Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.46 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………….2
NỘI DUNG………………………………………………………………….….3
Phần 1: Khái quát về Quốc hội và Chính phủ…………………………....….3
1. Quốc hội
2. Chính phủ
Phần 2: Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ………………………….4
1. Quốc hội thành lập ra Chính phủ
2. Chính phủ - cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất.
3. Nguyên tắc giám sát Chính phủ của Quốc hội.
4. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong quy trình lập pháp.
Phần 3………………………………………………………………………...…9
KẾT LUẬN………………………………………………………………….....10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
HÌNH ẢNH MINH HỌA

1


LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước mang quyền lực riêng của mình để quản lý xã hội đã sinh ra nó.
Không một xã hội nào có đối kháng giai cấp mà không có nhà nước và các nhà
nước đương đại hiện nay phần lớn đều có ba cơ quan chính là quốc hội hay “nghị
viện” chuyên lập ra pháp luật, chính phủ thực hiện pháp luật đó trong thực tế và
các cơ quan tư pháp chuyên bảo vệ pháp luật. Các cơ quan này có phần việc của
mình và tương đối độc lập với nhau tuy nhiên giữa chúng vẫn có những mối
quan hệ nhất định. Trong đó, mối liên hệ giữa Quốc hội và Chính phủ là đặc biệt
quan trọng và góp phần to lớn vào việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này em xin chọn đề tài “Phân tích mối
quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành” cho bài tập


học kỳ của mình
Bài viết gồm ba phần:


Phần 1: Khái quát về Quốc hội và Chính phủ (Phần này sẽ khái

quát những vấn đề cơ về Quốc hội và Chính phủ như vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức, ....)


Phần 2: Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ (Phần này sẽ

phân tích cụ thể mối quan giữa Quốc hội và Chính phủ dưới một số góc độ như
sự thành lập, hoạt động, tổ chức, giám sát,…)


Phần 3: Những vấn đề còn tồn tại trong mối quan hệ giữa Quốc hội

và Chính phủ và hướng giải quyết. (Phần này sẽ đưa ra những hạn chế còn tồn
đọng, giải pháp khắc phục để nâng cao mối quan hệ giữa hai cơ quan nhà nước
này.)
Do đây là vấn đề khá nhạy cảm cũng như điều kiện thời gian tìm hiểu và
trình độ am hiểu vấn đề này còn hạn chế nên bài viết chắc chắn không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đánh giá của thầy cô
và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

2


NỘI DUNG

Phần 1: Khái quát về Quốc hội và Chính phủ.
1. Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi
ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Quốc
hội cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, có vai trò đặc biệt to lớn trong việc xây dựng, củng cố phát triển bộ
máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Nhiệm kì Quốc hội là năm
năm.Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Ngoài ra, Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đảm bảo những
quy định của Hiến pháp, luật được thi hành triệt để, nghiêm minh và thống nhất;
đảm bảo cho các cơ quan hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định;
làm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, có hiệu quả, không chồng chéo,
chống quan liêu, tham nhũng, hách dịch cửa quyền.Các cơ quan của Quốc hội
gồm: Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội.
2. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Chính phủ do Quốc hội thành lập
ra theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục
hoạt động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới. Thành viên Chính phủ hoạt động
dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội. Chính phủ cụ thể hóa Hiến pháp, luật của Quốc hội bằng các văn
bản dưới luật như nghị định, nghị quyết…Chính phủ có nhiệm vụ đảm bảo sự
thống nhất trong quản lý nhà nước, lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, kiểm
tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND.

