Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Những vấn đề lý luận chung về nguồn điều ước quốc tế điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.99 KB, 23 trang )

A – LỜI MỞ ĐẦU
Điều ước quốc tế bên cạnh pháp luật quốc gia và tập quán thương mại
quốc tế là loại nguồn luật chủ yếu điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế.
Bài làm dưới đây đi tìm hiểu về nội dung của hai điều ước quốc tế quan trọng
điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế là Công ước của Liên Hợp Quốc về
hợp đồng mua bán quốc tế ngày 11 tháng 4 năm 1980 (sau đây gọi tắt là Công
ước Viên năm 1980) và Quy định Rome của Nghị viện và Hội đồng liên minh
châu Âu ngày 17 tháng 6 năm 2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp
đồng (sau đây gọi tắt là Quy định Rome I).
B – NỘI DUNG
I, Những vấn đề lý luận chung về nguồn điều ước quốc tế điều chỉnh hợp
đồng thương mại quốc tế.
Điều ước quốc tế được coi là nguồn điều chỉnh hợp đồng thương mại
quốc tế khi chúng điều chỉnh các vấn đề liên quan trực tiếp đến hợp đồng
thương mại như các nguyên tắc chọn luật áp dụng, quyền và nghĩa vụ của các
bên, các trường hợp miễn trách nhiệm, bồi thường thiệt hại trong hợp đồng,...
Thông thường, các điều ước quốc tế này là sự thống nhất pháp luật về hợp
đồng của các quốc gia thành viên nhưng không điều chỉnh về hiệu lực của
hợp đồng.
Điều ước quốc tế bao gồm điều ước quốc tế song phương và điều ước
quốc tế đa phương. Công ước Viên năm 1980 và Quy định Rome I đều là các
điều ước quốc tế đa phương. Căn cứ vào tính chất điều chỉnh thì, Công ước
Viên năm 1980 là loại điều ước quốc tế quy định một cách cụ thể quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, còn Quy
định Rome I lại là loại điều ước quốc tế thống nhất những nguyên tắc chung
về chọn luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng mà không quy định cụ thể về
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế.

23



Về việc áp dụng các quy phạm trong điều ước quốc tế, do các điều ước
quốc tế là sự thỏa thuận giữa các quốc gia nên chúng có giá trị bắt buộc áp
dụng đối với các nước thành viên trên nguyên tắc tự nguyện (Pacta sunt
servanda). Trong lĩnh vực hợp đồng thương mại quốc tế, các điều ước quốc tế
được áp dụng trên cơ sở sau đây:
 Nếu các bên chủ thể hợp đồng có trụ sở kinh doanh hoặc nơi thường trú
ở các quốc gia là thành viên của điều ước quốc tế;
 Trong trường hợp có sự quy định khác giữa điều ước quốc tế và pháp
luật quốc gia nước thành viên thì quy định của điều ước được ưu tiên
áp dụng;
 Trong trường hợp các bên chủ thể của hợp đồng không có trụ sở kinh
doanh hoặc nơi thường trú ở các quốc gia là thành viên điều ước thì
điều ước đó vẫn có thể áp dụng nếu theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì
luật được áp dụng điều chỉnh hợp đồng là luật của nước thành viên điều
ước đó hoặc trường hợp các bên thỏa thuận áp dụng các điều khoản của
điều ước quốc tế.
II, Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế ngày 11
tháng 4 năm 1980 và Quy định Rome I của Nghị viện và Hội đồng liên
minh châu Âu ngày 17 tháng 6 năm 2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ
hợp đồng.
1 - Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế:
a, Khái quát
Công ước Viên năm 1980 là công ước Quốc tế được kí ngày 14/4/1980
tại Viên (Áo) và có hiệu lực từ ngày 1/1/1988. Nội dung của công ước quy
định các vấn đề pháp lý cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế. Hiện
nay công ước Viên là một trong những công ước Quốc tế về thương mại được

