Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

thực trạng thanh toán trực tiếp sử dụng tiền mặt ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.73 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Tiền tệ ngay từ sự ra đời của nó đã mang trong mình một chức năng vô
cùng quan trọng với nền kinh tế, đó là “phương tiện lưu thông”. Tiền chính là
môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Khi thực hiện chức năng đó, tiền
được sử dụng như một công cụ để thanh toán. Cũng vì thế, rất nhiều hình thức
thanh toán đã ra đời và phát triển.
Đến nay, các quan hệ thanh toán được thực hiện dưới hai hình thức: Thanh
toán trực tiếp bằng tiền mặt và thanh toán qua các trung gian thanh toán.
Cũng vì tính chất đặc biệt mà tiền tệ mang trong mình, pháp luật các quốc
gia đều chú trọng điều chỉnh các quan hệ thanh toán này. Và pháp luật Việt
Nam cũng không là một ngoại lệ.
Bài tập dưới đây sẽ phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam đối với
mỗi hình thức thanh toán và chỉ ra các ưu và nhược điểm của từng hình thức
theo các quy định đó.

1


NỘI DUNG
Như đã nêu ở trên, hiện nay các quan hệ thanh toán được thực hiện dưới
hai hình thức: thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt và thanh toán qua các trung
gian thanh toán. Hai hình thức này dù đều xuất phát từ mục đích thanh toán
nhưng lại có khá nhiều điểm khác biệt. Cũng chính từ những khác biệt đó mà
mỗi hình thức, với những phương tiện thanh toán khác nhau lại có những ưu
và nhược điểm khác nhau.
I – THANH TOÁN TRỰC TIẾP BẰNG TIỀN MẶT
Có thể hiểu thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt là hình thức thanh toán mà
người có nghĩa vụ chi trả (người mua hàng, người nhận cung ứng dịch vụ... )
sử dụng tiền mặt để chi trả cho người thụ hưởng (người bán hàng, người cung
ứng dịch vụ... ).
Như vậy, từ những cách hiểu trên, có thể thấy trong quan hệ thanh toán


trực tiếp sử dụng tiền mặt, chỉ có sự tham gia của hai bên: bên chi trả và bên
thụ hưởng, không có sự tham gia của bên thứ ba (ví dụ: các tổ chức tín dụng).
Phương tiện thanh toán mà hai bên sử dụng là tiền mặt. Tiền mặt là tiền
dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành.
Trước khi đi vào phân tích các ưu, nhược điểm của hình thức thanh toán
này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu thực trạng thanh toán sử dụng tiền mặt ở Việt
Nam hiện nay.
1. Quy định của pháp luật về hình thức thanh toán trực tiếp sử dụng
tiền mặt
Hiện nay, vấn đề thanh toán bằng tiền mặt hiện nay được điều chỉnh bởi
các văn bản sau:
 Ngày 28/12/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định 161/2006/NĐCP quy định về thanh toán bằng tiền mặt. Đây là văn bản quan trọng nhất
hiện nay quy định về vấn đề này.
Việc ban hành Nghị định này là nhằm mục đích tiết kiệm chi phí sử dụng
tiền mặt, thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt phát triển, hạn
chế các giao dịch không hợp pháp, tăng cường sự quản lý nhà nước đối với
các chi tiêu tài chính từ ngân sách và vốn nhà nước, triển khai thực hiện Luật
Phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí cũng như
Nghị quyết của Đảng về phòng, chống tham nhũng.
Hạn mức thanh toán bằng tiền mặt và phí giao dịch tiền mặt được quy định
rõ trong Thông tư số 01/2007/TT-NHNN ngày 07/3/2007 hướng dẫn thực
hiện Điều 4 và Điều 7 Nghị định số 161.
2


Trong năm 2006, Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư 33/2006/TTBTC về quản lý thu chi tiền mặt qua Kho bạc Nhà nước trong đó các tổ chức
sử dụng ngân sách nhà nước được phép thanh toán bằng tiền mặt với các
khoản chi trả dưới 5 triệu đồng.
 Nhằm hạn chế các giao dịch bằng tiền mặt và khuyến khích các tổ chức
kinh tế sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí

và các tiện ích khác thì ngày 24/8/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành
Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng
hưởng lương từ ngân sách. Đây là một nội dung chủ yếu của 1 trong 15 Đề án
thành phần trong Đề án tổng thể phát triển thanh toán không dùng tiền mặt
giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt theo Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg ngày 29/12/2006. Trong
Chỉ thị có đề cập đến một số nội dung chủ yếu sau:
Như vậy, có thể thấy, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước khá quan tâm tới
việc quản lý thanh toán bằng tiền mặt. Việc quản lý ở đây không phải nhấn
mạnh vào việc ngăn chặn các tổ chức, cá nhân sử dụng tiền mặt mà là chú
trọng cắt giảm các hoạt động thanh toán bằng tiền mặt, đặc biệt trong khối cơ
quan Nhà nước. Trước kia, khi xây dựng Dự thảo của Nghị định 161, có quy
định về hạn mức sử dụng tiền mặt trong giao dịch. Tuy nhiên, phản hồi từ xã
hội cũng như xem xét về tính khả thi của quy định đó mà Nghị định đã bỏ nội
dung này. Đây là một quy định đúng. Đồng thời quy định về các hoạt động
thanh toán của Nhà nước được tiến hành không sử dụng tiền mặt là bước đi
ban đầu, “làm mẫu” của Nhà nước để dần xây dựng thói quen thanh toán
không sử dụng tiền mặt trong đời sống xã hội. Và động thái này đã nhận được
phản hồi tốt khi đưa vào áp dụng.
Chúng ta có thể thấy rõ hơn tác động của các quy định về quản lý thanh
toán sử dụng tiền mặt qua thực trạng của hình thức thanh toán này hiện nay
2. Đôi nét về thực trạng thanh toán trực tiếp sử dụng tiền mặt ở Việt
Nam hiện nay
Trước hết, có thể khẳng định, thanh toán trực tiếp sử dụng tiền mặt là hình
thức phổ biến nhất, được ưa chuộng nhất ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên,
dưới sự tác động của các văn bản pháp luật, hình thức thanh toán bằng tiền
mặt đã có xu hướng ít đi.
Tại 750 doanh nghiệp Việt Nam ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thì các
doanh nghiệp tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao dịch của
họ được tiến hành qua hệ thống ngân hàng; những doanh nghiệp có ít hơn 25

công nhân thì tỷ lệ này là 47%; với doanh nghiệp nhà nước mới chỉ hơn 80%
giao dịch được thực hiện qua ngân hàng. Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số
hộ kinh doanh vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh doanh chi
3


