Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

QUY ĐỊNH CỦA TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BẮT NGƯỜI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.99 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẮT NGƯỜI TRONG TTHS
1. Khái niệm bắt người trong TTHS
2. Cơ sở hình thành
3. Ý nghĩa của biện pháp bắt người
II.
QUY ĐỊNH CỦA TTHS VIỆT NAM VỀ BẮT NGƯỜI

1
1
2
3
4

TRONG LUẬT TTHS NĂM 2003.
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
4. Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt
III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO

4
6
8
10
11

HIỆU QUẢ ÁP DỤNG


1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về bắt người 11
2.
Nâng cao trình độ chuyên môn của người áp dụng
14
3.
Xử lí kiên quyết và nghiêm minh những vi phạm pháp luật 14
trong áp dụng biện pháp bắt người
4.
Tăng cường sự hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra và nâng cao 15
chất lượng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong biện
pháp bắt người
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI MỞ ĐẦU
Để phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành
quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự;
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
1


hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan tổ chức và công dân trong tố
tụng hình sự. Quá trình tố tụng hình sự gồm nhiều hành vi tố tụng do các chủ thể
khác nhau thực hiện, muốn đạt được mục đích của tố tụng hình sự không chỉ đòi
hỏi ở hoạt động của các cơ quan Nhà nước mà còn có sự tham gia bắt buộc của
những người có liên quan, của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Tuy nhiên, không phải lúc nào người bị nghi thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo...
đều tự giác thực hiện các nghĩa vụ của mình mà nhiều khi họ còn cố tình vi phạm
pháp luật, trốn tránh, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc tiếp

tục thực hiện tội phạm. Đây cũng là lý do mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định
các biện pháp ngăn chặn nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa sự gây
khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Trong những biện pháp mà các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành áp dụng thì biện pháp bắt người là một trong những biện
pháp đem lại hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm,
ngăn chặn kịp thời những hành vi trốn tránh pháp luật gây khó khăn cho việc giải
quyết các vụ án của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án được thuận lợi.

NỘI DUNG
I/ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẮT NGƯỜI TRONG TTHS
1. Khái niệm bắt người trong TTHS
“Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong TTHS được áp dụng đối với bị
can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội
quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời
ngăn chặn hành vi của họ, ngăn chặn họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.”
Biện pháp bắt người ở đây có tính chất là biện pháp cưỡng chế vì nó ảnh
hưởng đến một số quyền cơ bản của công dân trong TTHS. Đối tượng áp dụng
của các biện pháp ngăn chặn là những người bị buộc tội trong TTHS. Một điểm
khác biệt của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn so với áp dụng hình phạt đó
chính là thời điểm áp dụng. Đấy chình là thời điểm trước khi án thành còn đối với
hình phạt là sau khi người phạm tội đã được Toà tuyên một bản án về tội danh
đó.
2. Cơ sở hình thành quy định bắt người trong luật tố tụng hình sự
2


a. Cơ sở lí luận
Điều 51 Hiến pháp 1992 đã quy định: “Quyền của công dân không tách

rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công
dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và
nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định.” Theo đó, ngoài việc quy
định trong Hiến pháp và các đạo luật cơ bản của công dân, đảm bảo cho công dân
thực hiện được các quyền đó, Nhà nước cũng xác định cho công dân có các nghĩa
vụ kèm theo, và đòi hỏi công dân làm tròn nghĩa vụ của mình với Nhà nước và xã
hội. Việc xâm phạm một cách trái pháp luật đến các quyền cơ bản của công dân
là việc làm trái pháp luật, việc công dân từ chối thực hiện nghĩa vụ hay vi phạm
các nghĩa vụ cũng được coi là vi phạm pháp luật. Cả hai loại vi phạm này tuỳ
thuộc vào tính chất mức độ của vi phạm mà bị xử lí công bằng tuân theo những
nguyên tắc dựa trên cơ sở tôn trọng các quyền của con người.
Điều 8 Bộ Luật hình sự 1999 quy định “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Điều 79 Bộ luật TTHS đã đưa ra được những căn cứ để áp dụng biện pháp
ngăn chặn: Thứ nhất là để kịp thời ngăn chặn tội phạm; thứ hai là khi có căn cứ là
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho điều tra, truy tố, xét xử; thứ ba khi có căn cứ
là bị can bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội; thứ tư là để đảm bảo thi hành án.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội và một trong những đặc điểm của tội
phạm là tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ nó
ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bên cạnh tính chất nguy hiểm
cho xã hội, tội phạm còn gây nhiều thiệt hại thực tế cho đối tượng bị tác động, và
ngay cả khi còn trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
b. Cơ sở thực tiễn
Xã hội Việt Nam hiện nay đang có những chiều hướng chuyển đổi nhất