23



phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất, với 75 thành viên và ước tính CISG điều
chỉnh khoảng 80% giao dịch thương mại Quốc tế1.
Nguồn gốc ra đời của Công ước Viên đó là: khi mà hợp đồng thương
mại quốc tế với vị trí là trung tâm của giao dịch thương mại. Do đó hoàn toàn
tự nhiên mà các quy tắc của luật liên kết việc mua bán đã được tập trung chú
ý. Trước đó thì những năm 1800 và 1900 thì các thương nhân đã có tất cả
những mục đích hướng tới thực tiễn dựa trên những gì mà họ đã kế tục để
đồng ý một cách tuyệt đối trên đó và hoàn thiện sự khác biệt về hợp đồng của
họ với những tập quán Quốc tế và những quy định thường được gọi là luật
của thương nhân hoặc lex mercatoria.Tuy nhiên thì không có giải pháp chắc
chắn và thích đáng cho các loại vi phạm và những kẽ hở của hợp đồng. Do
đó, với mong muốn pháp điển hóa hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa QT trên Châu âu lục địa và ở Anh trước năm 1893. Và cũng như
vậy ở Sandinavian các hoạt động mua bán hàng hóa trở thành lực lượng qua
trọng vào đầu những năm 1900 ( tương ứng từng nước 1905, 1906 và 1907
hoạt động mua bán hàng hóa ở Thụy Điển, Đan Mạch, Na uy). Vào thời kì
các cuộc chiến tranh lớn thì công ước quốc tế được kí kết dẫn dắt đến hai
công ước, Luật thống nhất dựa trên mua bán hàng hóa QT và Luật thống nhất
dựa trên việc kí kết các hợp đồng cho mua bán hàng hóa QT ( ULIS và
ULFIS)2. Tuy nhiên thì những công ước này chỉ góp thành công một phần và
những nỗ lực để nhận được sự chấp thuận rộng rãi hơn bởi cộng đồng thương
mại QT được phục hồi lại sau chiến tranh thế giới thứ 2, và dẫn đến sự ra đời
công ước Viên năm 1980 ( CISG). Chính vì lý do ra đời như vậy mà có thể
nói rằng công ước Viên được đưa ra nhằm mục đích giảm thiểu những xung
đột trong các giao dịch thương mại quốc tế nhờ đưa ra một khung pháp lý
1

Việt Nam tham gia công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế (CISG) – Lợi ích và hạn

chế:


/>
dong-mua-ban-hang-hoa-quoc-te.
2

Bản dịch do nhóm 1 – QT33A dịch – international contracts of sale, international commercial law

23


thống nhất, có thể áp dung tại mọi quốc gia không phân biệt trình độ phát
triển kinh tế.
b, Nội dung Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Quốc tế:
 Phạm vi áp dụng:
Tại Điều 1 Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Quốc tế quy định như sau:
"1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên
có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
a, Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc,
b, Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của
nước thành viên Công ước này..."
Với quy định tại khoản 1 Điều 1 của Công ước Viên 1980 thì việc áp dụng
công ước được xác định trong hai trường hợp: căn cứ vào trụ sở thương mại
của chủ thể có quan hệ với nước là thành viên của Công ước Viên 1980; căn
cứ vào việc liên quan tới nguyên tắc chọn luật áp dụng của tư pháp Quốc tế.
 Trường hợp thứ nhất: Căn cứ vào trụ sở thương mại của chủ thể có
quan hệ với nước là thành viên của Công ước Viên 1980.
Ở trường hợp thứ nhất này được hiểu đó là khi trụ sở thương mại của các
bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế đặt ở quốc gia thành

viên của Công ước, thì khi đó công ước được áp dụng. Tuy nhiên, trên thực tế
thì không đơn thuần chủ thể trong quan hệ thương mại Quốc tế không chỉ có
một trụ sở kinh doanh mà còn có thể có nhiều trụ sở kinh doanh ở nhiều quốc
gia khác nhau hoặc còn có trường hợp không có trụ sở kinh doanh nào. Vậy
câu hỏi đặt ra đối với trường hợp này đó là: Có phải chỉ cần một trong các trụ
sở kinh doanh của một trong các bên chủ thể trong thương mại QT có trụ sở
tại quốc gia thành viên thì miễn nhiên trường hợp phức tạp trên được giải
quyết?. Ở trường hợp này, tại Điều 10 Công ước Viên 1980 quy định như sau:

