ chức liên quan, thúc đẩy sự hiểu biết sâu sắc
hơn về những thách thức ảnh hưởng đến ASEAN (và các đối tác của ASEAN), đồng
thời tăng cường năng lực của các tổ chức liên quan trong việc giải quyết các vấn đề
trên thông qua việc chia sẻ thông tin. Trong khuôn khổ ARF, một số sáng kiến hữu
ích đã được khởi động để chia sẻ kinh nghiệm và các thông lệ tốt nhất trong các lĩnh
vực như không phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, chống khủng bố, công nghệ
phòng thủ và an ninh hàng hải.
Để củng cố và tăng cường việc xây dựng cộng đồng ASEAN, tháng 12 năm
2005, các nhà Lãnh đạo ASEAN quyết định thiết lập Hiến chương ASEAN. Công
việc dự thảo đã đạt được khoảng 70% về phạm vi và mức độ dự kiến. Mục tiêu là để
các nhà Lãnh đạo ASEAN ban hành một bản dự thảo vào Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN tại Singapore vào tháng 11 năm 2007.
2. Đóng góp của Việt Nam vào ASEAN:
Việt Nam tham gia ASEAN ngày 28-7-1995, từ đó luôn chủ động, tích cực
thực hiện các hoạt động, kế hoạch, chương trình, dự án hợp tác của ASEAN, góp
phần quan trọng cho sự phát triển và thành công của Hiệp hội, củng cố xu thế hòa
bình, ổn định và hợp tác ở khu vực, nâng cao vị thế quốc tế của Hiệp hội.
Một trong những đóng góp cụ thể nổi bật nhất là nước ta đã thúc đẩy hình
thành một ASEAN gồm cả mười quốc gia trong khu vực Ðông Nam Á, đoàn kết và
hợp tác, mở ra thời kỳ phát triển mới về chất của quan hệ giữa các quốc gia. Việt
1

www.tapchicongnghiep.vn, “Hợp tác ASEAN - Một trong những ưu tiên chiến lược
của Việt Nam” – Hà My


Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội tháng 12-1998,

đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN nhiệm kỳ 2000 - 2001, tổ chức thành công
AMM, nhiều Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành của ASEAN.
Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc tăng cường đoàn kết và hợp tác
ASEAN, kiên trì bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội như "đồng thuận" và
"không can thiệp", góp phần quan trọng phát huy tác dụng Hiệp ước TAC và
SEANWFZ, duy trì môi trường hòa bình, an ninh và ổn định khu vực.
Về hợp tác kinh tế, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành cắt giảm thuế quan theo
Hiệp định CEPT/AFTA; đạt mục tiêu AFTA đã định sau mười năm (sớm hơn dự
kiến 5 năm), góp phần tăng cường liên kết kinh tế nội khối, đưa ASEAN trở thành
một cơ sở sản xuất khu vực có khả năng cạnh tranh và hấp dẫn hơn đối với các nhà
đầu tư khu vực và quốc tế, mở rộng hợp tác ASEAN trên nhiều lĩnh vực.
Tháng 6-2007, Việt Nam đăng cai tổ chức Diễn đàn Sáng kiến IAI lần thứ
hai nhằm đề ra chiến lược hợp tác thực hiện Sáng kiến IAI giai đoạn 2008 - 2015.
Việt Nam đã đưa ra sáng kiến quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội qua Chương
trình hợp tác phát triển Tiểu vùng Mê Công, các vùng nghèo dọc Hành lang ÐôngTây (WEC)...
Việt Nam cũng đã tham gia tích cực các hoạt động hợp tác chuyên ngành rất
đa dạng và phong phú bao gồm nhiều lĩnh vực, qua đó thu những kết quả thiết thực
hỗ trợ việc thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia. Việt Nam đóng góp tích
cực thúc đẩy hợp tác giữa ASEAN với các đối tác, nâng cao vai trò và vị thế của
ASEAN ở khu vực và quốc tế. Việc nước ta tham gia hợp tác ASEAN phù hợp lợi
ích cơ bản của đất nước, đã tạo thêm điều kiện thuận lợi để nước ta tăng cường quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các quốc gia thành viên, góp phần thúc đẩy xu thế hòa
bình, ổn định và hợp tác ở khu vực, duy trì môi trường quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hỗ trợ quá trình cải cách và công cuộc đổi mới,
nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của nước ta.
ASEAN đã trải qua một chặng đường dài bốn thập kỷ. Bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, ASEAN sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức để thúc đẩy
sự hợp tác nội khối và ngoại khối trong những chặng đường tiếp theo. Điều này đòi