định, một mặt phải dung hoà những tinh hoa nhưng cũng phải đấu tranh để chống
3


lại những tệ nạn đang có chiều hướng gia tăng. Chính vì thế công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm đang được nhà nước ta hết sức chú trọng. Và các biện
pháp ngăn chặn theo luật định luôn được đề cao, trong đó biện pháp bắt người là
một trong những biện pháp mang tính răn đe và nhanh chóng.
3. Ý nghĩa của biện pháp bắt người
Với mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm đang tìm cách trốn thoát hay
có thể tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội pháp luật đã quy định biện pháp bắt
người là một biện pháp mang tính chất cần thiết cao. Biện pháp này cũng nhằm
ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét
xử và việc thi hành án. Sở dĩ Bộ luật TTHS quy định từng biện pháp ngăn chặn
rõ ràng vì mỗi một biện pháp khi áp dụng vào từng trường hợp đều mang những
ý nghĩa riêng. Có thể thấy được biện pháp bắt người có những ý nghĩa sau:
Một là, biện pháp bắt người là thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tội phạm trực tiếp
hoặc gián tiếp xâm phạm đến sự bền vững của chế độ Nhà nước, chế độ kinh tế xã hội. Do đó Nhà nước coi việc ngăn chặn phòng chống tội phạm, xử lí nghiêm
những hành vi vi phạm, nhằm tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống, và phải
thực hiện một cách triệt để.
Hai là, đảm bảo cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được
thuận lợi, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Ba là, bắt người là sự đảm bảo cho việc thực hiện dân chủ trong pháp luật.
Quy định và áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong TTHS không chỉ
đơn thuần là tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn nhằm đảm
bảo sự tôn trọng thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như Hiến
pháp quy định. Mọi hành vi vi phạm pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn
gây hậu quả nghiêm trọng đều bị xử lí nghiêm minh. Như vậy xét một cách toàn

diện, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm chỉnh những biện pháp ngăn chặn
trong TTHS là sự thể hiện tập trung và rõ nét nhất tính dân chủ, tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
II. QUY ĐỊNH CỦA TTHS VIỆT NAM VỀ BẮT NGƯỜI THEO BỘ LUẬT
TTHS NĂM 2003.
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS)
4


a. Đối tượng và điều kiện áp dụng biện pháp bắt để tạm giam.
Mỗi một trường hợp bắt người đều cần xác định đối tượng cụ thể vì đối với
từng đối tượng khác nhau thì có điều kiện áp dụng, thủ tục, thẩm quyền khác biệt.
Và đối với biện pháp bắt để tạm giam tại Điều 80 Bộ luật TTHS thì đối tượng chỉ
có thể là bị can hoặc bị cáo. Còn đối với những người bị khởi tố về hình sự hoặc
những người chưa bị Toà án quyết định đưa ra xét xử thì không thuộc đối tượng
bắt để tạm giam. Bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; bị can
phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà trong BLHS quy định hình phạt tù
giam là 2 năm và có căn cứ cho rằng bị can đang trốn thoát hoặc gây cản trở điều
tra, xét xử…thì đều thuộc đối tượng áp dụng biệ pháp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam. Quy định này một mặt bảo vệ quyền công dân mặt khác cũng hạn chế
những trường hợp bắt người vô căn cứ.
Điều kiện áp dụng biện pháp bắt để tạm giam trong TTHS vẫn chưa có
những quy định cụ thể ở từng trường hợp. Vì mỗi một tội phạm thực hiện đều có
những đặc điểm riêng biệt, cũng như mức độ cần thiết để áp dụng biện pháp là
khác nhau. Mặc dù Bộ luật TTHS 2003 không quy định cụ thể việc bắt để tạm
giam được áp dụng với bị can, bị cáo trong trường hợp nào nhưng không phải
mọi bị can, bị cáo đều có thể hoặc cần bắt để tạm giam. Bởi lẽ việc bắt người là
đã hạn chế quyền công dân của họ vì thế khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có
thẩm quyền mới áp dụng bắt tạm giam bị can, bị cáo. Vì vậy việc xác định tính
cần thiết khi bắt giam là một việc rất quan trọng. Ví dụ như trường hợp anh A bị