23


"Điều 10. Nhằm phục vụ công ước này:
a, Nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại trở lên thì trụ sở thương mại
của họ sẽ được coi là trụ sở nào đó có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp
đồng và đối với việc thực hiện hợp đồng đó, có tính tới những tình huống mà
các bên đều biết hoặc đều dự đoán được vào bất kì lúc nào trước hoặc vào
thời điểm hợp đồng.
b, Nếu một bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên
của họ."
Như vậy với quy định tại Điểm a Điều 10 Công ước Viên thì trường hợp
nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại trở lên thì trụ sở được xác định
trong mối quan hệ sẽ là trụ sở mà có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng
được đặt tại quốc gia thành viên của Công ước. Còn với Điểm b Điều 10
Công ước Viên thì trường hợp một bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy
nơi cư trú thường xuyên của họ, và ở trường hợp tại điểm b Điều 10 với
khoản 1 Điều 1 Công ước thì nếu một bên không có trụ sở thương mại thì nơi
cư trú thường xuyên của họ là quốc gia thành viên của công ước thì công ước
được áp dụng.
Vậy trường hợp nảy sinh từ trường hợp trên đó là: trường hợp nếu một bên

không có trụ sở thương mại mà việc xác định nơi cư trú thường xuyên của họ
không là thành viên của công ước thì có trường hợp nào để công ước được áp
dụng ở trường hợp nảy sinh trên hay không?
 Trường hợp thứ hai: Căn cứ vào việc liên quan tới nguyên tắc chọn
luật áp dụng của tư pháp Quốc tế.
Đối với trường hợp trên trên cơ sở lý luận cũng như thực tế thì trong trường
hợp này vẫn có thể áp dụng công ước Viên. Công ước viên có thể áp dụng
trong hai trường hợp cụ thể sau3:

3

TS. Nông Quốc Bình, Phạm vi áp dụng và không áp dụng của công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa Quốc tế, tạp chí luật học số 10/2010 ( trang 4)

23


+ Trường hợp thứ nhất: khi các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng
thỏa thuận áp dụng Công ước Viên 1980. Việc thỏa thuận chọn công ước viên
coi như các bên đã chuyển điều khoản của công ước thành điều khoản của
hợp đồng mà các bên sẵn sàng ràng buộc.
+ Trường hợp thứ hai: khi một bên là chủ thể trong hợp đồng có mối
quan hệ với một nước là thành viên của Công ước. Trong trường hợp này nếu
cả hai bên đều thỏa thuận áp dụng công ước Viên thì đương nhiên công ước
sẽ được áp dụng. Nhưng nếu các bên không thỏa thuận công ước Viên thì khả
năng áp dụng công ước vẫn có thể xảy ra, vì tại điểm b khoản 1 Điều 1 "Khi
theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành
viên Công ước này".
Với quy định điểm b khoản 1 Điều 1Công ước viên 1980 " Khi theo các quy
tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên công

ước này."
Vậy với quy định như vậy, có thể hiểu tinh thần của điều luật như sau:
việc áp dụng công ước hay không phụ thuộc hoàn toàn vào quy tắc của tư
pháp Quốc tế. Bởi quy phạm được sử dụng để giải quyết ở đây là quy phạm
xung đột chứ không phải quy phạm thực chất, bởi quy phạm xung đột là quy
phạm xác định luật nước nào điều chỉnh. Theo đó thì quy phạm xung đột sẽ
được sử dụng để xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa các
bên. Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật nào thì hệ
thống pháp luật đó sẽ được áp dụng. Với quy định tại điểm b khoản 1 Công
ước thì khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật của quốc gia
thành viên Công ước viên 1980 thì toàn bộ quy định của công ước này sẽ
được áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể4.
Trong phạm vi áp dụng công ước Viên 1980 thì trường hợp sự kiện các
bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự
4