3


Thủ tướng chính phủ do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội theo
đề cử của Chủ tịch nước, các thành viên khác do Thủ tướng Chính phủ giới

thiệu, Quốc hội phê chuẩn.
Phần 2: Mối quan hệ giữa quốc hội và chính phủ theo pháp luật hiện hành
1. Quốc hội thành lập ra Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và quy trình thành lập của
Chính phủ có sự chỉ đạo, phối hợp nhịp nhàng giữa Quốc hội và Chính phủ. Điều
3 Luật tổ chức Chính phủ 2001 quy định: “Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn
nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội
phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với
Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết
của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc
từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”.
Ngoài ra còn có quy định về tiêu chuẩn thành viên Chính phủ: thành viên
Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng), thành viên
Chính phủ không đồng thời là thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Việc quy
định như vậy là để đảm bảo cho các thành viên tập trung vào một công việc
chính theo nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm”. Các thành viên chính phủ tập trung
vào công việc chính của họ mà không kiêm nhiệm thêm bất cứ công việc của
ngành, tổ chức, cơ quan nào khác.
Hiến pháp 1992 quy định khá cụ thể về việc thành lập Chính phủ, có kế
thừa và chọn lọc quy định của các Hiến pháp Việt Nam trước. Đồng thời thay
đổi những quy định không phù hợp để Chính phủ hoạt động tốt hơn, đáp ứng yêu
cầu và tình hình mới của đất nước, thực hiện đúng quan điểm về tổ chức bộ máy
nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Điều này không đồng nghĩa với
việc hạ thấp vai trò, vị trí của Chính phủ, Hiến pháp vẫn quy định vị trí “cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất” trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.
2. Chính phủ - cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất.

4



Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất được hiểu như cơ
quan quản lý cao nhất theo ngành dọc trong cơ cấu bộ máy nhà nước CHXHCN
Việt Nam. Chính phủ thực hiện hoạt động thực thi pháp luật, quản lí điều hành
đất nước, thực hiện quyền hành pháp tối cao của Nhà nước. Hiến pháp và luật
của Quốc hội muốn thực thi phải được Chính phủ cụ thể hóa bằng các văn bản
dưới luật, Chính phủ đề ra biện pháp thích hợp, phân công, chỉ đạo thực hiện các
văn bản đó trên thực tế. Quy định này nhằm đề cao vị trí của Chính phủ trong bộ
máy nhà nước, tạo thế chủ động cho Chính phủ trong hoạt động quản lý. Việc
quản lý chặt chẽ hệ thống cơ quan hành chính của cả bộ máy nhà nước bao gồm
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan hành chính trực thuộc chính phủ, UBND các
cấp, cơ quan chuyên môn của UBND và cơ quan đại diện của các bộ tại địa
phương giúp việc thực thi Hiến pháp, pháp luật của Quốc hội đi vào cuộc sống
của dân một cách hiệu quả và nhanh chóng.
Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội về nhiệm
vụ của mình. Hiến pháp 1992 quy định rõ việc Chính phủ chịu sự giám sát của
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước nhưng chỉ chịu trách
nhiệm trước Quốc hội .
3. Nguyên tắc giám sát Chính phủ của Quốc hội.
Một chế định quan trọng của Hiến pháp các nước trên thế giới thể hiện
chức năng giám sát của Nghị viện đối với Chính phủ là việc bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các chức danh quan trọng của Chính phủ của chế độ đại nghị. Ở Việt
Nam, chế định này cũng được nói đến trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001)
và Luật tổ chức Quốc hội 2001. Chế định này nhằm ngăn ngừa những biểu hiện
xấu của những người đang cầm quyền, tức là bộ máy hành pháp của nhà nước.
Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001 quy định, trước khi quyết định việc bãi
miễn các chức danh Thủ tướng, Phó thủ trướng, Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm của
Quốc hội với các chức danh đó. Trong trường hợp người đảm nhiệm chức danh
nêu trên bị mất tín nhiệm, thì Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm (Điều 84).
Điều 88 Luật tổ chức Quốc hội 2001 quy định: Trong trường hợp không

đủ quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới
thiệu để bầu hoặc để nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội

5


xem xét , quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người không được
Quốc hội tín nhiệm. Ở đây chế định tín nhiệm được Hiến pháp và Luật tổ chức
Quốc hội tách thành tín nhiệm và mất tín nhiệm. Trong trường hợp mất tín
nhiệm mới được tổ chức bỏ phiếu bãi nhiệm nên có thể gây ra tình trạng mất tín
nhiệm mà Quốc hội vẫn không bãi nhiệm được. Thành viên của Chính phủ hoạt
động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ báo cáo công tác trước Quốc
hội. Thành viên của Chính phủ có thể bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm và
cách chức theo quy định pháp luật.
Mối quan hệ trách nhiệm, giám sát của Quốc hội và Chính phủ thể hiện rất
rõ qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với bộ trưởng và thành viên
Chính phủ - đây là hình thức thực hiện chức năng giám sát (Điều 49 Luật tổ chức
Quốc hội 2001). Gần đây, vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội cũng như việc
trả lời của các bộ trưởng có nhiều tiến bộ rõ rệt. Cụ thể, câu hỏi được nêu ra một
cách xác đáng, rõ ràng, cụ thể hơn. Về phía các vị bộ trưởng bước đầu đã nhận
thấy trách nhiệm của mình trong lĩnh vực mà họ phụ trách. Để chất vấn của đại
biểu ngày càng phát huy tác dụng thì vấn đề tiếp theo là các bộ trưởng cần sửa
đổi khuyết điểm đã được thừa nhận như thế nào. Hoạt động chất vấn có thể đi
đến chỗ quy kết trách nhiệm của các chủ thể có trách nhiệm. Hình thức giám sát
này của đại biểu có hiệu năng, tác dụng hơn các hình thức khác ở chỗ nó sẽ phát
huy được công luận, một khi phiên họp được truyền hình trực tiếp cho công
chúng. Trong trường hợp chất vấn không được trả lời một cách thỏa đáng, Quốc
hội có thể bỏ phiếu tín nhiệm bộ trưởng. Trường hợp khác, Quốc hội có thể giao
cho các ủy ban, Hội đồng hoặc thành lập các đoàn công tác lâm thời điều tra lại
vấn đề có liên quan đến chất vấn và trả lời chất vấn của những người có liên

quan đến chất vấn và trả lời chất vấn của những người có trách nhiệm và báo cáo
lại kết quả điều tra để Quốc hội xem xét tại kì họp tiếp theo. Theo nghĩa này thì
chất vấn sẽ được đẩy đến cùng, mà không có cơ sở cho việc buông trôi dẫn đến
trường hợp làm giảm hiệu quả của việc chất vấn. Như vậy, sẽ nâng cao trách
nhiệm của các bộ trưởng, thành viên Chính phủ lên mức cao hơn.
4. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong quy trình lập pháp.

6


Thứ nhất: là mối quan hệ giữa hai chủ thể trong cơ cấu quyền lực nhà
nước. Trong đó Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp,
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất.
Hoạt động của Chính phủ thực hiện trên cơ sở những VBQPPL do Quốc hội ban
hành. Tính lệ thuộc của Chính phủ là việc chấp hành các đạo luật, Nghị quyết do
Quốc hội ban hành, Chính phủ có toàn quyền để quản lý, chỉ đạo, điều hành các
hoạt động hành chính nhà nước. Trên thực tế vai trò của Chính phủ cũng đã thay
đổi từ quản lí thống nhất mọi lĩnh vực trong đời sống đến làm việc xây dựng thể
chế, tập trung hơn vào việc chuẩn bị và xây dựng chính sách ở tầm vĩ mô. Đây là
điểm nổi bật trong hoạt động của Chính phủ hiện nay so với trước đây. Từ đó,
điểm thành công nổi bật thể hiện vai trò Chính phủ là bằng hoạt động cụ thể của
mình góp phần đảm bảo tính thống nhất, liên tục của hệ thống hành chính và sự
phối hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan lập pháp và hành pháp để tạo thành cơ chế
tổng thể thực thi quyền lực và hiệu quả quản lí chung của Nhà nước.
Thứ hai: Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của tất cả các văn
bản luật, pháp lệnh mà đa số các văn bản đó đều do Chính phủ soạn thảo. Như
vậy, quyền lập pháp của Quốc hội được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án
luật, pháp lệnh của Chính phủ. Trong những năm gần đây, hoạt động của Chính
phủ đã tiến hành đều đặn mỗi tháng họp một lần. Chính phủ có kế hoạch làm
việc theo tháng, Thủ tướng và Phó thủ tướng có kế hoạch làm việc theo tuần. Về