trả dịch vụ bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế bằng tiền
mặt; số người sử dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn,
lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập
cao và ổn định. Những con số này đã cho thấy tiền mặt được sử dụng rất rộng
rãi trong đời sống xã hội nươc ta.
Từ năm 2001 đến nay, tỷ trọng tiền mặt được sử dụng trong thanh toán so
với tổng phương tiện thanh toán như sau: năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là
20,3%; năm 2005 là 19%; năm 2006 là 17,21%, năm 2007 là 16,36%, năm
2008 là 14,6%. Tuy tỷ trọng hàng năm đã giảm nhưng còn ở mức cao hơn so
với thế giới; tỷ trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy
là 1%, còn Trung Quốc là nước đang phát triển nhưng con số này cũng chỉ ở
mức là 10%. (1)
Qua những con số đó, có thể thấy, thanh toán sử dụng tiền mặt đã có chiều
hướng giảm. Tuy nhiên, đây là một sự giảm thiểu khá chậm (khoảng 13%/năm). Vì thế mà so với các nước khác, tỷ trọng tiền mặt được sử dụng để
thanh toán của chúng ta còn cao.
Vậy, tại sao hình thức này lại phổ biến như vậy ở Việt Nam?
Thứ nhất, phải nói đến những ưu điểm của hình thức thanh toán này. Đó là
sự nhanh chóng, tiện lợi, đặc biệt trong các giao dịch nhỏ của sinh hoạt
thường nhật. Những ưu điểm này sẽ được phân tích cụ thể hơn dưới đây.
Thứ hai, không thể không nhắc tới lý do thói quen sử dụng tiền mặt của
người dân. Người Việt Nam vốn vẫn chuộng tâm lý “tiền tươi thóc thật”.
Nguyên nhân này xuất phát từ yếu tố chủ quan của chính đại bộ phận dân
chúng. Việc giao dịch bằng tiền mặt khiến họ yên tâm, không phải lo ngại về
những rủi ro ngoài ý muốn.

Thứ ba, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt còn chưa phát triển.
Đây là một nguyên nhân khách quan của chính hệ thống các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, nguyên nhân này cùng với nguyên nhân chủ quan ở trên lại càng
tạo nên tâm lý e dè, ngại ngần của người dân và càng khiến họ tìm đến với
tiền mặt để thanh toán.
Ba nguyên nhân chủ yếu ở trên gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau khiến cho tiền mặt vẫn được ưu tiên trong các giao dịch thanh toán.
Để tìm hiểu rõ hơn nguyên nhân của tình trạng tiền mặt lưu thông khá phổ
biến ở Việt Nam, cũng như thấy được các rủi ro đối với phương thức thanh
toán này, chúng ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu các ưu và nhược điểm của thanh
toán trực tiếp sử dụng tiền mặt theo quy định pháp luật hiện hành.
3. Ưu điểm của hình thức thanh toán trực tiếp sử dụng tiền mặt theo
pháp luật hiện hành
1

Nguồn: Bài viết “Thanh toán không dùng tiền mặt – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” – Tác giả Văn
Tạo – Tạp chí Ngân hàng – Số 19 năm 2009

4


Ưu điểm trước tiên có thể thấy rõ nhất của hình thức thanh toán này là
nhanh, đơn giản. Ở hình thức thanh toán này chỉ có sự tham gia của hai bên:
bên chi trả và bên thụ hưởng. Bên chi trả trao tiền, bên thụ hưởng nhận tiền.
Quá trình thanh toán kết thúc. Hai bên đều nhanh chóng đạt được lợi ích của
mình mà không bị tạm dừng vì bất kỳ lý do gì.
Ưu điểm thứ hai là thanh toán bằng tiền có thể được sử dụng một cách phổ
cập, đáp ứng nhu cầu thanh toán của mọi đối tượng. Chính từ ưu điểm là hình
thức thanh toán đơn giản nên hầu hết các chủ thể tham gia thanh toán đều có
thể áp dụng hình thức này: từ những thanh toán phục vụ sinh hoạt, nhu cầu cá

nhân có khối lượng thanh toán nhỏ cho đến những thanh toán có giá trị lớn
liên quan tới tổ chức, cá nhân.
Ưu điểm tiếp theo của thanh toán trực tiếp chính là lợi ích kinh tế mà nó
mang lại. Ưu điểm này lại xuất phát từ ưu điểm nhanh của thanh toán bằng
tiền mặt. Trong nền kinh tế thị trường, thời gian cũng là vàng bạc. Vì thế, một
phương thức thanh toán không có sự can thiệp từ bên ngoài, không có rủi ro
ngoài ý muốn trong quá trình thanh toán đã tạo nên ưu điểm này cho thanh
toán bằng tiền mặt.
Một ưu điểm nữa của thanh toán bằng tiền mặt là hạn chế các gian lận
trong khi thanh toán. Chính vì thanh toán đơn giản, công cụ chỉ có là tiền
mặt, đối tượng chính của hoạt động thanh toán, nên các gian lận trong khi
thanh toán được các bên kiểm soát dễ dàng. Những gian lận về tiền giả, tiền
hết thời hạn sử dụng, tiền không phù hợp để đưa vào lưu thông được các bên
dễ dàng kiểm tra hơn so với các phương thức thanh toán khác.
Như vậy, có thể thấy, thanh toán bằng tiền mặt là hình thức thanh toán lý
tưởng cho hai bên. Song, đối với Nhà nước, thanh toán bằng tiền mặt lại là
cách thức họ muốn hạn chế nhất. Đó là vì hình thức thanh toán này có nhiều
nhược điểm ảnh hưởng tới việc quản lý của Nhà nước.
4. Nhược điểm của hình thức thanh toán trực tiếp sử dụng tiền mặt
theo pháp luật hiện hành
Với bên thụ hưởng, thanh toán bằng tiền mặt không bảo đảm an toàn 100%
cho họ. Các rủi ro chủ quan xuất phát từ bên chi trả có thể là: tiền giả, chất
lượng tiền xấu. . . Các rủi ro khách quan ngoài quá trình thanh toán cũng luôn
có thể xảy ra, ví dụ như: trộm, cướp tiền, làm thất lạc tiền. . . Với những rủi ro
này, người thụ hưởng hoàn toàn chịu thiệt hại về mình, khó có thể truy đòi
người chi trả.
Với bên chi trả, thanh toán bằng tiền mặt cũng mang lại nhiều phiền phức.
Trước tiên họ cũng phải bảo đảm an toàn cho quá trình vận chuyển tiền, kiểm
tra tiền kỹ càng trước khi thanh toán. Ngoài ra, nếu hai bên ở cách xa nhau,


5


việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt sẽ gặp khó khăn, đòi hỏi về thời gian
và các phụ phí phát sinh.
Với Nhà nước, thanh toán bằng cách sử dụng tiền mặt là hình thức mà quốc
gia nào cũng muốn hạn chế. Tiền mặt khiến cho việc quản lý tiền tệ của Nhà
nước gặp rất nhiều khó khăn. Trước tiên là chi phí cho việc in ấn, phát hành
tiền, chung chuyển tiền, đưa tiền vào lưu thông, rút tiền hết thời hạn sử dụng
ra khỏi lưu thông... Tiếp theo, Nhà nước cũng khó có thể kiểm soát được các
giao dịch bằng tiền mặt. Vì vậy mà các tệ nạn như: trốn thuế, tham nhũng, rửa
tiền... đã dựa vào yếu tố này mà phát triển. Thứ ba, Nhà nước cũng rất khó để
kiểm soát lượng tiền đang thực có trong xã hội. Ngoài số tiền đang lưu thông
còn có số tiền dự trữ của mỗi người dân. Vì thế mà Nhà nước sẽ gặp rất nhiều
khó khăn khi phát hiện các dấu hiệu xấu ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ để
đưa ra những điều chỉnh phù hợp.
Hiện nay, với quy định của nghị định 161/2006/NĐ-CP, Nhà nước chỉ hạn
chế được các giao dịch bằng tiền mặt trong phạm vi các giao dịch thanh toán
ấy có liên quan tới Nhà nước. Còn các giao dịch của cá nhân, tổ chức trong xã
hội, bộ phận chủ yếu thực hiện thanh toán bằng tiền mặt thì Nhà nước chưa
thể kiểm soát được. Điều này càng làm cho những nhược điểm của hình thức
thanh toán này khó có thể khắc phục.
II – THANH TOÁN QUA TRUNG GIAN THANH TOÁN
1. Khái quát về thanh toán qua trung gian thanh toán và các quy định
của pháp luật về vấn đề này
Thanh toán qua các trung gian thanh toán và việc chi trả không tiến hành
trực tiếp giữa người chi trả với người thụ hưởng mà thông qua việc uỷ nhiệm
cho các tổ chức trung gian thực hiện (như Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước... ).
Như vậy, có thể thấy, thanh toán qua trung gian không còn chỉ là mối quan
hệ giữa hai bên: bên chi trả và bên thụ hưởng như hình thức thanh toán trực