Toà án đưa ra xét xử về tội tổ chức đánh bạc nhưng vì nhân thân đã có tiền sự và
có căn cứ khẳng định anh A đang có hành vi trốn thoát đi nước ngoài, do đó việc
xác định bắt tạm giam anh A được coi là cần thiết. Nhưng cũng có trường hợp
người phạm tội nghiêm trọng nhưng do nhân thân tốt và có ý thức nhận ra tội của
mình, không có ý định trốn tránh tội lỗi của mình mà thành khẩn thi việc bắt họ
là không nhất thiết phải thưc hiện. Tuy nhiên thông thường khi xác định một
người phạm tội thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tiến hành bắt tạm giam các đối
tượng để hạn chế tối đa việc để tội phạm tẩu thoát.
b. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo.
Theo Khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2003 trong từng giai đoạn tố tụng khác
nhau thì thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo sẽ thuộc về những chủ thể nhất
5


định. Nhưng về nguyên tắc thì cả ba cơ quan tiến hành tố tụng đều có thẩm
quyền.
-

Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó

thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp quyết định. Trường hợp Cơ quan điều tra ra
lệnh thì lệnh bắt bị can để tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành. Sự phê chuẩn của Viện kiểm sát còn là một thủ tục pháp lý bắt
buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp lý của lệnh bắt người cũng như sự cần
thiết phải bắt bị can tạm giam. Những lệnh bắt người không có sự phê chuẩn của
Viện kiểm sát cùng cấp sẽ không có giá trị thi hành theo quy định tại điều 88
BLTTHS và Thông tư 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP.
-

Trong thời gian truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó


viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng kiểm sát quân sự các cấp
quyết định.
-

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm

giam do Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp,
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh án Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao, Hội đồng xét xử quyết định.
c. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam( Khoản 2 Điều 80 BLTTHS
2003)
-

Khi tiến hành bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có

thẩm quyền, lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên chức vụ của người ra
lệnh bắt và người bị bắt, có lí do và lệnh bắt phải có chữ ký của người có thẩm
quyền, có đóng dấu của cơ quan. Lệnh bắt bị can, bị cáo tạm giam phải đảm bảo
yêu cầu pháp lý nên trên mới có gíá trị thi hành.
-

Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh

bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. Người bị bắt có quyền yêu cầu
người thi hành lệnh bắt và giải thích lệnh. Trong trường hợp có nghi ngờ về lệnh
bắt thì người bị bắt có quyền yêu cầu cho xem lệnh bắt. Những yêu cầu đó phải
được người thi hành lệnh bắt chấp nhận.
-


Khi bắt phải lập biên bản bắt người, biên bản ghi rõ ngày, tháng, năm, địa

điểm bắt, nơi lập biên bản, những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi
hành lệnh bắt, thái độ của người bị bắt trong việc chấp hành, tài liệu có liên quan
được phát hiện, bị tạm giữ, và những yêu cầu khiếu nại của người bị bắt. Biên
6


bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị
bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng kí tên vào văn bản.
Nếu có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì họ có quyền ghi
vào biên bản và kí tên.
-

Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú của họ phải có đại diện chính quyền

xã, phường, thị trấn, và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến.
-

Khi tiến hành bắt người tại nơi làm việc của họ phải có mặt đại diện của

cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt làm việc chứng kiến.
-

Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có đại diện chính quyền xã,

phường, thị trấn nơi tiến hành việc bắt chứng kiến.
Không bắt người vào ban đêm (từ sau 22h tối ngày hôm trước đến trước 6h sáng
ngày hôm sau) trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang.
Về vấn đề thủ tục bắt giữ thì Bộ luật TTHS quy định tương đối chặt chẽ.