TS. Nông Quốc Bình, Phạm vi áp dụng và không áp dụng của công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa Quốc tế, tạp chí luật học số 10/2010 ( trang 5)

23


kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc
thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là tự việc trao đổi thông tin giữa các
bên, và trường hợp quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại
của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi
xác định phạm vi áp dụng Công ước ( khoản 2 và 3 Điều 1 Công ước Viên
1980).
 Nhận xét:
Có thể thấy rằng, qua việc phân tích phạm vi áp dụng công ước Viên 1980, đã

thấy được các điều khoản tạo ra hành lang pháp lý rộng cho việc áp dụng
công ước Viên 1980 và cũng có điều khoản thu hẹp hành lang pháp lý cho
việc áp dụng công ước Viên như Điều 6 Công ước Viên " Các bên có thể
loại bỏ việc áp dụng Công ước này hoặc với điều kiện tuân thủ điều 12, có
thể làm trái với bất cứ điều khoản nào của Công ước hay sửa đổi hiệu lực
của điều khoản đó".
 Phạm vi không áp dụng của Công ước Viên 1980:
Trường hợp phạm vi không áp dụng của công ước Viên được quy định tại
điều 2 như sau:
" Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
a, Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi
người bán hàng, vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm
ký kết hợp đồng, không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được
mua để sử dụng như thế.
b, Bán đấu giá.
c, Để thi hành luật hoặc văn kiện ủy thác theo luật.
d, Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc
tiền têh.
e, Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí.
f, Điện năng."

23


Và Điều 5 của Công ước quy định như sau:
" Công ước này không áp dụng cho trách nhiệm của người bán trong trường
hợp làm hàng của người bán gây thiệt hại về thân thể hoặc làm chết người
nào đó."
Xét từng trường hợp:
Trước tiên, việc xác định các trường hợp không áp dụng công ước Viên

1980 dựa vào một số dấu hiệu cơ bản trong giao dịch mua bán hàng hóa như:
mục đích của việc mua bán hàng hóa, hình thức của việc mua bán hàng hóa,
bản chất của việc mua bán hàng hóa, bản chất của hàng hóa là đối tượng mua
bán, hậu quả khôg mong muốn do việc mua bán hàng hóa gây ra5...
Thứ nhất, tại điểm a Điều 2 Công ước Viên quy định " Các hàng hóa
dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ" là hàng hóa thuộc phạm vi không
điều chỉnh của công ước viên. Ở đây, nhóm chúng tôi đưa ra giải thích cho
việc các hàng hóa dùng cho mục đích cá nhân, gia đình hoặc nội trợ lại thuộc
phạm vi không điều chỉnh của Công ước Viên bởi công ước viên 1980 về hợp
đồng mua bán hàng hóa điều chỉnh các quan hệ phát sinh áp dụng cho các hợp
đồng mua bán hàng hóa mà thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước Viên. Mà
mua bán hàng hóa quốc tế phải là hành vi mua bán hàng hóa xuất phát từ mục
đích kinh doanh, sinh lời. Mà việc mua bán hàng hóa dùng cho cá nhân, gia
đình hoặc nội trợ là giao dịch mua bán không sinh lời, giao dịch mua bán cho
mục đích tiêu dùng. Do đó, có thể lập luận giải thích lý do của phạm vi không
điều chỉnh tại điểm a khoản 1 Công ước Viên.
Thứ hai, tại điểm b Điều 2 Công ước Viên " bán đấu giá" không thuộc
phạm vi áp dụng của Công ước Viên. Bán đấu giá là hình thức được quy định
những quy tắc và thủ tục nhất định. Việc quy định bán đấu giá không thuộc
phạm vi áp dụng của Công ước Viên trong số các dấu hiệu giao dịch mua bán
hàng hóa thì trường hợp này thuộc trường hợp hình thức mua bán hàng hóa.
5