hỏi công dân và các nhà lãnh đạo ASEAN phải toàn tâm toàn ý vì mục tiêu phát
triển chung của ASEAN với tinh thần cộng đồng sâu sắc. Việt Nam đã và đang nỗ
lực hợp tác chặt chẽ cùng các quốc gia thành viên ASEAN xây dựng ASEAN ngày
càng phát triển và phồn vinh
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) chính thức thành lập ngày
8/8/1967. Sau 40 năm, quá trình hợp tác kinh tế của ASEAN đã trải qua bốn mốc
phát triển quan trọng.
1. Năm 1967 khẳng định sự ra đời và tồn tại của ASEAN như một tổ chức khu
vực ở Đông Nam Á.
Năm 1967 ASEAN ra đời và tồn tại được là một thành tựu hết sức lớn lao và
của các nỗ lực hợp tác giữa các quốc gia Đông Nam Á, gác lại những tranh chấp bất
đồng, xây dựng lòng tin cậy lẫn nhau vì lợi ích chung của toàn khu vực. Tuyên bố
Băng Kốc thành lập ASEAN năm 1967 Đx nêu ra hai mục đích cơ bản của ASEAN
là hợp tác và tương trợ lẫn nhau để:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa ở khu
vực;
- Thúc đẩy hòa bình và ổn định thông qua tôn trọng luật pháp trong quan hệ
giữa các quốc gia trong khu vực và tuân thủ nguyên tắc Hiến chương Liên Hợp
Quốc.
Mặc dù tuyên bố Băng Kốc nêu mục tiêu phát triển kinh tế của ASEAN lên
hàng đầu song bối cảnh lúc đó thì mục tiêu chính trị của ASEAN vẫn là số một.
Tuyên bố của ASEAN về một khu vực hòa bình, tự do và trung lập (ZOPFAN) năm
1971 đã cho thấy những ưu tiên chính trị của khối này. Hợp tác kinh tế chỉ được đặt
ra khi khu vực đó hòa bình và ổn định tương đối và khi các nước ASEAN đã vững
mạnh phần nào.
2. Năm 1976 là bước khởi đầu của hợp tác kinh tế khu vực
Năm 1976 đánh dấu bước chuyển lớn trong quan hệ hợp tác thực chất giữa
các nước ASEAN khi cuộc chiến tranh ở Đông Dương chấm dứt mở ra một triển
vọng hòa bình cho khu vực. Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất tại Bali



(Indonexia) nguyên thủ các nước ASEAN đã ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở
Đông Nam Á (TAC) khẳng định năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình và ra tuyên
bố về sự hòa hợp ASEAN cam kết cùng phối hợp để đảm bảo sự ổn định khu vực và
tăng cường hợp tác kinh tế, văn hóa, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên ASEAN.
Trên cơ sở đó, hợp tác kinh tế ASEAN bắt đầu được tiến hành. Năm 1977.
ASEAN đã kí kết thỏa thuận ưu đãi thương mại (PTA). Tuy nhiên, thỏa thuận này
chỉ có tác động hạn chế do mức ưu đãi thuế quá nhỏ và chỉ liên quan đến một số rất
ít hàng hóa trong thương mại giữa các nước ASEAN. Vào thời điểm đó, hầu hết các
nước ASEAN vẫn chưa sẵn sàng mở cửa kinh tế và còn theo đuổi chiến lược phát
triển thay thế nhập khẩu vẫn chưa cảm thấy nhu cầu bức thiết phải tự do hóa thương
mại vì sợ điều đó có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế đang còn khá cao.
3. Năm 1992, hợp tác kinh tế ASEAN được nâng lên tầm cao mới với việc thành
lập Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA).
Vào những năm 1990, Đông Nam Á đã thực sự có hòa bình và ổn định. Tuy
nhiên, các nước ASEAN lại phải đối mặt với cạnh tranh kinh tế ngày càng khốc liệt
trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh vòng đàm phán thương mại đa phương của
GATT vẫn còn bế tắc thì đã có nhiều khu vực tự do thương mại được thành lập như
Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực mậu dịch tự do châu Mỹ La
tinh (MERCOSUR) và AFTA ra đời để bắt kịp xu thế đó. Mục tiêu cơ bản của
AFTA là tiến hành tự do hóa thương mại trong nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ tất
cả các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào
thị trường khu vực bằng cách tạo ra một thị trường thống nhất; thúc đẩy phân công
lao động trong nội bộ khối ASEAN va phát huy lợi thế so sánh của từng nước.
Năm 1996 Việt Nam và các thành viên mới khác của ASEAN là Lào,
Mianma, Campuchia cũng lần lượt gia nhập AFTA, mở ra triển vọng đưa AFTA
thành một khu vực tự do thương mại toàn Đông Nam Á như đúng với tên gọi của nó
vào một thời kì hòa nhập cùng phát triển.
Song song với quá trình mở rộng, ASEAN cũng tiến hành các chương trình