Điều này thể hiện sự điều chỉnh nghiêm khắc của hệ thống pháp luật Việt Nam và
đồng thời cũng thể hiện được sự tôn trọng quyền công dân của nhà nước ta. a
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS 2003)
a, Đối với các trường hợp sau đây thì bị bắt khẩn cấp:
-

Theo quy đ iểm a Khoản 1 Điều 81 quy định thì Khi có căn cứ để cho

rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm mới và tội phạm chuẩn bị tiếp
tục thực hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Ta thấy với quy định của trường hợp này là chưa phù hợp với thực tế vì
trong những trường hợp bắt khẩn cấp với mục đích phòng chống tội phạm thì rất
không thể xác định một cách nhanh chóng là tội phạm chuẩn bị thực hiện hành vi
phạm tội là thuộc khung hình phạt nào của BLHS để từ đó xét xem thuộc tội
phạm nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Điều nay gây ảnh hưởng đến các
cơ quan chức năng thực hiện việc áo dụng biện pháp bắt người khẩn cấp.
-

Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông

thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn. Ở đây ta phải hiểu việc có người xác nhận có thể là xác
nhận trực tiếp (ví dụ trực tiếp thấy tội phạm đang thực hiện hành vi phạm tội)
hoặc xác nhận gián tiếp (có thể người xác nhận thông qua hình ảnh mà cơ quan
điều tra thu thập được). Đồng thời căn cứ cho rằng hành vi trốn của người phạm
tội được xét ở nghĩa rộng tức là không phải chỉ có hành bi trốn tránh, tẩu thoát
7


của tội phạm mà còn được áp dụng khi chưa xác định rõ nơi cư trú của tội phạm

hoặc có thể gây khó khăn trong việc triệu tập.
-

Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi

thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu
huỷ chứng cứ. Ví dụ như khi phạm tội, tội phạm có sự giằng co đối với nạn nhân
dẫn đến bị thương ở cánh tay. Đấy được xem là dấu vết của tội phạm ở người
thực hiện tội phạm. Đối với hành vi như cho, tặng, biến dạng chứng cứ đều được
xem là tiêu huỷ chứng cứ chứ không riêng việc huỷ bỏ hoàn toàn chứng cứ.
b, Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
-

Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

-

Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương;

người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
-

Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay,

bến cảng.
c, Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp
khẩn cấp:
-

Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh;


họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người
ra lệnh và có đóng dấu.
-

Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của

người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
-

Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính

quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi
tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức
nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có
sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt
người chứ không nhất thiết phải là đại diện chính quyền nơi người đó cư trú.
Việc quy định này giúp cho cơ quan chức năng có thể linh hoạt hơn trong công
việc.
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp
để xét phê chuẩn. Khác với bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì việc báo cáo với
Viện kiểm sát có thể sau khi bắt người. Điều này để tạo điều kiện để việc bắt tội
8


phạm có hiệu quả hơn. Tránh trường hợp vì thủ tục rườm rà mà để tội phạm trốn
thoát. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị
bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên

quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì
người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Trường hợp bắt khẩn cấp là trường hợp mang tính cấp thiết cao. Đây là
biện pháp được áp dụng đối với các đối tượng có tính chất nghiêm trọng, đồng
thời cũng là biện pháp bắt người nhằm ngăn chặn có hiệu quả rõ nét. Vì thế về
thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp được mở rộng hơn đối với các
cá nhân có thẩm quyền thuộc lĩnh vực an ninh quốc phòng. Bên cạnh đó thì về
thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp cũng có phần nhanh gọn hơn thủ tục
bắt tạm giam bị can, bị cáo. Nhờ thế, mà các cơ quan áp dụng pháp luật có thể
linh hoạt, chủ động ở các trường hợp khác nhau.
3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
a. Bắt người phạm tội quả tang (Điều 82 BLTTHS)
“Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt”.
Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội rõ ràng cụ thể, không cần phải
chứng minh. Phạm tội quả tang bao gồm các trường hợp sau:
- Một là: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện
Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội
được quy định trong BLHS nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc
việc phạm tội thì bị phát hiện. Hành vi đang thực hiện tội phạm có thể đã gây ra
hậu quả vật chất như đã huỷ hoại được một phần tài sản của người khác và vẫn
đang huỷ hoại tiếp. Trơng trường hợp hành vi đang thực hiện một tội phạm có
cấu thành hình thức thì mặc dù hậu quả vật chất chưa xảy ra nhưng vẫn coi là
hành vi đang thực hiện tội phạm. Ví dụ: Hành vi dùng vũ lực để chuẩn bị thực
hiện mục đích phạm tội hiếp dâm.
- Hai là: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện
Đây là trường hợp vừa thực hiện tội phạm xong người phạm tội chưa kịp
chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xoá dấu vết tội phạm
9



trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. Trong trường hợp này, người có mặt nơi xảy
ra tội phạm phát hiện ngay thì mặc dù không có vật chứng để lại vẫn được coi là
phạm tội quả tang.
- Ba là: đang bị đuổi bắt
Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau
khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong
trường hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn thì mới có cơ sở
xác định đúng người phạm tội, tránh bắt nhầm người không thực hiện tội phạm.
Ta thấy ở ba trường hợp nói trên thì tính chất quả tang giảm dần, điều này
cũng đồng thời với việc khả năng bắt nhầm đối tượng càng tăng cao tính theo từ
trường hợp một đến ba. Và trên thực tế cũng cho thấy các trường hợp bắt nhầm
đối tượng hay để đối tượng tẩu thoát thường rơi vào trường hợp thứ ba.
b. Việc bắt người đang bị truy nã (Điều 82 BLTTHS 2003)
Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người đang có lệnh truy nã là người
thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, tạm giam, tạm giữ, hoặc
đang thi hành án phạt tù thì bỏ trốn. Trong thực tế, người đang bị truy nã có thể
bị khởi tố về hình sự, đã có tư cách tố tụng là bị can, bị cáo, hoặc là người bị bắt
đang trong quá trình xác minh lý do bắt hay người bị kết án về hình sự thì chưa
thi hành án hoặc đang thi hành án mà bỏ trốn. Hành vi của người đang bị truy nã
không phải là hành vi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt nên người đang bị truy nã không phải là
người phạm tội quả tang.
c, Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Sở dĩ những người phạm tội quả tang hay đang bị truy nã là những người
đã có hành vi thực hiện tội phạm rồi cho nên pháp luật quy định rất mở rộng
phạm vi có quyền bắt các đối tượng này. Vì đặc điểm của loại tội phạm này là có
tính trốn tránh pháp luật cao cho nên khi có sự phát hiện tội phạm thì không chỉ
cơ quan có chức năng mà bất kỳ người dân nào đều có thể thực thi thẩm quyền

này. Đây là cách thức để huy động và phát huy tính tích cực của quần chúng
trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhằm kịp thời ngăn chặn hành
vi phạm tội và trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tập thể và công dân.
d, Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
10


Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã không cần lệnh của
cá nhân, cơ quan nào, mọi công dân đều có quyền bắt và tước vũ khí của người bị
bắt. Việc tước vũ khí xảy ra nếu như tội phạm có sử dụng vũ khí. Còn trong Bộ
luật TTHS không cho phép công dân bắt người có quyền khám người để thu vũ
khí. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc người dân khi bắt được tội phạm thì họ vẫn
thực hiện hành động này. Điều này cho thấy giữa pháp luật và đời sống còn thiếu
sự phù hợp.
Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, người bắt sẽ giải
ngay người bị bắt đến cơ quan công an, Viện kiểm sát, Ủy ban nhân dân gần
nhất. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy, vì người dân khi bắt người thì không thể
có chuyên môn, nghiệp vụ như cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó họ có nghĩa vụ
đưa người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền ngay sau khi bắt được đối tượng.
Các cơ quan sẽ lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có
thẩm quyền.
4. Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt (Điều 83 và
Điều 85 BLTTHS 2003)
Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn pháp luật đều quy định rõ ràng các
thủ tục cần thiết sau khi đã thực hiện biện pháp. Đây là các căn cứ để minh chứng
cho việc thực thi đúng các quy định của pháp luật. Và thông qua các biên bản
được ghi chép thì một lần nữa Nhà nước ta có thể kiểm tra, giám sát hoạt động
hành pháp của hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật một cách có hiệu quả.
Đồng thời đây cũng là những căn cứ giúp cho những giải quyết những trường