TS. Nông Quốc Bình, Phạm vi áp dụng và không áp dụng của công ước Viên 1980 về hợp đồng
mua bán hàng hóa Quốc tế, tạp chí luật học số 10/2010 ( trang 5)

23


Vậy với hình thức mua bán hàng hóa thông qua đấu giá là hình thức theo quy

định không thuộc phạm vị áp dụng của công ước Viên 1980.
Thứ ba, việc mua bán " để thi hành luật hoặc văn kiện ủy thác theo
luật", bản chất của việc mua bán này mang tính chất quyền lực, tính chất công
mà mang tính chất quyền lực và tính chất công " ủy thác" theo luật thì không
mang tính chất sinh lời, và đặc biệt là mang tính chất quyền lực Nhà nước. Do
đó, việc mua bán
" đề thi hành luật hoặc văn kiện ủy thác theo luật" là đúng và hợp lý.
Thứ tư, " Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí" và " điện
năng", đặc tính của loại hàng hóa này có tính chất đặc biệt. Do đó mà công
ước Viên sẽ không điều chỉnh việc mua bán hàng hóa đặc biệt này.
Thứ năm, trường hợp tại Điều 5 của Công ước Viên 1980 " Công ước
này không áp dụng cho người bán trong trường hợp hàng của người bán gây
thiệt hại về thân thể hoặc làm chết một người nào đó", với quy định tại Điều
5 Công ước Viên 1980 thì không chỉ xác định tính chất của giao dịch thương
mại để xác định phạm vi không áp dụng công ước mà ở điều 5 còn là hậu quả
không mong muốn do việc mua bán hàng hóa gây ra.
Ví dụ: việc mua bán hàng hóa tác động đến quyền sở hữu, quyền nhân
thân, gây thiệt hại mà nguyên nhân chính từ việc mua bán hàng hóa ảnh
hưởng đến sức khỏe hoặc tính mạng một người nào đó chứ không phải chỉ
giới hạn ở người cùng giao dịch.
c, Ý nghĩa:
Thứ nhất, CISG trở thành nguồn luật trong nước của rất nhiều quốc gia.
Thứ hai, CISG được đánh giá là góp phần cho các nguyên tắc UNIDROIT
hay các nguyên tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu ( PECL). Trên cơ sở nền
tảng của CISG, Các nguyên tắc này đã trở thành một nguồn luật quốc tế quan
trọng, được nhiều quốc gia và doanh nhân sử dụng trong thương mại giao
dịch quốc tế.

23



Thứ ba, CISG cũng được khuyến khích áp dụng cho các giao dịch không
thuộc khuôn khổ CISG như một Lex Mercatoria. Nhiều doanh nhân các nước
đã tự nguyện áp dụng áp dụng CISG cho các giao dịch thương mại quốc tế
của mình mặc dù các giao dịch này không thuộc phạm vi áp dụng của Công
ước.
2- Quy định Rome I.
a,Khái quát chung:
Quy định Rome I là văn bản thay thế Công ước Rome 1980 của Cộng
đồng châu Âu (EC) về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng. Quy định
Rome I chính thức được áp dụng từ ngày 17 tháng 12 năm 2009 (trừ Điều 6
được áp dụng từ ngày 17 tháng 6 năm 2009). Quy tắc Rome I được một số
học giả trên thế giới đánh giá là một bước tiến trong lĩnh vực chọn luật áp
dụng cho hợp đồng của tư pháp quốc tế.
Quy định Rome I bao gồm 4 Chương với 29 Điều nêu lên những
nguyên tắc chung về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng.
b, Nội dung:
 Phạm vi áp dụng.