hợp tác kinh tế sâu rộng khác. Năm 1995, ASEAN ký hiệp ước định khung bổ sung
về dịch vụ (AFAS) để loại bỏ đáng kể các hạn chế đối với thương mại dịch vụ giữa


các thành viên. Năm 1996, ASEAN ký thỏa thuận về chương trình hợp tác công
nghiệp (AICO) để đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA cho các công ty của các
nước thành viên có đủ điều kiện. Năm 1998, ASEAN thiết lập Khu vực đầu tư
ASEAN (AIA) nhằm tạo một môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch hơn để
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Năm 2000, ASEAN thông qua Sáng
kiến Liên kết (hội nhập) ASEAN (IAI) nhằm hỗ trợ bốn nước thành viên mới là
Lào, Mianma, Việt Nam (CLMV, còn gọi là ASEAN – 4) thu hẹp khoảng cách phát
triển để đẩy nhanh hội nhập khu vực. Ngoài ra, ASEAN còn kí kết các thỏa ước và
tiến hành hợp tác trên nhiều lĩnh vực kinh tế cụ thể khác như nông nghiệp, du lịch…
Bên cạnh đó, ASEAN cũng mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực là Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc thông qua cơ chế ASEAN +3 (quan hệ ASEAN với 3
nước), ASEAN+1 ( quan hệ ASEAN với từng nước), khẳng định rằng khu vực
Đông Nam Á muốn trở thành hạt nhân của quá trình hợp tác Đông Á.
Tháng 12 năm 1997, trong bối cảnh chuẩn bị bước sang thế kỉ XXI với
nhiều thành tựu gặt hái được và với không ít thách thức đang phải đối mặt, các nhà
lãnh đạo ASEAN đã đưa ra “Tầm nhìn 2020”, khẳng định quyết tâm theo đuổi mục
tiêu hướng tới một ASEAN là “một khối hài hòa các dân tộc ở Đông Nam Á, hướng
ra với nhau bằng quan hệ đối tác, trong sự phát triển năng động và trong một cộng
đồng gồm các xã hội đùm bọc lẫn nhau”.
Ý tưởng về một Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đã bắt đầu được hình
thành cùng tuyên bố Tầm nhìn ASEAN 2020. Tuy nhiên, một khái niệm chính thức
và cụ thể về AEC đã không được nêu trong Tầm nhìn 2020. Mãi tới Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 (năm 2002), các nhà lãnh đạo ASEAN mới nhất trí
đưa nội dung thành lập AEC vào chương trình nghị sự, song những định dạng về mô
hình AEC vẫn chưa rõ ràng. Để chấm dứt những cuộc tranh luận kéo dài, Hội nghị
đã nhất trí giao cho McKinsey Company, công ty tư vấn hàng đầu của Mỹ, nghiên

cứu khả năng cạnh tranh của ASEAN, đồng thời giao cho Nhóm Đặc trách cao cấp
về liên kết kinh tế của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (HLTF) xây dụng một
đề xuất về Cộng đồng Kinh tế ASEAN để trình Hội nghị thượng đỉnh ASEAn lần
thứ chín.