hợp oai sai của người dân.
Theo quy định tại Điều 83 Bộ luật TTHS: “Sau khi bắt hoặc nhận người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc trong trường hợp phạm tội quả tang, cơ
quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định
tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Do đó cơ quan điều tra phải triển khai
thực hiện việc xác định sự việc một cách nhanh chóng. Pháp luật quy định 24 giờ
đã thể hiện được sự tôn trọng quyền công dân của Nhà nước. Khoảng thời gian
này đủ để cho các cơ quan điều tra đưa ra quyết định tạm giữ hay trả tự do cho
người bắt, tránh tình trạng giữ người quá thời hạn lu ật định mà không có lệnh
tạm giữ, vi phạm quyền tự do thân thể của công dân.
11


Khác với trường hợp bắt phạm tội quả tang, hay bắt tạm giam thì đối với
người bị truy nã, sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải
thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt và
sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra quyết định
đình nã ngay. Bởi những đối tượng có lệnh truy nã là những người đã có hành vi
phạm tội rõ ràng và có hành vi trốn thoát vì thế không thể trả tự do sau 24 giờ.
Các cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện những việc cần làm theo trình tự đã quy
định tại Khoản 2 Điều 83 Bộ luật TTHS 2003.
Ta thấy rằng các việc làm sau khi bắt ngừơi ở các trường hợp tuy có sự
khác nhau ở từng thủ tục tuy nhiên về bản chất vẫn đòi hỏi các cơ quan điều tra
phải triển khai một cách nhanh chóng, minh bạch và chính xác để đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật nói chung và đảm bảo quyền lợi của công dân nói
riêng.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG TTHS VIỆT NAM.
1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về bắt người.
Thứ nhất, Bộ luật TTHS 2003 chưa quy định cụ thể việc bắt người trong

các trường hợp người đó là đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội…mà
vấn đề này mới chỉ được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân…nên theo em cần có quy định cụ thể về việc
bắt các đối tượng trên trong Bộ Luật TTHS nhằm thống nhất cách áp dụng trong
thực tế, đảm bảo cho việc pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý và bảo vệ
cho toàn thể công dân Việt Nam.
Thứ hai, đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam theo Điều 80
Bộ luật TTHS 2003 chưa quy định cụ thể các trường hợp áp dụng biện pháp này.
Đây là một thiếu sót trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và Bộ luật
TTHS nói riêng. Do đó, các nhà làm luật cần bổ sung các quy định về các trường
hợp rõ ràng để việc tiến hàng áp dụng biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 80 Bộ
luật TTHS 2003, với tên gọi của quy định này là: “Bắt bị can, bị cáo để tạm
giam” nên dễ dẫn đến cách hiểu: “Bắt người là một biện pháp để thực hiện lệnh
tạm giam”. Vì vậy cần xác định tên gọi của chế định này là “Bắt tạm giam bị
12


can, bị cáo” để có sự thống nhất quan điểm giữa người làm luật và người áp dụng
pháp luật.
Thứ tư, Khoản 4 Điều 81 Bộ luật TTHS 2003 có quy định về thẩm quyền
xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, đối
với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là “Người chỉ huy đơn
vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên
phòng ở hải đảo và biên giới” và “Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay,
tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” quy định tại điểm b, c Khoản 2 Điều 81
của Bộ luật này thì rất khó xác định được Viện Kiểm sát cùng cấp như khi tàu
bay đang bay trên bầu trời, tàu biển đang ở ngoài biển... Do đó, các nhà làm luật
cần quy định bổ sung trong Khoản 4 Điều 81 với nội dung “đối với trường hợp
quy định tại điểm b, c Khoản 2 Điều luật này, thẩm quyền để xét phê chuẩn lệnh

bắt khẩn cấp là Viện Kiểm sát nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc
nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký”. Với quy định như vậy sẽ tạo điều kiện
cho cơ quan có thẩm quyền kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn chặn hành
động gây khó khăn cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
Thứ năm, Bộ luật TTHS 2003 quy định việc bắt người phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã trong cùng một điều luật tại Điều 82. Việc bắt người trong
hai trường hợp này quy định: “Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay
sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người
đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Cơ quan
Công an, Viện Kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất”. Về phương diện
lý luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định này cho thấy: Quy định chung việc
bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã vào cùng một điều luật là
không phù hợp, vì đối tượng và thủ tục áp dụng, những việc cần làm sau khi tiếp
nhận người bị bắt trong hai trường hợp này không giống nhau.
Về đối tượng: Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang chưa phải
là bị can, bị cáo; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã là người đã có
lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành án phạt tù thì
bỏ trốn mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã.
Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: Đối với người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang họ có thể bị giam giữ hoặc không bị giam giữ theo Điều
86 Bộ luật TTHS năm 2003; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã
13