tiếp bằng tiền mặt; mà trong quan hệ thanh toàn này còn có bên trung gian.
Đó là các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Đây là điểm khác biệt đầu
tiên của hình thức thanh toán này so với hình thức thanh toán trực tiếp bằng
tiền mặt. Theo điểm a Khoản 1 Điều 1 Quy chế hoạt động thanh toán qua các
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (ban hành kèm Quyết định của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 3 năm
2002), tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bao gồm:
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Các Ngân hàng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng,
bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư,
Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác;
6


- Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương;
- Các tổ chức tín dụng không phải là Ngân hàng được Ngân hàng Nhà
nước cho phép làm dịch vụ thanh toán;
- Các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà
nước cho phép làm dịch vụ thanh toán;
Có thể thấy, lực lượng tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo Quy chế
này là khá đông. Trong đó, các Ngân hàng là thành phần quan trọng nhất, chủ
yếu nhất.
Điểm khác biệt thứ hai là phương tiện thanh toán của hình thức thanh toán
qua trung gian bao gồm: tiền mặt và các phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt khác; trong khi đó hình thức thanh toán trực tiếp thì phương tiện
thanh toán chỉ có thể là tiền mặt.
Theo Điều 9 của Quy chế Hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán, các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác bao
gồm:
- Séc

- Uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi
- Uỷ nhiệm thu hoặc nhờ thu
- Thẻ ngân hàng
- Các phương tiện thanh toán khác
Hiện tại, hình thức thanh toán này được điều chỉnh bởi:
- Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005
- Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 về hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
- Quyết định của Thống đốc NHNN số 22/2002/QĐ-NHNN về việc ban
hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán
- Quyết định của Thống đốc NHNN số 1092/2002/QĐ-NHNN về việc ban
hành quy định thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
- Ngoài ra, còn có các văn bản khác quy định về từng phương thức thanh
toán, bài viết sẽ chỉ ra trong phần phân tích của từng phương thức.
Căn cứ vào các quy định như vậy của pháp luật, thanh toán qua trung gian
thanh toán nói chung có những ưu và nhược điểm sau:
2. Những ưu và nhược điểm của hình thức thanh toán qua trung gian
thanh toán
Thanh toán qua trung gian có thể sử dụng tiền mặt và các phương thức
thanh toán khác không phải tiền mặt. Phần bài làm dưới đây chỉ phân tích các
ưu, nhược điểm của hình thức thanh toán qua trung gian sử dụng các phương
thức thanh toán không phải tiền mặt.
7


Trước khi đi vào phân tích cụ thể ưu và nhược điểm của từng phương thức
thanh toán, chúng ta sẽ cùng có cái nhìn khái quát về hình thức thanh toán qua
trung gian nói chung.
a – Ưu điểm của hình thức thanh toán qua trung gian

Trước hết, có thể khẳng định, với hai hình thức thanh toán chính là: thanh
toán trực tiếp sử dụng tiền mặt và thanh toán qua trung gian, ưu điểm của hình
thức này là nhược điểm của hình thức kia. Do đó, ưu điểm của thanh toán qua
trung gian được thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, điểm nổi bật dễ nhận ra nhất là thanh toán qua trung gian giúp
Nhà nước có thể kiểm soát được các giao dịch một cách chặt chẽ. Ưu điểm
này có được chính bởi khi hai bên thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán, Nhà nước lại quản lý các tổ chức này cả về mặt hành chính và
nghiệp vụ. Vì thế mà các giao dịch sẽ được kiểm soát. Nguồn gốc của giao
dịch cũng dễ dàng được điều tra. Từ đó mà các hoạt động tiêu cực như rửa
tiền, trốn thuế... sẽ bị ngăn chặn.
Thứ hai, thanh toán qua trung gian giúp rút bớt lượng tiền mặt trong lưu
thông, tạo điều kiện để Nhà nước quản lý được chính xác và dễ dàng chính
sách tiền tệ của mình. Tiền mặt luân chuyển trong xã hội khiến cho Nhà nước
rất khó kiểm soát được lượng tiền thực đang lưu thông, vì vậy nên khi có các
dấu hiệu về lạm phát, thiểu phát, Nhà nước khó có thể ngăn chặn ngay từ đầu.
Trong khi đó, những con số này sẽ trở nên dễ dàng nắm bắt nếu các giao dịch
thanh toán được thực hiện qua trung gian.
Ưu điểm thứ ba của thanh toán qua trung gian là giúp giảm chi phí lưu
thông của tiền tệ. Các phí tổn cho in ấn tiền, đưa tiền vào lưu thông, thu hồi
tiền, kiểm kê tiền... sẽ được hạn chế. Ngoài ra, vấn nạn tiền giả cũng sẽ được
khắc phục.
Một số ưu điểm khác của thanh toán qua trung gian như: giảm thiểu những
nguy hiểm từ bên ngoài (ví dụ: trộm cướp, lửa đảo tiền mặt), tạo nên sự văn
minh trong thanh toán, góp phần vào xây dựng văn minh trong xã hội. Nếu hệ
thống thanh toán qua trung gian tốt sẽ khiến việc thanh toán trở nên nhanh
chóng, tiện lợi cho cả hai bên.
Tóm lại, thanh toán qua trung gian là hình thức trợ giúp đắc lực cho Nhà
nước quản lý các giao dịch trong xã hội nói riêng, và quản lý tiền tệ nói
chung. Đối với mỗi người dân, hình thức thanh toán này nâng cao chất lượng

thanh toán cả họ.
b – Nhược điểm của hình thức thanh toán qua trung gian
Cũng như loại hình thanh toán khác, thanh toán qua trung gian cũng có
những nhược điểm của nó.
8