4. Năm 2003 đánh dấu tiến trình thực hiện Tầm nhìn 2020
Tháng 10 năm 2003, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 9 tại Bali đã
thông qua Tuyên bố hòa hợp ASEAN II về việc thực hiện Tầm nhìn 2020 bằng cách
hình thành một Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột là Cộng đồng an ninh
ASEAN (ASC), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), và Cộng đồng văn hóa – xã hội
ASEAN (ASCC) nhằm mục đích “đảm bảo hòa bình lâu dài, ổn định và thịnh vượng
chung của khu vực”. ASC, AEC, ASCC có mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ với
nhau. ASC nhằm duy trì hòa bình ổn định ở Đông Nam Á tạo điều kiện tiên quyết
cho hợp tác kinh tế khu vực và thúc đẩy quan hệ giao lưu giữa những người dân
ASEAN. Trong khi đó, AEC tạo ra sự tùy thuộc và ràng buộc lẫn nhau về lợi ích
kinh tế buộc các nước phải giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Cuối cùng,
ASCC tạo ra một xã hội ASEAN” hài hòa và tin cậy lẫn nhau tuân theo các chuẩn
mực và đạo đức chung là điều kiện cần thiết cho hòa bình và phát triển.
Tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ 10 năm 2004, các nhà lãnh đạo ASEAN đã
ký kết Chương rình Hành động Viên Chăn (VAP) nhằm xây dựng Cộng đồng
ASEAN vào năm 2020. Các vị lãnh đạo cũng thông qua các kế hoạch hành động
xây dựng ASC, ASCC và ký Hiệp định khung về 11 lĩnh vực ưu tiên liên kết của
ASEAN nhằm xây dựng AEC. Tiếp đến, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ
11 tại Kuala Lumpur tháng 12 năm 2005 đã quyết định thành lập “Nhóm các nhân
vật nổi tiếng”(Eminent Perso’s Group) để soạn thảo Hiến chương ASEAN tạo nền
tảng pháp lý quan trọng để biến ASEAN từ Hiệp hội sang Cộng đồng. Tháng 1 năm
2007, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12 tại Cebu, Philiplin đã rút ngắn thời
hạn thực hiện Cộng đồng ASEAN để đạt được Tầm nhìn 2020 vào năm 2015. Theo
đó, AEC với tư cách là bước tiếp nối ở tầm cao hơn các chương trình hợp tác kinh tế

của ASEAN cũng được hoàn tất vào năm 2015. Tháng 11 năm 2007, Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN lần thứ 13 tại Singapore đã thông qua Hiến chương ASEAN
và bản Đề cương Cộng đồng kinh tế ASEAN.


III. ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH CỘNG
ĐỒNG KINH TẾ ASEAN ( AEC)
Đóng góp của Việt Nam đối với sự hình thành Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) được thể hiện ở sự tham gia của Việt Nam vào các nội dung chính
của AEC cụ thể là:
1. Đối với khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA)
Ngay sau khi trở thành thành viên của AFTA năm 1996, Việt Nam đã đưa ra
danh mục giảm thuế 875 mặt hàng trong 15 nhóm sản phẩm. Tính đến năm 2006,
Việt Nam đã cắt giảm thuế cho 10.143 dòng thuế, chiếm 95 % tổng số dòng thuế
CEPT. Thuế suất CEPT bình quân của Việt Nam đã giảm từ 6,47% năm 2003 xuống
còn 2,2% năm 2006. Như vậy, tính đến năm 2006 Việt Nam đã cơ bản hoàn thành
việc cắt giảm các dòng thuế xuống mức 0,5% theo cam kết CEPT
Lộ trình cắt giảm thuể quan theo CEPT của Việt Nam giai đoạn 1996-2006
(%)2
Danh 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
mục
IL
7,0
6,8
5,8
5,6
4,7
3,9
3,8
2,8