Quy định Rome I được áp dụng trong các trường hợp liên quan đến xung
đột pháp luật đối với nghĩa vụ hợp đồng về các vấn đề dân sự và thương mại,
trừ các vấn đề về thuế, hải quan và hành chính.6
-Quy định Rome I cũng liệt kê một loạt các lĩnh vực không thuộc phạm vi
điều chỉnh của nó như sau:
o Vấn đề liên quan đến năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá

nhân;
o Nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hôn nhân gia đình, bao gồm cả quan hệ

cấp dưỡng;

o Nghĩa vụ phát sinh từ chế độ tài sản vợ chồng; di chúc và thừa kế;

6

Paragraph 1 Article 1 Rome I.

23


o Nghĩa vụ phát sinh từ việc thanh toán bằng hối phiếu, séc, giấy hẹn trả
nợ, hay các hình thức khác…
o Thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận về việc chọn tòa án;

o Quy chế pháp lý thành lập, đăng kí, mua bán, sáp nhập công ty;
o Vấn đề về mối quan hệ giữa công ty, đại lý của nó với bên thứ ba;
o Thiết lập sự ủy thác và mối quan hệ giữa người chuyển nhượng gia tài,
người được ủy thác trông nom và người được hưởng gia tài. 7
 Nguyên tắc chọn luật áp dụng.


Tôn trọng sự tự do ý chí của các chủ thể hợp đồng.
Nguyên tắc tự do hợp đồng là nguyên tắc căn bản khi các bên thiết lập

hợp đồng. Tôn trọng nguyên tắc này, Quy định Rome I quy định ngay từ đầu:
hợp đồng được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn. 8
Đây là nguyên tắc quan trọng và thống nhất với pháp luật quốc tế về
hợp đồng.


Luật được chọn không bắt buộc chỉ phải là luật của các nước thành

viên Liên minh châu Âu.
Quy định Rome I đề cập đến vấn đề này tại Điều 2 với tiêu đề bao trùm

là “áp dụng phổ biến” (universal application) như sau: “Bất cứ luật được chỉ
định bởi Quy định này sẽ được áp dụng cho dù đó có phải là luật của nước
thành viên hay không”.9 Như vậy, luật được lựa chọn không giới hạn chỉ là
luật của nước thành viên Liên minh châu Âu.
Đây cũng là một quy định theo tinh thần tôn trọng nguyên tắc tự do ý
chí của các bên chủ thể hợp đồng, mặt khác đây cũng là một quy định rất linh
hoạt tạo điều kiện cho các giao kết hợp đồng, bởi vì các hợp đồng được giao
kết không chỉ trong phạm vi liên minh châu Âu.


Chọn luật cho toàn bộ hoặc cho từng phần của hợp đồng.

7

Paragraph 2 Article 1 Rome I.
Paragraph 1 Article 3 Rome I.
9
Article 2 Rome I.
8

23


Rome I quy định: “Bằng thỏa thuận của mình, các bên có thể chọn luật
áp dụng cho toàn bộ hoặc chỉ một phần của hợp đồng”. 10
Khi cho phép các bên lựa chọn luật áp dụng cho một phần của hợp
đồng có thể xảy ra trường hợp các phần hợp đồng khác nhau được các bên lựa

chọn áp dụng nhiều hệ thống luật khác nhau. Ngay cả khi chọn luật áp dụng
cho toàn bộ hợp đồng, vẫn có trường hợp các bên lựa chọn nhiều luật áp dụng
cho hợp đồng của họ để phòng ngừa những tình huống mà một hệ thống
không quy định hết. Bởi ngay cả những hệ thống pháp luật được cho là lớn
trên thế giới cũng có những khe hở hoặc những quy định không rõ ràng.
Có thể thấy, đây là một quy định rất đúng đắn và linh hoạt, phù hợp với
thực tiễn mà không phải hệ thống pháp luật quốc gia nào cũng cho phép như
vậy.