Nhược điểm dễ nhận thấy nhất đó là thanh toán qua trung gian đòi hỏi một
hệ thống thanh toán hiện đại, được trang bị tốt cả về nhân lực lẫn vật chất. Để
thực hiện tốt các giao dịch thanh toán cho khách hàng, các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán cần thiết lập một hệ thống thanh toán tốt, ví dụ như: các
thiết bị về tin học ngân hàng để kết nối cùng với hệ thống ngân hàng, để bảo
mật cho khách hàng...; các thiết bị kỹ thuật về nhận dạng tiền tệ, các giấy tờ
có giá khác. Đội ngũ nhân viên ngân hàng cũng cần có kỹ năng nghiệp vụ
vững, đủ để giải quyết nhanh chóng, chính xác vô số các vấn đề phát sinh
trong khi thanh toán, kể cả những vấn đề chưa được quy định. Chất lượng của
hình thức thanh toán này phụ thuộc rất lớn vào những yếu tố khách quan và
chủ quan ấy của các tổ chức trung gian. Điều này đòi hỏi một sự đầu tư lớn từ
phía các tổ chức này.
Chính từ đòi hỏi này mà một nhược điểm của thanh toán qua trung gian
nữa là dễ phát sinh các rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của các bên. Đó là
những rủi ro do lỗi của các thiết bị, của hệ thống. . . Cũng có khi rủi ro đó là
do lỗi chủ quan (ví dụ: nhân viên Ngân hàng sơ suất trong nghiệp vụ...). Mà
với một đặc điểm là thanh toán qua trung gian thường phổ biến với các giao
dịch có giá trị lớn, những rủi ro ngày sẽ gây ra hậu quả đáng kể với hai bên.
Nhược điểm thứ ba của thanh toán qua trung gian thuộc về hai bên chủ thể
của quan hệ thanh toán. Người chi trả và người thụ hưởng phải là những
người có trình độ nhất định, có hiểu biết về hoạt động thanh toán thì mới tiến
hành thanh toán qua trung gian tốt. Nếu không, một trong hai bên, hoặc cả hai
bên rất dễ gặp phải các rủi ro khi tiến hành thanh toán.

Như vậy, rủi ro khi tiến hành thanh toán qua trung gian chủ yếu là do tính
phức tạp hơn, đòi hỏi nhiều kỹ năng và trang thiết bị hơn.
3. Đôi nét thực trạng thanh toán qua trung gian ở Việt Nam hiện nay
và các động thái thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt của
Chính phủ
Như đã phân tích ở trên, tỷ trọng tiền mặt tham gia thanh toán ở nước ta
ngày càng giảm, tương ứng với đó sẽ là tỷ trọng các giao dịch không dùng
tiền mặt tăng, đó là các giao dịch qua các trung gian thanh toán.
Vụ trưởng Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước) Bùi Quang Tiên cho
biết, đến thời điểm giữa năm 2009, tỷ trọng tiền mặt/tổng phương tiện thanh
toán chỉ còn khoảng 14%, giảm đáng kể so với con số 16,36% của năm 2007.
Tính đến cuối tháng 6/2009, toàn thị trường có 8.800 máy ATM; hơn 17 triệu
thẻ ATM đang được lưu hành với 176 thương hiệu do 41 tổ chức phát hành.
Như vậy, so với mục tiêu của Đề án Thanh toán không dùng tiền mặt giai
đoạn 2006 - 2010 (đến cuối năm 2010 phát hành 15 triệu thẻ ATM, tỷ lệ tiền
mặt/tổng phương tiện thanh toán không quá 18%...)
9


Để đạt được những bước đi ấy, không thể không nói đến những chính sách
của Chính phủ. Đề án Thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010,
định hướng tới năm 2020 là kim chỉ nam cho các quy định trong lĩnh vực
thanh toán. So sánh với những con số đưa ra ở trên, có thể khẳng định Đề án
giai đoạn 2006 – 2010 đã được hoàn thành.
Chỉ thị 20/2007/CT-TTg về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng
hưởng lương từ ngân sách cũng góp phần thúc đẩy thị trường thẻ thanh toán
Việt Nam phát triển, đặc biệt là trong những năm có hiệu lực gần đây của Chỉ
thị. Với trên 17 triệu thẻ ATM đã được phát hành, số đơn vị trả lương qua tài
khoản vào đầu năm 2009 đã tăng gấp 4 lần so với một năm trước đó, với trên
1,132 triệu người nhận lương qua tài khoản.

Để triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt, năm 2009 Bộ Tài
chính bắt đầu thực hiện Dự án Hiện đại hoá quy trình thu nộp thuế giữa cơ
quan thuế - Kho bạc Nhà nước (KBNN) - hải quan với các ngân hàng thương
mại, nhằm hỗ trợ công tác thu, nộp ngân sách bảo đảm nhanh chóng, chính
xác; hạn chế sử dụng tiền mặt trong thu, nộp thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho
người nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ với ngân sách…
Tổng cục Thuế và KBNN đã phối hợp với Ngân hàng Công thương, Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn ký thoả thuận hợp tác và triển khai thí điểm phối hợp thu ngân
sách tại một số địa bàn. Phó tổng giám đốc BIDV Lê Đào Nguyên cho biết,
sau 1 tháng thí điểm thu ngân sách tại TP. Hải Dương, BIDV đã thực hiện
được 3.000 khoản với số tiền trên 28 tỷ đồng. Điều này cho thấy, việc ngân
hàng thu hộ ngân sách đã có những ảnh hưởng, tác động tích cực đối với các
đối tượng tham gia quy trình thu nộp. (2)
Từ những con số, những phân tích trên chúng ta có thể thấy một cái nhìn
khả quan về hoạt động thanh toán qua trung gian ở nước ta. Đồng thời chúng
ta cũng nhận thấy những động thái tích cực từ phía Chính phủ trong việc đẩy
mạnh thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta. Tuy nhiên, hầu hết các ý
kiến đều cho rằng việc thanh toán qua trung gian ở nước ta còn gặp rất nhiều
khó khăn để có thể trở nên chuyên nghiệp hoá, trở thành hình thức thanh toán
chủ yếu trong nền kinh tế. Mặc dù số lượng cá nhân sử dụng thẻ ATM đã
vượt mục tiêu đề ra cho năm 2010, nhưng trên thực tế, người dân chỉ sử dụng
thẻ ATM để… rút tiền mặt thanh toán hàng hoá, dịch vụ. Do đó, có thể khẳng
định, thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam hiện chưa phát triển mạnh,
tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu và vẫn chiếm tỷ trọng lớn
trong thanh toán trong khu vực công, doanh nghiệp và dân cư.