2,6
2,5
2,3
TEL 19,9 19,9 19,9 19,9 19,8 19,6 19,4 17,5 13,4 8,9
3,9
Chú thích: IL danh mục cắt giảm thuế quan; TEL danh mục loại trừ tạm thời; các
số là mức thuế bình quân
Bảng trên cho thấy Việt Nam đã tiến hành cắt giảm thuế quan trong danh
mục IL hàng năm sau khi gia nhập AFTA ở mức đáng kể. Mức thuế quan trung bình
của danh mục IL giảm ít hơn kể từ sau năm 2003 cho thấy đến thời điểm đó Việt
Nam đã gần như hoàn tất cam kết giảm thuế đối với danh mục IL. Bắt đầu từ năm
2003 Việt Nam cũng đã cắt giảm thuế quan của các sản phẩm trong danh mục TEL.
Việt Nam đã thực hiện hài hoà hoá tiêu chuẩn đối với nhóm 20 mặt hàng ưu
tiên (điều hoà, tủ lạnh, màn hình và bàn phím máy tính, bộ cảm biến, loa, thiết bị
video, điện thoại, đài, ti vi, phụ tùng của tivi và đài, biến thế, điện trở kế, vi mạch
điện, công tắc đèn chân không…), kí kết các hiệp định khung công nhận lẫn nhau
(MRA) như về tiêu chuẩn và đánh giá hợp chuẩn. Từ năm 2002, Việt Nam đã thực
Nguyễn Hồng Sơn (chủ biên). Cộng đồng kinh tế ASEAN(AEC) Nội dung và lộ trình,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2009
2


hiện Hiệp định về tính thuế hải quan của WTO đối với các thành viên ASEAN.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tham gia tích cực các chương trình hợp tác về hải quan
của ASEAN như điện tử hoá thao tác hải quan và kiểm tra sau thông quan.
2. Đối với hiệp định khung về Thương mại dịch vụ trong ASEAN (AFAS)
Việt Nam đã đưa ra cam kết của mình trên cả 7 lĩnh vực dịch vụ ưu tiên:
dịch vụ tài chính, dịch vụ vận tải, dịch vụ viễn thông, vận chuyển hàng không, du
lịch, xây dựng, các dịch vụ kinh doanh.
3. Đối với khu vực đầu tư ASEAN (AIA)

Trong giai đoạn đầu thực hiện AIA. Việt Nam đã hoàn thành việc xây dựng
Danh mục nhạy cảm (SL) và danh mục loại trừ tạm thời (TEL) đối với 5 ngành sản
xuất là chế tạo, nông nghiệp, khai thác mỏ, lâm và ngư nghiệp và các ngành dịch vụ
liên quan tới 5 ngành này. Trong giai đoạn tiếp theo từ 1/1/2003 Việt Nam đã thực
hiện AIA theo nhiều hướng i) chuyển một số ngành từ danh mục SL sang danh mục
TEL, và ii) giảm bớt số ngành trong danh mục TEL. Cụ thể Việt Nam cam kết thực
hiện xoá hết danh mục TEL đối với ngành chế tạo vào ngày 1/1/2010 và 1/1/2013
đối với các ngành cam kết còn lại; mở cửa tất cả các ngành nói trên cho các nhà đầu
tư ASEAN từ ngày 1/1/2015.
4. Chương trình thu hẹp khoảng cách phát triển
Việt Nam là một trong những nước tích cực đề xuất và thực hiện các chương
trình thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN. Việt Nam đã đưa chủ đề thu hẹp
khoảng cách phát triển thành chương trình nghị sự nổi bật của Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 6 năm 1998 tại Hà Nội và kể từ đó trở thành vấn đề xuyên suốt
trong các chương trình hợp tác của ASEAN. Năm 2001, tại hội nghị bộ trưởng ngoại
giao ASEAN lần thứ 14 tại Hà Nội, Việt Nam cũng đã tạo điều kiện để ASEAN ra
bản tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển để hội nhập ASEAN chặt
chẽ hơn
Việt Nam đã tham gia tích cực vào các chương trình thu hẹp khoảng cách
phát triển như Chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng dành cho
Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma và tỉnh Vân Nam Trung Quốc.
Chương trình hanh lang kinh tế Đông Tây từ thành phố cảng Mawlamyine đi qua