Thời điểm chọn luật áp dụng và thay đổi luật được lựa chọn.
Điều 3 của Quy định Rome I ghi nhận: “Tại bất kỳ thời điểm nào, các

bên có thể thỏa thuận chọn một luật khác với luật đã điều chỉnh hợp đồng
trước đây. Mọi sự thay đổi về luật áp dụng sau thời điểm hợp đồng được ký
kết không được làm ảnh hưởng đến tính hợp pháp về hình thức của hợp đồng
hoặc ảnh hưởng bất lợi đến quyền của bên thứ ba”. 11
Đây là quy định cũng vẫn theo tinh thần của nguyên tắc tự do hợp
đồng. Tuy nhiên, cần chú ý việc thay đổi có thể được chấp nhận nhưng phải
có điều kiện ràng buộc là không được ảnh hưởng đến tính hợp pháp về hình
thức hợp đồng và quyền lợi của bên thứ ba.
 Yêu cầu về sự thể hiện của điều khoản chọn luật cho hợp đồng.

Quy định Rome I yêu cầu: “Sự lựa chọn của các bên phải được thể
hiện rõ ràng bằng các điều khoản của hợp đồng hoặc bằng những trường
hợp cụ thể”.12 Quy định này biểu hiện một sự ưu tiên cho tính chắc chắn, hạn

10

Paragraph 2 Article 3 Rome I.

Paragraph 2 Article 3 Rome I.
12
Paragraph 1 Article 3 Rome I.
11

23


chế sự tự do của Tòa án trong việc quyết định rằng các bên đã ngầm chọn luật
áp dụng cho hợp đồng của mình hay chưa.
 Hạn chế đối với sự tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng.

Không phải lúc nào các bên chọn luật áp dụng cho hợp đồng thì luật đó
đương nhiên được áp dụng. Có những hạn chế nhất định đối với quyền này.
 Quy định Rome I có quy định hạn chế chọn luật đối với hợp đồng nội
địa.
Rome I quy định rằng khi mà tất cả các yếu tố khác của hợp đồng tại
thời điểm chọn luật nằm ở một quốc gia khác quốc gia có luật được lựa chọn,
thì sự lựa chọn của các bên không thể làm mất tác dụng của những điều khoản
bắt buộc của luật quốc gia khác đó. Nói cách khác, trong hợp đồng nội địa chỉ
có thỏa thuận chọn luật nước ngoài thuận đó không thể có tác dụng loại trừ
những quy định bắt buộc của luật nước có mối liên hệ mật thiết nhất với các
bên trong mối quan hệ pháp lý giữa họ. Như vậy, đối với một hợp đồng nội
địa, các bên không bị cấm thỏa thuận luật nước ngoài áp dụng nhưng sự thỏa
thuận đó không có hiệu lực hoàn toàn. Nó bị hạn chế bởi các quy định bắt
buộc của nước có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng. 13


Thỏa thuận chọn tập quán quốc tế để điều chỉnh hợp đồng.
Giống như Công ước Rome 1980 trước đó, Quy định Rome I không


cho phép các bên ký kết hợp đồng chọn những nguồn luật không phải là luật
của một quốc gia. Vì vậy, tập quán quốc tế (lex mercatoria) như những
nguyên tắc châu Âu về hợp đồng (PECL) hay Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp
đồng thương mại quốc tế không thể được chọn làm luật áp dụng cho hợp
đồng. Tuy nhiên, Recite 13 Quy định Rome I không loại trừ khả năng các bên
vận dụng những tập quán và những điều ước quốc tế vào những điều khoản
của hợp đồng. Việc không cho phép trên đã bị chỉ trích là không theo kịp với
thực tiễn thương mại quốc tế, mâu thuẫn với nguyên tắc tự do thỏa thuận của
các bên trong hợp đồng và không phù hợp với luật trọng tài của nhiều nước.
13

Paragraph 4 Article 4; Paragraph 3 Article 5; Paragraph 4 Article 7 Rome I.