mặt nội dung, Chính phủ tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng thể chế, thảo
luận và thông qua các dự án tại phiên họp của Chính phủ. Kết quả là Chính phủ
đã ban hành một lượng lớn các VBQPPL với chất lượng ngày càng cao.
Thứ ba: trong điều kiện chính trị nước ta hiện nay không có sự đối lập về
chính trị nên mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ nói chung và hoạt động
lập pháp nói riêng không có sự đối lập trong mục đích xây dựng và ban hành
VBQPPL. Luật do Quốc hội ban hành là thể chế hóa đường lối lãnh đạo của
Đảng, chính sách của Nhà nước. Chính phủ có vai trò đảm bảo, tôn trọng, chấp
hành Hiến pháp và pháp luật do Quốc hội ban hành vì thế nó chỉ có thể trở thành
hiện thực trong đời sống khi được Chính phủ tổ chức chỉ đạo trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước bằng hoạt động lập quy đồng thời tuyên

7


truyền, phổ biến chúng. Để làm tốt chức năng lập pháp của mình Quốc hội cần
có một sự phối hợp nhịp nhàng với Chính phủ. Giữa hai cơ quan này không
những phải có sự phối hợp mà còn phải có sự phân công rõ ràng giữa cơ quan có
quyền thông qua các dự án luật với cơ quan trình dự án luật.
Công đoạn của Chính phủ trong quá trình xây dựng dự án luật có thể
gồm: Nhận biết vấn đề, nghiên cứu phân tích và đề ra chính sách để xử lí vấn đề,
phê chuẩn chính sách và soạn thảo văn bản luật để thể chế hóa chính sách.
i) Trong giai đoạn soạn thảo dự thảo luật, theo quy định của luật hiện hành
UBTVQH thành lập ban soạn thảo và phân công chủ trì, trường hợp dự án luật,
pháp lệnh dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì Chính phủ giao cho một bộ
hoặc một cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo; có trách nhiệm thành lập ban soạn
thảo. Trong quá trình soạn thảo có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức chủ trì
soạn thảo; cơ quan được giao chủ trì soạn thảo đối với việc tổng kết thi hành
pháp luật, đánh giá các VBQPPL hiện hành có liên quan đến dự án luật, pháp
lệnh, dự thảo, nghị quyết. Pháp lệnh, dự thảo, nghị quyết trước khi trình Chính

phủ, văn phòng Chính phủ chuẩn bị những nội dung cơ bản, những vấn đề còn
có ý nghĩa khác nhau của dự án, dự thảo để báo cáo Chính phủ thảo luận.
ii) Trong giai đoạn thẩm tra dự án luật, pháp lệnh: dự án luật, pháp lệnh
phải được thẩm tra bởi Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Cơ quan
thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan soạn thảo báo cáo những vấn đề thuộc nội
dung dự án. Phạm vi thẩm tra bao gồm: sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh; sự
phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;
tính hợp hiến, hợp pháp của dự án, tính thống nhất của văn bản với hệ thống
pháp luật; việc tuân thủ thủ tục soạn thảo; tính khả thi của dự án.
iii) Trong quá trình chỉnh lí dự án luật, pháp lệnh: khi dự án đã hoàn
thiện và trải qua các giai đoạn bắt buộc do pháp luật quy định, được các chủ thể
liên quan đánh giá là chất lượng cao, thể hiện đầy đủ nội dung cần thiết không
còn các ý kiến khác nhau về nội dung hoặc ý kiến khác nhau về vấn đề không cơ
bản thì cơ quan soạn thảo sẽ trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp
lệnh trước UBTVQH. Các cơ quan này sẽ thảo luận thông qua dự án. Trong giai