2

Theo số liệu trong bài viết “Bức thiết thanh toán không dùng tiền mặt” – Tác giả Hàn Tín, báo Đầu Tư số

100 ra ngày 31 tháng 7 năm 2009

10


Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu các ưu và nhược
điểm của thanh toán qua trung gian thanh toán không dùng tiền mặt. Trong
đó, các phương thức thanh toán được lựa chọn là: Séc, Uỷ nhiệm chi, Uỷ
nhiệm thu, Thẻ ngân hàng và Thư tín dụng
4. Ưu và nhược điểm của thanh toán bằng Séc theo pháp luật hiện
hành
a) Quy định của pháp luật về Séc
Theo Điều 4 Luật công cụ chuyển nhượng, “séc là lệnh trả tiền của chủ tài
khoản, được lập theo quy định của pháp luật, yêu cầu tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để
trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc trả cho người cầm séc”.
Như vậy, xét về mặt pháp lý, séc vừa là một hình thức thanh toán, vừa là
một giấy tờ có giá. Hai đặc tính này của séc được cụ thể hoá trong luật bằng
Quyết định số 30/2006/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 11 tháng
7 năm 2006 ban hành Ban hành Quy chế cung ứng và sử dụng séc.
Căn cứ và quy chế này, có thể thấy thanh toán bằng séc có những ưu và
nhược điểm sau:
b) Ưu điểm
Séc là một trong những phương tiện thanh toán đã có lâu đời ở các nước
phát triển. Đến nay séc vẫn rất được ưa chuộng sử dụng. Đó là bởi séc có rất
nhiều ưu điểm, mà tựu chung lại là sự tiện lợi của nó cho cả người ký phát và
người thụ hưởng.
Về người ký phát, ưu điểm của séc với họ là rất rõ rệt. Người ký phát chỉ
cần ghi rõ ràng số tiền (bằng cả chữ và số) cần thanh toán lên trên séc, ký tên
theo chữ ký đã đăng ký. Tên người thụ hưởng có thể được ghi (nếu séc được

ký phát cho một người xác định) hoặc không. Các hoạt động này khá đơn
giản, thực hiện một số lần là người ký phát có thể không mắc lỗi trong việc ký
phát séc.
Về người thụ hưởng, séc cũng rất tiện lợi với họ. Họ cầm séc đến ngân
hàng, xuất trình CMND và có thể được lĩnh số tiền đã được ghi trên séc.
Những thao tác này cũng khá nhanh chóng, đơn giản. Thêm nữa, nếu người
thụ hưởng làm mất séc, họ vẫn được lĩnh tiền. Bởi thực ra séc là hình thức
thanh toán cho quyền đòi nợ của người thụ hưởng. Tờ séc mất đi nhưng
quyền đòi nợ của họ không mất. Đây là ưu điểm rất lớn của séc so với tiền
mặt.
Thêm nữa, người thụ hưởng hoàn toàn có thể yêu cầu thanh toán séc bằng
tiền mặt hoặc chuyển khoản vào tài khoản của người thụ hưởng. Điều này rất
tiện lợi với họ.
11


Đối với cả hai bên, séc có thể thay thế cho tiền mặt trong giao dịch vì séc
phòng tránh được những tai nạn không mong muốn của tiền mặt (ví dụ: bị
cướp, bị mất... ). Đồng thời, việc sử dụng séc cũng không đòi hỏi những kỹ
năng phức tạp về phương thức thanh toán khi soạn thoả hợp đồng như các
hình thức khác. Ngoài ra, séc cũng hạn chế được rất nhiều rủi ro khách quan
ngoài ý muốn của hai bên, ví dụ như: lỗi của hệ thống máy tính, sự chậm chễ
trong thủ tục chuyển khoản liên ngân hàng...
Tóm lại, đối với cả người ký phát và người thụ hưởng, séc rất tiện lợi và
an toàn, tránh được những rủi ro khách quan.
c) Nhược điểm
Tuy nhiên, cũng như các hình thức thanh toán khác, sử dụng séc để thanh
toán cũng có những nhược điểm nhất định.
Nhược điểm lớn nhất của séc có lẽ thuộc về người thụ hưởng, đó là sự
nghi ngại về khả năng thanh toán của séc. Người thụ hưởng khi nhận séc hoàn

toàn không biết tài khoản thanh toán của người ký phát có đủ để thanh toán
séc không. Song, Quy chế cung ứng và sử dụng séc cũng quy định: “Trong
trường hợp séc bị từ chối thanh toán do séc không đủ khả năng thanh toán,
người ký phát phải hoàn trả không điều kiện số tiền bị truy đòi trên séc”
(khoản 3 Điều 3). Như vậy, dù tài khoản không đủ để chi trả séc, người thụ
hưởng vẫn sẽ nhận được số tiền mà mình có quyền truy đòi. Hoặc người ký
phát có thể bảo chi séc để người thụ hưởng yên tâm về khả năng thanh toán
của séc. Song, dù đã có các biện pháp bảo đảm thanh toán séc như vậy nhưng
nếu một séc bị từ chối thanh toán (dù là một phần hay toàn bộ) thì quá trình
truy đòi cũng tốn khá nhiều thời gian của người thụ hưởng. Trong nền kinh tế
thị trường, thời gian có giá trị vô cùng quý giá. Chính điều này đã làm cho
người thụ hưởng có tâm lý e dè với séc.
Một lý do khách quan nữa khiến người thụ hưởng cẩn trọng với séc là về
hình thức của séc. Việc ký phát séc dù là không phức tạp, nhưng đó là đứng
trên phương diện của người ký phát. Đối với người thụ hưởng, họ không biết
về mẫu chữ kỹ mà người ký phát đã đăng ký với người bị ký phát. Do đó, việc
séc bị từ chối thanh toán là hoàn toàn có thể xảy ra nếu lỗi về hình thức này bị
vi phạm.
Nhược điểm thứ ba của séc đó là séc giả. Cũng như tiền mặt, séc hoàn
toàn có thể được làm giả. Tuy nhiên, tiền giả có thể có nhiều biện pháp kỹ
thuật để phát hiện, còn nhận diện séc là giả hay thật lại đòi hỏi những người
có trình độ chuyên môn cao, am hiểu. Hơn nữa, với quy định của Quy chế
như hiện nay, các tổ chức tín dụng tự chủ trong việc thiết kế và in mẫu séc,

12


đảm bảo yếu tố kỹ thuật và yếu tố chống làm giả của séc lại càng làm cho
những người thụ hưởng e ngại về độ tin cậy của séc.
Nhược điểm thứ tư xuất phát từ việc làm mất séc. Dù người thụ hưởng

làm mất séc vẫn có thể được truy đòi số tiền ghi trên séc, nhưng đó là trong
trường hợp thông báo về việc mất séc gửi kịp thời đến người ký phát và người
bị ký phát. Nếu người bị ký phát thanh toán séc trước khi có thông báo mất
séc thì người bị ký phát không phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại có thể xảy ra đối với người ký phát (tài khoản thanh toán bị trừ)
trong khi đó quyền đòi nợ của người thụ hưởng vẫn còn. Vì vậy, để khắc phục
tình trạng này, người ký phát nên sử dùng hình thức ký phát là ghi rõ tên của
người thụ hưởng.
Có thể thấy, những nhược điểm trên của séc xuất phát từ yếu tố chủ quan
nhiều hơn là các lý do khách quan. Những nhược điểm này hoàn toàn có thể
được khắc phục nếu người ký phát và người thụ hưởng có lòng tin, có uy tín
với nhau.
5. Ưu và nhược điểm của thanh toán bằng Thanh toán bằng Uỷ nhiệm
chi hoặc lệnh chi theo pháp luật hiện hành
a)Khái quát về uỷ nhiệm chi và quy định của pháp luật về Uỷ nhiệm
chi
Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi là hình thức uỷ nhiệm thanh toán qua ngân
hàng, kho bạc Nhà nước theo đó chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng, kho bạc
phụ vụ mình trích tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ
hưởng thông qua giấy uỷ nhiệm chi.
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủa tài khoản được lập theo mẫu in sẵn
của ngân hàng, kho bạc Nhà nước yêu cầu ngân hàng, kho bạc Nhà nước phục
vụ mình trích tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng.
Hiện nay, chưa có văn bản cụ thể nào quy định chi tiết về uỷ nhiệm chi
mà hoạt động này chủ yếu được đề cập trong Quyết định 226/2002 (Điều 13),
Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN (Điều 4). Căn cứ vào các quy định này, có
thể thấy các ưu và nhược điểm của uỷ nhiệm chi như sau:
b) Ưu điểm của uỷ nhiệm chi
Thứ nhất, có thể thấy uỷ nhiệm chi được thực hiện khá đơn giản. Bên trả
tiền lập một giấy uỷ nhiệm chi theo mẫu đã được ban hành trước của ngân