thì sau khi bị bắt, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp tạm
giữ hoặc tạm giam đối với họ.
Điều 82 Bộ luật TTHS hiện hành chỉ quy định thủ tục bắt người phạm tội
quả tang hoặc đang bị truy nã mà thiếu các quy định về việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người bị bắt, các vấn đề cần phải giải quyết sau khi tiếp
nhận người bị bắt. Những nội dung này lại được quy định trong Điều 83 Bộ luật

TTHS, Khoản 1 quy định những vấn đề cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị
bắt trong trường hợp phạm tội khẩn cấp hoặc quả tang; Khoản 2 quy định những
việc cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp đang bị truy
nã. Theo em, nên quy định các nội dung này trong một điều luật cho rõ căn cứ
bắt, thẩm quyền, thủ tục bắt trong từng trường hợp và những việc cần làm sau khi
bắt. Việc làm này bảo đảm tính khoa học về mặt kỹ thuật lập pháp, góp phần hạn
chế được những thiếu sót khi xây dựng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Mặt khác, Khoản 2 Điều 82 Bộ luật TTHS 2003 chỉ quy định: “khi bắt
người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có
quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt”, trong khi trên thực tế nhiều
trường hợp người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thường có vũ khí và rất
dễ chống trả ngay nếu bị bắt giữ. Cho nên, nếu không quy định quyền này một
cách chính xác, chặt chẽ thì rất khó khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực
tham gia công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì vậy, theo em cần quy
định thêm nội dung bất kỳ người nào cũng có quyền “lục soát tước vũ khí, hung
khí của người bị bắt” trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định
truy nã, để phân biệt với biện pháp khám người theo quy định tại Điều 182 Bộ
luật TTHS 2003, mà không vi phạm quy định về quyền tự do thân thể của công
dân.
Về tên gọi trường hợp bắt người đang bị truy nã theo quy định tại Điều 82
Bộ luật TTHS 2003, nên quy định tên điều luật là “bắt người theo quyết định truy
nã” sẽ chính xác hơn.
2. Nâng cao trình độ chuyên môn của người áp dụng
Việc áp dụng biện pháp bắt người có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc
trực tiếp chất lượng hoạt động trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
mà cụ thể là hoạt động của các chủ thể áp dụng như người có thẩm quyền ra lệnh
bắt người, người thi hành lệnh bắt, người có quyền bắt, chủ thể quan trong nhất là
14



người có thẩm quyền thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải là những người có
kiến thức pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng phân tích đánh giá
một cách khoa học đúng đắn các tình tiết của vụ án. Một số trường hợp do không
hiểu biết một cách chính xác mà dẫn đến nhầm lẫn, không biết đánh giá các
chứng cứ, dựa vào cảm tính dẫn đến oan sai trong quá trình tố tụng.
Việc nâng cao trình độ pháp lý của người áp dụng biện pháp bắt người,
người tiến hành tố tụng nói chung nhằm hạn chế và loại trừ các vi phạm pháp
luật. Có nhiều cán bộ làm công tác pháp luật không được đào tạo chính quy mà
chỉ dào tạo dưới hình thức chuyên tu, tại chức,… cũng được xếp ngang hàng với
hệ chính quy, làm Thẩm phán, Kiểm sát viên,…Vì thế, việc thực hiện những quy
định của pháp luật về tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức vụ trong Toà án, cũng như
các cơ quan thi hành pháp luật phải được quán triệt một cách triệt để, tránh tình
trạng tiêu cực.
Cùng với việc tiên chuẩn hoá cán bộ công chức, cần phải tiến hành tổ chức
bồi dưỡng định kì các khoá học về pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng của đội
ngũ cán bộ. Bên cạnh đó, cần ban hành sớm các văn bản giải thích pháp luật, các
cơ quan chức năng cần kịp thời có văn bản hướng dẫn cụ thể, để việc bắt người
trong TTHS ngày càng đảm bảo tính dễ hiểu, khả thi thực hiện dễ dàng.
3. Xử lý kiên quyết và nghiêm minh những vi phạm pháp luật trong áp
dụng biện pháp bắt người.
Bên cạnh những trường hợp bắt người theo đúng quy định của pháp luật,
vẫn còn tồn tại việc bắt người trái pháp luật. Nguyên nhân do kém hiểu biết của
người áp dụng, hạn chế trình độ chuyên môn, nhận thức các tình tiết sự việc sai
trái mà dẫn đến oan sai trong hoạt động TTHS vể bắt người. Để giảm thiểu tối đa
oan sai thiệt hại cho người bị oan, chúng ta cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
-

