Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.9 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC..........................................................................................................................1
A - ĐẶT VẤN ĐỀ..............................................................................................................1
B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...............................................................................................2
I - Một số vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo và việc đảm bảo pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước......................................................................................................2
1. Khái niệm khiếu nại và giải quyết khiếu nại..........................................................2
2. Khái niệm tố cáo và giải quyết tố cáo....................................................................3
3. So sánh giữa khiếu nại và tố cáo............................................................................3
4. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong hoạt động khiếu nại, tố cáo...........................4
II – Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo....................................5
1. Vai trò của khiếu nại, tố cáo...................................................................................5
2. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo..................................................................9
III- Thực trạng giải quyết khiếu nại tố cáo và một số giải pháp..................................10
1. Thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam hiện nay.............10
2. Một số giải pháp trong hoạt động khiếu nại, tố cáo. ...........................................10
A - ĐẶT VẤN ĐỀ
Khiếu nại, tố cáo là quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp quy định
tại điều 74 “ Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào”.
Bài tập lớn học kì Luật hình sự
1
Đây là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, là phương
thức để họ tham gia vào quản lý nhà nước, là biểu hiện của nền dân chủ XHCN. Do đó,
hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước là một trong
những biện pháp quan trọng để bảo đảm quyền công dân, bảo đảm duy trì pháp chế
XHCN và kỉ luật trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I - Một số vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo và việc đảm bảo pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước


1. Khái niệm khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Theo giải thích của từ điển Tiếng việt thì khiếu nại là “ đề nghị cơ quan có thẩm
quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp lý”. Về
góc độ xã hội, khiếu nại là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội, thể hiện sự phản
ứng tự nhiên của một số người đối với hành vi của người khác khi họ cho rằng hành vi
đó không phù hợp với các quy tắc chuẩn mực trong đời sống cộng đồng. Về góc độ
chính trị - pháp lý thì khiếu nại là một quyền dân chủ cơ bản của công dân được pháp
luật quy định và bảo đảm thực hiện bởi bộ máy nhà nước.
Theo khoản 1 điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 quy định: “Khiếu nại là việc
công dân, cơ quan tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do luật này quy định đề
nghị cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi
hành chính hoặc quyết định kỉ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định
hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Như vậy khiếu nại là đề nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp
bởi QĐHC hay HVHC hoặc đề nghị của cán bộ, công chức chịu tác động trực tiếp của
quyết định kỉ luật đối với cơ quan tổ chức hoặc người hoặc người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại. Đề nghị này xuất phát từ nhận thức chủ quan của người khiếu nại cho
rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Cơ quan có thẩm quyền chỉ có
thể kết luận có vi phạm hay không sau khi đã xem xét một cách khách quan và thận
trọng nội dung vụ việc với điều kiện được cung cấp đầy đủ tài liệu có liên quan.
Tuy nhiên khái niệm trên chỉ giới hạn những khiếu nại phát sinh trong giới hạn
quản lý hành chính nhà nước mà đối tượng khiếu nại là QĐHC, HVHC. Trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ XHCN cần có khái niệm pháp lý về
khiếu nại rộng hơn, toàn diện hơn mà hạt nhân của nó là công dân, tổ chức có quyền yêu
cầu các cơ quan nhà nước xem xét lại các quyết định, hành vi mà họ cho là trái pháp
luật, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã quy định khái niệm giải quyết khiếu nại như
sau: “ Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của
người giải quyết khiếu nại” ( khoản 13 Điều 2). Như vậy giải quyết khiếu nại gồm 3 giai
Bài tập lớn học kì Luật hình sự