hàng và đưa cho chính Ngân hàng phục vụ mình. Sau đó ngân hàng đó sẽ
chuyển cho ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng. Sự tham gia của hai bên gần
như là rất ít mà hoạt động này được thực hiện giữa các ngân hàng với nhau.
Chính điều này đã tạo ra sự tiện lợi cho Người sử dụng dịch vụ uỷ nhiệm chi.
Thứ hai, chính vì hoạt động này diễn ra chủ yếu giữa các ngân hàng với
nhau nên rủi ro sẽ được hạn chế. Bởi, một trong số những rủi ro của thanh
13


toán qua trung gian thanh toán là rủi ro xuất phát từ hai bên trong quan hệ
thanh toán, việc thanh toán đòi hỏi phải có hiểu biết về thanh toán qua trung
gian. Những rủi ro này sẽ được khắc phục khi thực hiện qua ngân hàng.
c) Nhược điểm của uỷ nhiệm chi
Nhược điểm đầu tiên của Uỷ nhiệm chi xuất phát từ lỗi của bên trả tiền.
Các lỗi đó cũng thường dễ gặp trong các hình thức thanh toán khác, ví dụ
như: lỗi ghi giấy uỷ nhiệm chi không hợp lệ, lỗi về khả năng thanh toán của
tài khoản thanh toán, lỗi về ký tên và đóng dấu... Những lỗi này có thể dẫn
đến thiệt hại cho người trả tiền (ví dụ: trả nhầm người thụ hưởng) hoặc dẫn
đến mất thời gian vì giao dịch bị tạm đình chỉ...
Nhược điểm thứ hai là hiện nay ở Việt Nam, hoạt động này được tiến hành
còn khá thủ công nên vẫn chậm. Các bước viết giấy uỷ nhiệm chi, kiểm tra
tính chính xác của các giấy tờ liên quan được tiến hành chủ yếu bằng tay nên
không tránh khỏi sai sót. Vì vậy, hiệu quả thanh toán chưa cao.
Hiện nay, với những ưu và nhược điểm như trên của phương thức thanh
toán này, Uỷ nhiệm chi thường được áp dụng để chi trả các hoá đơn sinh hoạt
hàng ngày, các khoản chi có tính chính xác cao. Để khắc phục những hạn chế
của hoạt động này, các ngân hàng có thể nâng cao hệ thống Thanh toán điện
tử để khách hàng có thể kê khai thanh toán qua mạng Internet, như thế Ngân
hàng có thể nhanh chóng gửi thư xác nhận về việc thanh toán để khách hàng
kiểm tra lại lần cuối, vừa tránh được những rủi ro không đáng có, vừa tiết

kiệm thời gian cho hai bên.
6. Ưu và nhược điểm của thanh toán bằng Thanh toán bằng Uỷ nhiệm
thu hoặc nhờ thu theo pháp luật hiện hành
a) Khái quát về Uỷ nhiệm thu
Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu là hình thức thanh toán qua ngân hàng, kho
bạc Nhà nước trong đó đơn vị bán (đơn vị thụ hưởng) yêu cầu ngân hàng, kho
bạc nhà nước phục vụ mình thu hộ số tiền về hàng hoá đã chuyển giao, dịch
vụ đã cung ứng cho người khác.
Uỷ nhiệm thu là lệnh thu của chủ tài khoản (người thụ hưởng) lập theo mẫu in
sẵn của ngân hàng, kho bạc Nhà nước yêu cầu ngân hàng, kho bạc Nhà nước
phục vụ mình thu hộ số tiền theo các chứng từ về việc đã chuyển giao hàng
hoá, đã cung ứng dịch vụ cho người khác.
Có thể thấy, đây là một hình thức hỗ trợ thương mại lẫn nhau giữa ngân hàng,
kho bạc với bên thụ hưởng. Cũng như Uỷ nhiệm chi, hiện tại chưa có văn bản
cụ thể điều chỉnh chuyên về hoạt động uỷ nhiệm thu mà phương thức thanh
toán này chủ yếu được đề cập ở Quyết định 226/2002 (Điều 14), Quyết định
1092/2002/QĐ-NHNN (Điều 5).
b) Ưu điểm của Uỷ nhiệm thu
14


Hình thức thanh toán này khá đơn giản, tiết kiệm thời gian cho người thụ
hưởng. Đồng thời, người chi trả cũng sẽ dễ dàng thực hiện các thao tác chi trả
cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng.
c) Nhược điểm của Uỷ nhiệm thu
Thứ nhất, đối với các hợp đồng kinh tế, quá trình thanh toán bằng hình
thức này khá phức tạp. Hai bên mua bán phải thống nhất thoả thuận và ghi
trong hợp đồng kinh tế. Đồng thời thông báo bằng văn bản cho ngân hang
phục vụ người thụ hưởng biết để làm căn cứ thực hiện uỷ nhịêm thu. Sau khi
hoàn tất các việc giao hàng hay cung ứng dịch vụ, bên thụ hưởng lập giấy uỷ

nhiệm kèm theo hoá đơn, chuyển đơn nộp cho ngân hang phục vụ mình hoặc
gửi trực tiếp đến ngân hang phục vụ người trả tiền để yêu cầu thu hộ tiền. Sau
khi nhận được giấy uỷ nhiệm thu trong vòng một ngày làm việc, ngân hang
phục vụ người trả tiền trích tài khoản của người trả tiền trả ngay cho bên thụ
hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Có thể thấy đây là một quá trình với những
thủ tục thanh toán phức tạp, người mua khó kiểm soát được quá trình đòi tiền
của người bán.
Thứ hai, Có thể xảy ra tình trạng chậm trả. Đó là trường hợp khi Uỷ nhiệm
thu về đến Ngân hàng phục vụ người trả tiền nhưng tài khoản của người trả
tiền không có hoặc không đủ số dư để thanh toán. Khi đó Ngân hàng phục vụ
chủ thể trả tiền sẽ lưu Uỷ nhiệm thu vào hồ sơ giấy Uỷ nhiệm thu quá hạn
chưa thanh toán để theo dõi thanh toán. Khi tài khoản của bên trả tiền có đủ
tiền để thanh toán thì ghi ngày thanh toán lên trên Uỷ nhiệm thu để thực hiện
thanh toán và tiến hành tính phạt chậm trả đối với người trả tiền. Tuy nhiên
điều này vãn có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn hoặc thiếu vốn tạm thời
của người thụ hưởng.
7. Ưu và nhược điểm của thanh toán bằng Thanh toán bằng Thẻ ngân
hàng theo pháp luật hiện hành
a – Khái quát về thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho
khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết của ngân hàng phát hành thẻ và chủ
thẻ.
Hiện nay, căn cứ vào nguồn vốn của chủ thể, thẻ ngân hàng được chia làm
hai loại là: Thẻ thanh toán và thẻ tín dụng.
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ sử dụng thẻ trong thanh toán, có hai loại thẻ
là thẻ nội địa và thẻ quốc tế.
Văn bản trực tiếp điều chỉnh thanh toán bằng thẻ ngân hàng hiện nay là
Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN của ban hành Quy chế phát hành, thanh
toán và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng.
b – Ưu điểm của thanh toán bằng thẻ ngân hàng