Mukdahan của Thái Lan, Savanakhet của Lào và ra tới thành phố cảng Đà Nẵng; dự
án nâng cấp xa lộ Băng Kốc-Phnômpênh-Thành phố Hồ Chí Minh- Vũng Tàu;
tuyến đường cao tốc xuyên Á nằm trong chương trình hành lang kinh tế Bắc-Nam
nối Xinggapo với Côn Minh
5. Thực hiện 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập
Trong 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập sớm, Việt Nam đều ở vị thế yếu nên

phương châm tham gia 12 lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam là tránh đối đầu cạnh tranh
trực tiếp với những đối thủ mạnh nhất trong ASEAN mà nên tận dụng cơ hội hợp
tác kinh doanh, xây dựng liên minh chiến lược để “vừa làm vừa trưởng thành”. Ví
dụ Việt Nam có thể liên kết với Thái Lan trong nhóm ngành nông-lâm-ngư sản hay
ôtô; liên kết với Singapore trong các ngành dịch vụ hàng không, y tế, và giao dịch
điện tử;….
Việc ủng hộ và tham gia tích cực AEC không chỉ giúp Việt Nam tăng cường
vị thế và uy tín trên diễn đàn ASEAN mà nó còn thể hiện được vai trò tích cực của
Việt Nam trong việc hàn gắn ASEAN đang có xu hướng bị chia rẽ về kinh tế khi
một số nước phát triển hơn kí kết các hiệp định tự do thương mại song phương với
bên ngoài khối. Những đóng góp kể trên của Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với quá
trình hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN.
6. Khó khăn của Việt Nam trong thực hiện AEC
Khó khăn cơ bản nhất của Việt Nam trong việc hoàn thành AEC chính là
trình độ phát triển còn thấp khiến cho năng lực cạnh tranh với các nền kinh tế khác
trong khu vực còn kém. Khoảng cách phát triển kinh tế giữa Việt Nam với các nước
ASEAN còn khá lớn cả về quy mô của nền kinh tế cũng như chất lượng cuộc sống
của người dân. Sự chênh lệch phát triển còn thể hiện ở quy mô vốn của cả nền kinh
tế và các doanh nghiệp, trình độ khoa học công nghệ và tay nghề lao động khiến cho
nền kinh tế Việt Nam có sức cạnh tranh kém. Việt Nam biết rằng mở cửa kinh tế là
quá trình tấ yếu mà chậm trễ sẽ dễ bị đặt ra bên lề của cuộc chơi kinh tế toàn cầu
song nền kinh tế Việt Nam lại chưa đủ vững mạnh để có thể mở cửa hoàn toàn và
nhanh chóng.


Việt Nam muốn khẳng định năng lực hội nhập khu vực, nâng cao hình ảnh
của mình và chứng tỏ với các nước ASEAN rằng Việt Nam đang chuyển từ thế “đi
theo” sang thế “chủ động” trong hợp tác kinh tế ASEAN bằng cách đảm nhận vai
trò điều phối viên chính của một trong 12 ngành ưu tiên hội nhập là ngành dịch vụ
hậu cần. Song thực tế cho thấy các công ty giao nhận ở Việt Nam lại đang mất dần