2
đoạn: xác minh tình tiết, nội dung vụ việc khiếu nại, kết luận về tính đúng sai, cơ sở
pháp lý của nội dung khiếu nại, ra quyết định giải quyết khiếu nại.
2. Khái niệm tố cáo và giải quyết tố cáo.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Tố cáo là báo cho mọi người hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó…vạch trần hành
động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn”.
Theo quan niệm của PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt thì tố cáo là quyền của công dân
phát hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các quyết định, hành vi trái pháp luật của
cơ quan tổ chức hoặc cá nhân đã gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho lợi ích nhà
nước, của tập thể, quyền và lợi ích của công dân nói chung, mang không gây thiệt hại
trực tiếp cho công dân thực hiện việc tố cáo”.
Trong pháp luật nước ta, lần đầu tiên Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 đã quy định
khái niệm tố cáo: “ Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định, báo cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ
quan, tổ chức cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” ( khoản 2 Điều 2).
Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định trong hiến
pháp. Bản chất của tố cáo là việc công dân phát hiện và báo cho cơ quan nhà nước biết
về hành vi VPPL nào đó diễn ra trong đời sống xã hội. Chủ thể thực hiện quyền tố cáo là
mọi công dân. Đối tượng của tố cáo rất rộng, bao gồm tất cả các hành vi VPPL do bất kì
người nào thực hiện. Thông qua việc tố cáo VPPL, nhà nước có được một nguồn thông
tin về những hành vi VPPL diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, qua đó cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền kiểm tra xem xét để có biện pháp xử lý.
Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 quy định khái niệm tại Khoản 14 Điều 2 Luật
Khiếu nại tố cáo về “ giải quyết tố cáo là việc xác minh, kết luận nội dung tố cáo và việc
quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo”. Giải quyết tố cáo gồm 3 giai đoạn: kiểm
tra, xác minh nội dung tố cáo; kết luận về tính đúng đắn, khách quan nội dung tố cáo; xử
lý hành vi VPPL của người tố cáo và giải quyết những vấn đề liên quan đến nội dung
theo quy định của pháp luật.

3. So sánh giữa khiếu nại và tố cáo.
Giữa khiếu nại và tố cáo có điểm chung là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức khi bị xâm phạm. Khiếu nại và tố cáo đều có chung căn
cứ là VPPL. Vì vậy các thông tin do khiếu nại, tố cáo mang đến đều là những thông tin
phản ánh VPPL do vậy, về bản chất giải quyết khiếu nại, tố cáo là giải quyết xử lý
VPPL.
Mặc dù giữa khiếu nại và tố cáo có quan hệ gần gũi nhau nhưng giữa chúng có sự
khác nhau về nội dung, tính chất, đặc biệt là sự điều chỉnh của pháp luật.
Bài tập lớn học kì Luật hình sự
3
Về chủ thể: chủ thể của khiếu nại là công dân, tổ chức, cơ quan – những người có
quyền lợi liên quan trực tiếp tới hành vi VPPL, còn chủ thể của tố cáo chỉ có thể là công
dân - người không có quyền và lợi ích liên quan trực tiếp tới hành vi VPPL.
Về đối tượng: đối tượng của khiếu nại là QĐHC, HVHC mà người khiếu nại cho
rằng quyết định hay hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Đối tượng của tố cáo là những hành vi VPPL của bất cứ một cơ quan, tổ chức,
cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Về mục đích: mục đích của người khiếu nại là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, còn mục đích của người tố cáo là nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập
thể nói chung.
Về trách nhiệm pháp lý: người khiếu nại không phải chịu trách nhiệm khi khiếu
nại không có căn cứ còn người tố cáo phải chịu trách nhiệm pháp lý khi cố tình tố cáo
sai sự thật.
Khiếu nại và tố cáo còn khác nhau về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phương thức
giải quyết.
4. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong hoạt động khiếu nại, tố cáo
Pháp chế là một vấn đề rộng và riêng định nghĩa của nó đã có rất nhiều quan điểm
khác nhau. Ở đây tôi xin nêu ra một vài quan điểm để chúng ta tham khảo. Theo giải
thích của từ điển Bách khoa Việt nam thì: pháp chế XHCN được hiểu là chế độ tuân thủ