15


Đối với người sử dụng, ưu điểm dễ thấy nhất là thẻ ngân hàng rất tiện
dụng. Thẻ nhỏ gọn, có thể mang theo bên mình. Đồng thời, thẻ cho phép
người sử dụng thanh toán từ những giao dịch sinh hoạt nhỏ đến những giao
dịch có giá trị lớn. Tiếp theo, chủ sở hữu thẻ cũng hoàn toàn có thể kiểm tra
tình trạng của tài khoản.
Hiện nay, các nhà cung cấp thẻ ở Việt Nam đã cung ứng gần như đủ các
loại thẻ ra thị trường, vì vậy mà người sử dụng có nhiều sự lựa chọn cho phù
hợp với nhu cầu của mình. Hơn nữa, hệ thống thiết bị phục vụ thẻ (máy ATM,
máy POS) cũng đang được trang bị ngày càng nhiều, các ngân hàng cũng đã
liên kết với nhau để người sử dụng có thể thực hiện giao dịch gần như ở mọi
nơi, tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng.
Thứ hai, thẻ ngân hàng cho phép ngân hàng hạn chế được các giao dịch
bằng tiền mặt.
c – Nhược điểm của thanh toán bằng thẻ ngân hàng
Nhược điểm lớn nhất của thanh toán bằng thẻ ngân hàng tại nước ta là hệ
thống thiết bị phục vụ thẻ. Hiện nay, thẻ ngân hàng phổ biến ở nước ta là thẻ
thanh toán và chức năng được sử dụng chủ yếu là rút tiền mặt tại các máy
ATM. Các hình thức thẻ khác gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện thanh
toán.
Thứ hai, tính bảo mật và chất lượng phục vụ thanh toán của thẻ chưa tốt.
Chỉ riêng xoay quanh việc rút tiền mặt ở các máy ATM cũng đã làm phát sinh
nhiều bất tiện cho người sử dụng: máy ATM nuốt thẻ, giao dịch không thành
công nhưng tài khoản của chủ thẻ vẫn bị trừ...
Đối với khách hàng, họ phải mất một khoản phí để duy trì thẻ và một
khoản phí sử dụng thẻ hàng năm. Đồng thời, hàng ngày họ cũng bị hạn chế số
tiền mặt có thể được rút. Như vậy, đối với các thanh toán có giá trị khá lớn thì
thẻ ngân hàng khó có thể đáp ứng được nhu cầu này.

8. Ưu và nhược điểm của thanh toán bằng Thanh toán bằng thư tín
dụng (LC) theo pháp luật hiện hành
a – Khái quát về thư tín dụng
Thanh toán bằng thư tín dụng là hình thức uỷ nhiệm thanh toán qua Ngân
hàng, theo đó thanh toán được tiến hành từ một khoản tiền được bên mua lưu
ký trước ở ngân hàng phục vụ mình để trả cho bên bán theo các chứng từ của
bên bán về số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng và theo các điều
kiện sử dụng thư tín dụng.
Quá trình thanh toán bằng thư tín dung được biểu diễn bằng sơ đồ sau:

16


(7a)
THANH
TOÁN

(7a) Bộ
chứng từ
ĐÚNG

NH mở LC
9
T
H
A
N
H
T
O

Á
N

(2)
Yêu
cầu
phát
hành
LC

(8)
Đòi
tiền
& gửi
BCT

NH thông báo

(3) gửi LC

(6)
Bộ
chứng
từ LC

Bên mở LC
(nhà nhập khẩu)

(7b) Bộ
chứng từ

SAI

(7b) Trả lại & TỪ
CHỐI THANH
TOÁN

(5) Giao hàng / Yêu cầu sửa LC
theo HĐ
(1) Ký HĐ Ngoại thương

(4)
Thông
báo LC

Bên thụ hưởng
(nhà xuất khẩu)

Chú giải:
- Bước 1: Hai bên mua bán kí kết hợp đồng ngoại thương với điều khoản
thanh toán theo phương thức L/C.
- Bước 2: Trên cơ sở các điều khoản và điều kiện của hợp đồng ngoại
thương nhà nhập khẩu làm đơn đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu phát
hành một L/C cho người xuất khẩu hưởng.
- Bước 3: Căn cứ vào đơn xin mở L/C ,nếu đồng ý ngân hàng phát hành
lập một L/C và chuyển cho ngân hàng thông báo( hoặc thông qua ngân hàng
đại lý của mình ở nước người xuất khẩu) để thông báo về việc phát hành L/C
và chuyển tín dụng đến người xuất khẩu.
- Bước 4: Khi nhận được thông báo L/C ngân hàng thông báo sẽ thông báo
L/C cho nhà xuất khẩu.
- Bước 5: Nhà xuất khẩu nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng,nếu

không thì đề nghị người nhập khẩu thông qua ngân hàng phát hành sửa đổi,bổ
sung L/C cho phù hợp với hợp đồng ngoại thương.
- Bước 6: Sau khi giao hàng nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu
của L/C và xuất trình cho ngân hàng phát hành để thanh toán.
- Bước 7: NH phát hành sau khi kiểm tra bộ chứng từ,nếu thấy phù hợp
với L/C do mình phát hành thì tiến hành thanh toán cho nhà xuất khẩu,nếu
thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ và nguyên
vẹn cho nhà xuất khẩu.
- Bước 8: NH phát hành đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ
cho nhà nhập khẩu sau khi đã nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
- Bước 9: Nhà nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp L/C thì trả
tiền hoặc chấp nhận trả tiền,nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối trả
tiền.
Nhìn từ những bước thanh toán trên, có thể rút ra các ưu và nhược điểm của
thanh toán bằng LC
17


b – Ưu điểm của thư tín dụng
Thứ nhất, thanh toán bằng LC đáp ứng giao dịch thanh toán có giá trị lớn.
Giá trị của giao dịch được xác lập ngay từ khi hai bên ký hợp đồng và bên mở
LC lập hồ sơ xin mở LC. Do đó dù là giao dịch lớn tới đâu cũng sẽ được đáp
ứng, chỉ cần bên mở LC trong hồ sơ của mình chứng minh được khả năng chi
trả.
Thứ hai, thanh toán bằng thư tín dụng hạn chế tối đa các rủi ro trong thanh
toán do lỗi khách quan của hai bên nên rất phù hợp với thanh toán quốc tế.
Khi bên mua mở LC, họ đã chứng minh được khả năng thanh toán của mình,
do đó bên bán không cần lo ngại về khả năng thanh toán của bên mua. Hai
bên do có sự bảo lãnh của hai ngân hàng nên có thể hoàn toàn tin tưởng nhau.
c – Nhược điểm của thư tín dụng