thị trường vào tay các công ty nước ngoài. Quá trình phân bổ lại nguồn lực sản xuất
đang diễn ra cùng với quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Có thể Việt Nam sẽ phải chịu nhiều tác động tiêu cực của quá trình này trong giai
đoạn đầu trên con đường xây dựng một nền kinh tế thực sự hiệu quả và có khả năng
cạnh tranh cao hơn.
7. Một số kiến nghị
* Việt Nam nên tích cực tham gia và ủng hộ việc hoàn thành AEC
Ủng hộ và tham gia tích cực vào AEC giúp Việt Nam tăng cường vị
thế và uy tín trên diễn đàn ASEAN và trên diễn đàn quốc tế. Việt nam thể hiện được
vai trò hàn gắn ASEAN đang có xu hướng li tâm và chia rẽ nền kinh tế khi một số
nước phát triển hơn ký kết một số hiệp định tự do thương mại song phương với bên
ngoài khối và khi có hiện tượng nước đưa ra sáng kiến nhiều hơn nước ủng hộ sáng
kiến. Việt Nam chủ động thực hiện AEC sẽ làm thay đổi định kiến ASEAN là
những nước mới gia nhập là trở ngại cho quá trình hợp tác sâu hơn trong khu vực.
* Việt Nam không nên coi AEC là cái đích hội nhập cuối cùng
Việt Nam cần ủng hộ xây dựng AEC thành một cộng đồng kinh tế
mở, vừa có tính liên kết kinh tế chặt chẽ bên trong vừa hướng ra và thúc đẩy quan
hệ kinh tế với bên ngoài. Hội nhập sâu vào AEC không phải là mục tiêu chiến lược
duy nhất, càng không phải là cái đích hội nhập cuối cùng mà Việt Nam hướng tới.
Nền tảng của một chiến lược hội nhập tổng thể phải dựa trên khung khổ WTO chứ
không thể dựa trên khung khổ hội nhập ASEAN.
Bên cạnh việc chú trọng quan hệ phát triển kinh tế với các nước
trong ASEAN Việt Nam cần đặc biệt dành ưu tiên chiến lược trong quan hệ với các
nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU…Bởi vì các nền kinh tế lớn và phát triển
mới là các đối tác đầu tư và thương mại hàng đầu của Việt Nam và là nơi mà Việt


Nam có thể tiếp thu được những thành tựu khoa học kỹ thuật và quản lý tiên tiến
nhất thế giới.
* Một số chiến lược và sách lược tham gia AEC

Trong quan hệ với AEC Việt Nam nên được xếp vào một vị trí phát
triển đặc thù, thấp hơn một số nước trong ASEAN- 6 nhưng cao hơn các nước Lào,
Campuchia, Mianma theo mô hình ASEAN- 6 + V + CLM. Khi tham gia AEC trên
12 lĩnh vực ưu tiên nên tránh đối đầu cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ mạnh nhất
ASEAN mà nên xây dựng liên minh chiến lược để “vừa làm, vừa trưởng thành trước
khi hội nhập toàn cầu”.
Việt Nam cần nhận thức rõ thuận lợi và khó khăn hiện nay khi tham
gia vào AEC: thuận lợi lớn nhất là quyết tâm chính trị đối với hội nhập rất cao. Còn
khó khăn lớn nhất là trình độ phát triển kinh tế còn thấp dẫn đến khả năng cạnh
tranh kém của nền kinh tế.


KẾT LUẬN
Trong những năm gần đầy Việt Nam đã nỗ lực cải cách mạnh mẽ
nền kinh tế trong nước, đặc biệt tập trung vào bốn lĩnh vực chính là hệ thống doanh
nghiệp quốc doanh, hệ thống ngân hàng, hệ thống giáo dục- đào tạo và hệ thống an
ninh xã hội. Tuy nhiên, kết quả của nỗ lực cải cách này vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu về mở cửa kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh trong hội nhập. Bài học từ
quá trình tham gia hợp tác kinh tế ASEAN cho rằng cải cách trong nước là yếu tố
quyết định hội nhập thành công, còn hội nhập có tác động thúc đẩy cải cách. Việt
Nam cần luôn đặt cải cách và hội nhập ngang nhau về tổng thể và dài hạn song từng
lúc phải ưu tiên hoặc hội nhập, hoặc cải cách nhiều hơn. Gia nhập WTO và tham gia
AEC là thời điểm để Việt Nam ưu tiên hội nhập và đây sẽ là động lực để thúc đẩy
cải cách nền kinh tế mạnh mẽ và hiệu quả hơn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân; Hà Nội 2004;
2. Hoàng Anh Tuấn, 2005. “ AEC với các thành viên” . Học viện

quan hệ quốc tế - Bộ Ngoại giao;
3. Nguyễn Hồng Sơn (chủ biên). “Cộng đồng kinh tế ASEAN(AEC)
Nội dung và lộ trình”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2009;
4. Tạp chí luật học, số tháng 9/2008;
5. Trần Thị Lan Hương, Phạm Ngọc Tân “Hiến chương ASEAN và
vai trò của nó đối với việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN”, 2007.
6. Website:
+ www.Thongtinphapluatdansu.wordpress.com
+
+
7. Một số tài liệu có liên quan.


MỤC LỤC



×