8


đoạn này Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại 1 hoặc
2 kì họp Quốc hội theo trình tự quy định trong luật ban hành VBQPPL 2008.
Mặc dù quy trình lập pháp khá hoàn chỉnh nhưng vẫn tồn tại: quy trình
làm luật chậm; luật vừa ra đời đã không phù hợp với thực tế; một vài trường hợp
không phù hợp với hệ thống văn bản pháp luật đã có gây tranh cãi, đôi khi nhân
viên trong các cơ quan tư pháp cũng không biết thực hiện theo luật nào...
Một số giải pháp được đề ra như sau:
• Đổi mới quy trình lập, thẩm tra chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
• Tăng tính chủ động của Chính phủ trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh.
• Tăng cường mối quan hệ giữa HĐDT với các ủy ban của Quốc hội, HĐDT
với các ủy ban của Chính phủ trong giai đoạn thẩm tra dự án luật, pháp lệnh.

• Phân định rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân trong xây dựng luật, pháp lệnh.
• Nâng cao trách nhiệm đội ngũ cán bộ tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ
trong quy trình lập pháp.
• Nâng cao chất lượng thông tin phục vụ xây dựng luật của Quốc hội.
Phần 3: Vấn đề còn tồn tại trong mối quan hệ này và hướng giải quyết.
Một số lĩnh vực Chính phủ quản lí cần có sự giám sát chặt chẽ hơn của
Quốc hội và cần cụ thể hóa trong các văn bản QPPL, đặc biệt là Luật tổ chức
Chính phủ và Luật tổ chức Quốc hội, từ đó nâng cao trách nhiệm của thành viên
Chính phủ. Vấn đề xử lí vi phạm cũng cần đặc biệt quan tâm. Hiện nay có nhiều
phiên chất vấn của Quốc hội việc phàn nàn “quyền hạn bộ trưởng thì hữu hạn mà
trách nhiệm thì vô hạn” được thay bằng việc các quý bộ trưởng nhanh chóng
nhận lỗi về mình mặc dù có thể lỗi không do bộ trưởng gây ra. Vấn đề đặt ra là
hoạt động chất vấn của Quốc hội không được chỉ dừng lại ở việc nhận trách
nhiệm mà là giải quyết thế nào?
Như vậy còn nhiều bất cập cần khắc phục trong mối liên hệ, hoạt động của
hai cơ quan nhà nước này, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả của bộ máy nhà nước
trong thời kì hội nhập, phát triển. Những giải pháp được nhắc đến ở trên chỉ là ý
kiến cá nhân, muốn hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước cần
có sự phối hợp của chính các cơ quan đó và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.

9


KẾT THÚC

Hiến pháp 1992 cùng với một số văn bản quy phạm pháp luật khác (luật tổ
chức Quốc hội 2001, luật tổ chức Chính phủ 2001) đã chỉ ra mối quan hệ giữa
hai cơ quan quan trọng trong bộ máy nhà nước Việt Nam, mối quan hệ này có
ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các cơ quan nhà nước khác. Vì vậy, cần tăng
cường hơn nữa hiệu quả hoạt động của chúng trong cơ cấu bộ máy nhà nước.

Nghiên cứu về những quy định về mối quan hệ này có ý nghĩa vô cùng quan
trọng nhằm rút ra kinh nghiệm và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan
trong tổ chức bộ máy nhà nước.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, NXB.
CAND, Hà Nội, 2009.
2/ Văn phòng quốc hội, Hiến pháp 1946 – Sự kế thừa và phát triển qua các hiến
pháp việt nam, nxb CTQG.
3/Đổi mới và hoàn hiện quy trình lập pháp của Quốc hội, NXB CTQG, 2006.
4/ Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội, Nxb Tư pháp 2006.
5/ Quốc hội Việt Nam- 60 năm hình thành và phát triển, nxb CTQG 2006.
6/ Trang web :
www.chinhphu.vn
www.dangcongsan.vn
www.wikipedia.org/wiki/ Đại_biểu_quốc_hội_Việt_Nam
www.Vietbao.vn
www.Danluat.thuvienphapluat.vn

11


12




×