Chính vì thư tín dụng có độ tin cậy cao như vậy nên các thủ tục thanh toán
bằng thư tín dụng cũng khá phức tạp. Trước hết, khi xây dựng hợp đồng, hai
bên phải thiết lập điều khoản về thanh toán bằng LC. Sau đó, trải qua 9 bước
như trên, các bên mới hoàn tất quá trình thanh toán. Trong quá trình thanh
toán, một lỗi nhỏ về hình thức hay nội dung của các loại giấy tờ cũng có thể
khiến tạm đình chỉ việc tiến hành giao dịch. Vì vậy, đòi hỏi các chủ thể tham
gia thanh toán bằng thư tín dụng phải có hiểu biết chắc chắn về phương thức
thanh toán này.
Hai là, thư tín dụng sẽ không thể được áp dụng nếu hai ngân hàng không
tham gia quan hệ thanh toán bù trừ.
Ba là, quá trình thanh toán kéo dài sẽ gây cản trở cho quá trình quay vòng
vốn của các bên.
III – MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA CÁC
HÌNH THỨC THANH TOÁN
Qua những nghiên cứu về ưu và nhược điểm của các hình thức thanh toán ở
trên, chúng ta có thể thấy giải pháp để nâng cao chất lượng thanh toán ở đây
chung quy lại là các biện pháp để giảm thiểu hơn nữa sự phổ biến của thanh
toán bằng tiền mặt, nâng cao chất lượng của thanh toán qua trung gian để hình
thức này ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn.
Trước hết, đối với thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt, việc quan trọng là
phải thay đổi tâm lý chuộng tiền mặt trong nhân dân. Việc làm này đòi hỏi
khá nhiều thời gian và sự đầu tư lớn về cả trang thiết bị và nhân lực để thu hút
sự quan tâm của số đông vào các hình thức thanh toán không sử dụng tiền
mặt. Trước hết, chúng ta nên thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt trong các
hoạt động thanh toán cho sinh hoạt hàng ngày. Tận dụng những thành tích đã
đạt được trong việc phát hành thẻ thanh toán, hệ thống các cửa hàng, siêu thị

18



bán lẻ được trang bị các máy tính tiền bằng thẻ, máy POS. Các giao dịch khác
như: mua thẻ điện thoại, mua xăng dầu... cũng nên được thực hiện bằng thẻ.
Sau đó, nên khuyết khích thanh toán các loại hoá đơn hàng tháng qua ngân
hàng. Ví dụ: hoá đơn tiền điện, hoá đơn tiền nước, tiền dịch vụ Internet hay
điện thoại... Hiện nay hình thức này mới chỉ dừng lại ở phương pháp làm còn
thủ công, tận dụng sức phủ sóng của Internet, các ngân hàng có thể cho phép
khách hàng thực hiện Uỷ nhiệm chi qua Internet để tiết kiệm thời gian và hạn
chế rủi ro.
Về phía ngân hàng, giải pháp đặt ra là đồng bộ hoá, thống nhất cơ sở vật
chất kỹ thuật, tương thích các phần mềm và chương trình ứng dụng của các
ngân hàng, nâng cao chất lượng phục vụ thanh toán bằng thẻ ngân hàng để tạo
niềm tin với người sử dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần phối hợp với
các cơ quan Nhà nước để hiện đại hoá các hoạt động thanh toán tại hệ thống
cơ quan này. Ví dụ như việc thí điểm thu thuế tại Hải Dương qua ngân hàng
BIDV đã được nêu ở trên. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần chủ
động nâng cao năng lực quản lý, giám sát, theo dõi, phát hiện và điều chỉnh
hệ thống thanh toán ngân hàng.
Về phía các cơ quan nhà nước, trọng trách của Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước là khá nặng nề. Trước hết, cần tạo điều kiện cho các ngân hàng
được hiện đại hoá và nâng cao chất lượng phục vụ thanh toán. Ở đây, cần chú
trọng đến tính hiệu quả của hoạt động thanh toán liên ngân hàng. Ngân hàng
Nhà nước đóng vai trò khá lớn trong hoạt động này. Một giải pháp cụ thể có
thể thấy là sớm hoàn thiện Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất; Trung tâm
thanh toán bù trừ tự động phục vụ cho các giao dịch bán lẻ (ACH); và việc
Kết nối hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán với hệ thống
thanh toán liên ngân hàng quốc gia đang được khẩn trương triển khai; khi
hoàn thành sẽ tạo ra một hạ tầng thanh toán hiện đại, đồng bộ.
Hai là, tiếp tục khuyến khích các tổ chức, cá nhân mở tài khoản thanh toán
tại ngân hàng. Thành công của Chỉ thị 20/2002/Ct-TTg đã cho thấy chúng ta
hoàn toàn có thể thành công khi thực hiện giải pháp này. Tuy nhiên, đi đôi với

giải pháp này còn phải là các giải pháp khác nhằm nâng cao thực sự chất
lượng thanh toán qua trung gian.
Thứ ba, quan trọng nhất là các văn bản quy định của pháp luật cần được
hoàn thiện tốt hơn. Theo ý kiến cá nhân em, việc ban hành Luật Séc là cần
thiết. Bởi hình thức này có khá nhiều ưu điểm và hoàn toàn có tính ứng dụng
cao, có thể được sử dụng rộng rãi. Kinh nghiệm của các nước đi trước đã cho
thấy, các rủi ro liên quan đến Séc hoàn toàn có thể được ngăn chặn nếu có
những quy định chặt chẽ. Do đó, khi ban hành Luật Séc, các giao dịch thanh
toán cần đến Séc sẽ an toàn hơn.

19


Ngoài ra, các phương thức thanh toán khác chưa có văn bản cụ thể điều
chỉnh như: Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi, Thư tín dụng... cũng cần được quy
định bổ sung.
Hiện nay, cùng với quá trình hội nhập, hiện đại hoá cuộc sống của nhân
dân, chúng ta thấy xuất hiện phương thức thanh toán trực tuyến, thanh toán
qua điện thoại. Thực chất đây là một phương thức thanh toán của hình thức
thanh toán qua trung gian. Tuy nhiên, cơ chế quản lý cho hai phương thức
thanh toán này gần như chưa có. Trong khi đó, sự mở rộng của hai phương
thức này lại khá nhanh. Đây cũng là một lưu tâm đối với các nhà làm luật.

KẾT LUẬN
Qua những phân tích ở trên, có thể thấy, hiện nay ở Việt Nam các hình
thức, phương thức thanh toán khá đa dạng. Tuy nhiên, hình thức thanh toán
trực tiếp bằng tiền mặt lại là hình thức phổ biến nhất. Điều này đã ảnh hưởng
không tốt tới hoạt động của thị trường tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Hơn nữa, cùng với quá trình hội nhập, Việt Nam sẽ phải thích nghi
dần với các phương thức thanh toán hiện đại. Vì thế, ngay từ bây giờ, Chính

phủ phối hợp với hệ thống ngân hàng cần dần tạo điều kiện để thay đổi thói
quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán như hiện nay.
Hi vọng, cùng với những thành công bước đầu của Đề án Thanh toán không
dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010, định hướng tới năm 2020, chất lượng của
hoạt động thanh toán ở Việt Nam sẽ ngày càng được nâng cao.

20


MỤC LỤC

21



×