nghiêm chỉnh, chính xác Hiến pháp và luật của mọi chủ thể các quan hệ pháp luật”. Giáo
trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Học viện hành chính quốc gia năm
2001 quan niệm: “ Pháp chế XHCN là chế độ pháp luật, trong đó đòi hỏi phải tôn trọng
thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thường xuyên đối với các QPPL của các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, cán bộ công chức, các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân,
của mọi công dân; đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm vi phạm Hiến pháp và
pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi VPPL”. Quan niệm này đã mở rộng phạm vi nội hàm
của khái niệm pháp chế, coi pháp chế là chế độ pháp luật, đồng thời trong chế độ đó
chứa đựng tư tưởng: tôn trọng, thực hiện nghiêm minh pháp luật của các chủ thể pháp
luật. Quan niệm này một mặt đã khẳng định rằng muốn có pháp chế trước hết phải có
pháp luật đồng thời pháp luật đó phải là pháp luật thể hiện tính công bằng và phải đạt
đến một trình độ văn minh nhất định.
Ở nước ta quyền lực là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước là một hoạt động
của quyền hành pháp do đó hoạt động này cũng phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế. Đây
là một hoạt động nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, cơ quan,
tổ chức, bảo đảm pháp chế và kỉ luật trong quản lý nhà nước, chính vì thế hoạt động này
phải đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật khiếu
Bài tập lớn học kì Luật hình sự
4
nại, tố cáo và pháp luật khác có liên quan. Tư tưởng, nguyên tắc tuân thủ pháp luật đã
được quy định từ khi có Luật khiếu nại, tố cáo 1998: “ Việc khiếu nại, tố cáo và giải
quyết khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện theo pháp luật”.
Nội dung pháp chế trong quản lý hành chính gồm 2 nội dung chính là bảo đảm
việc ban hành các văn bản quy phạm hành chính và đảm bảo việc thực hiện các văn bản
đó đúng pháp luật. Như vậy việc bảo đảm pháp chế trong hoạt động khiếu nại tố cáo của
các cơ quan hành chính là bảo đảm cho một cơ chế pháp lý rõ ràng, cụ thể bằng việc ban
hành các luật hoặc văn bản dưới luật về hoạt động khiếu nại tố cáo. Các cơ quan có thẩm
quyền phải đảm bảo việc tổ chức thực hiện và sau đó là chịu trách nhiệm kiểm tra giám

sát việc thực hiện theo pháp luật của hoạt động này. Khiếu nại và tố cáo có những vai trò
rất lớn trong hoạt động quản lý nhà nước và xã hội vì vậy chúng ta phải có các biện pháp
hữu hiệu để đảm bảo pháp chế xung quanh hoạt động này.
II – Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo.
1. Vai trò của khiếu nại, tố cáo
So với hoạt động lập pháp và tư pháp, hoạt động quản lý hành chính nhà nước hay
còn gọi là hoạt động “ chấp hành- điều hành” là hoạt động diễn ra phổ biến, thường
xuyên và liên tục. Đây là hoạt động phức tạp triển khai ở mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, rất nhạy cảm và thường tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Yếu tố quyền uy phục tùng đã chi phối khá nhiều đến mối quan hệ giữa nhà nước
và công dân. Việc sử dụng quyền lực nhà nước không đúng pháp luật rất dễ xâm phạm
tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy việc khiếu nại, tố cáo của công dân
trong quản lý hành chính nhà nước trở nên quan trọng và được coi là yếu tố không thể
thiếu để đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Thứ nhất, khiếu nại tố cáo là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp. Nhìn nhận ở một góc độ tổng quát quyền khiếu nại, tố cáo là quyền để
bảo vệ quyền. Tức là khiếu nại, tố cáo là phương tiện pháp lý có hiệu quả để công dân
tự bảo vệ các quyền lợi của mình khi bị xâm hại trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Pháp
luật hành chính trên cơ sở cụ thể hoá các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân sẽ xác
lập địa vị pháp lý của công dân trong quản lý hành chính nhà nước. Trước các hành vi
hay quyết định vi phạm hoặc trái pháp luật của các chủ thể quản lý tác động tới, gây
thiệt hại tới quyền lợi hợp pháp hoặc gây nên bức xúc, thắc mắc trong nhân dân thì lúc
này pháp luật đã dự liệu trước và cung cấp cho họ một công cụ pháp lý để giải quyết vấn
đề đó, là quyền được khiếu nại và tố cáo. Quyền khiếu nại, tố cáo giúp củng cố và bảo
vệ địa vị pháp lý của công dân trong mối quan hệ với các chủ thể quản lý hành chính.
Không chỉ tự bảo vệ mình trước các hành vi hay quyết định vi phạm, khi công dân
thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo sẽ tạo tiền đề cơ sở để công dân thực hiện các quyền
khác có liên quan và cũng bảo vệ quyền lợi của họ như quyền khởi kiện, quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại.
Bài tập lớn học kì Luật hình sự

5

×