Việc bồi thường thiệt hại cho người bị bắt giam trái pháp luật cần phải

được thực hiện nhanh chóng để họ sớm khôi phục những thiệt hại mà họ phải

gánh chịu do hành vi bắt người trái pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền theo
Nghị quyết 388 và các văn bản hướng dẫn về việc bồi thường thiệt hại cho người
bị oan sai trong hoạt động TTHS.
-

Cần công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về các

hành vi gây oan sai nhằm kịp thời khôi phục lại danh dự nhân phẩm cho người bị
oan.
15


-

Cần áp dụng kịp thời các biện pháp xử lí kỉ luật, xử lí hình sự đối với

những người có những hành vi vi phạm pháp luật trong việc bắt người.
4. Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra và nâng cao chất lượng
công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong biện pháp bắt người.
-

Hiệu quả áp dụng của biện pháp bắt người trong TTHS phụ thuộc vào sự

chỉ đạo kiểm tra hướng dẫn của các nghành chức năng. Cho nên phải tăng cường
kiểm tra, chỉ đạo đối với việc áp dụng pháp luật
-

Trong quá trình kiểm soát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát phải kịp

thời nắm bắt tình hình thực tiễn của công tác bắt tạm giam, tạm giữ, để làm chặt

chẽ hiệu quả việc này, tránh tình trạng bắt nhầm người vô tội.
-

Cần xây dựng đội ngũ người tiến hành tố tụng có chuyên môn để có lợi và

đạt hiệu quả cao hơn.

KẾT LUẬN
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong Luật tố tụng hình sự
Việt Nam thời gian qua đã mang lại những kết quả khả quan, góp phần thúc đẩy
công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm trên địa bàn cả nước. Số bị can, bị
cáo, người chấp hành hình phạt khi bị áp dụng biện pháp bắt người đều không thể
trốn tránh được lưới pháp luật, và hạn chế tối đa cơ hội để bỏ trốn. Chính vì thế,
mà sự nghiêm minh của pháp luật được tăng cường, nhân dân thêm tin tưởng vào
pháp luật làm góp phần lầm cho pháp luật đi vào đời sống nhân dân, và được
nhân dân ti tưởng làm theo.
Bên cạnh những hiệu quả mà biện pháp bắt người đem lại thì vẫn còn tồn
tại những cái bất cập mà chúng ta cần nghiên cứu và khắc phục để cho pháp luật
được thực thi trong cuộc sống một cách khách quan nhất, minh bạch nhất. Đó
cũng để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của toàn dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
16


1.

Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam- Trường đại học Luật Hà Nội,

NXB Công An Nhân Dân, năm 2007.

2.

Bộ Luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2003.
3.

Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2003,

NXB. Tư pháp, Hà Nội năm 2003.
4.

Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam - Luận án thạc sỹ luật học -Vũ

Gia Lâm. Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000.
5.

Về sửa đổi, bổ sung qui định của pháp luật về bắt người, tạm giữ và tạm

giam - Nguyễn Phong Hoà - Nhà nước và pháp luật, Số 6(134)/1999.
6.

Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự -TS.

Trần Quang Tiệp - Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 7/2005.
7.

Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện, Mô hình luật tố tụng hình sự Việt

Nam, NXB. Công An Nhân Dân, Hà Nội, 2000.

8.

Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong việc nhận thức và áp dụng

các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về những quy định chung
của Hoàng Thế Anh - Tạp chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số
24/2005.

17



×