23




Hạn chế quyền chọn luật áp dụng đối với một số hợp đồng nhất định.
Theo Quy định Rome I, khả năng lựa chọn luật áp dụng cho bốn loại

hợp sau bị hạn chế bằng nhiều cách khác nhau. Đó là hợp đồng tiêu dùng, hợp
đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng lao động nhằm bảo vệ lợi
ích của bên yếu hơn (người tiêu dùng, người được bảo hiểm, người lao động)
trong quan hệ hợp đồng. 14
 Hạn chế sự áp dụng của luật được lựa chọn bởi các bên.

Quy định Rome I có hai điều khoản hạn chế áp dụng luật được lựa
chọn là Điều 9 về “quy phạm bắt buộc ưu tiên” (overriding mandatory

provisions) và Điều 21 về “chính sách công của tòa án” (public policy of the
forum). Điều 9 đưa ra định nghĩa về quy phạm bắt buộc ưu tiên là những quy
phạm then chốt của một quốc gia để đảm bảo lợi ích công như là các tổ chức
chính trị, xã hội, kinh tế. Bên cạnh đó, còn có một sự thay đổi của Điều 9 so
với Điều 7 Công ước Rome tương ứng là việc đề cập áp dụng những quy
phạm bắt buộc của “nước thứ ba”- nước nơi thực hiện hợp đồng (cách hiểu
thông thường, phổ biến là quy phạm bắt buộc của quốc gia tòa án).
Còn chính sách công quy định ở Điều 21 Quy định Rome I thường
được các nước châu Âu áp dụng với tiêu chuẩn quốc tế, tức là chính sách
công quốc tế. Theo điều khoản này, việc áp dụng những quy phạm của luật
xác định theo Quy định Rome I sẽ bị từ chối nếu việc áp dụng đó biểu hiện
mâu thuẫn với chính sách công của nước có tòa án giải quyết vụ việc.
c, Ý nghĩa:
Thứ nhất, với các bên tham gia giao kết hợp đồng thì những quy định về chọn
lựa luật áp dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ các quyền lợi chính
đáng của họ vì họ thường lựa chọn hệ thống pháp luật gần gũi và họ hiểu rõ
nhất về sự lựa chọn đó. Đối với các cơ quan tài phán thì luật áp dụng đối với
hợp đồng còn là cơ sở pháp lý để xem xét giá trị pháp lý của hợp đồng và giải
quyết tranh chấp.
14

Paragraph 2 Article 6; Article 7; Paragraph 1,2,3 Article 8 Rome I.

23


Thứ hai, sự ra đời của công ước này còn nhằm đảm bảo sự ổn định, tính thống
nhắt cho việc thực hiện các hợp đồng quốc tế, tránh sự thiếu hiểu biết lẫn
nhau gây bất đồng tranh chấp. Đặc biệt có thể coi đây là một hành lang pháp
lý an toàn, đảm bảo được khả năng dự liệu trước được mọi tình huống có thể

phát sinh trong tương lai, tránh rủi ro, thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra.
III, Việt Nam với Công ước Viên 1980 và Quy định Rome I.
1. Việt Nam với Công ước Viên 1980:
Công ước Viên năm 1980 của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế (CISG) là một trong các công ước quốc tế về thương mại được
phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất, điều chỉnh các giao dịch chiếm đến 2/3
thương mại hàng hóa thế giới. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa gia nhập Công
ước Viên. Vậy hướng gia nhập Công ước này của Việt Nam như thế nào? Để
trả lời câu hỏi này, trước tiên cần phải xem xét tính lợi, hại của việc gia nhập
Công ước này.
a, Những lợi ích khi gia nhập Công ước.
a1. Lợi ích đối với hệ thống pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, việc gia nhập CISG sẽ giúp thống nhất pháp luật về mua bán
hàng hóa quốc tế của Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, khi
Việt Nam gia nhập CISG, sẽ giảm bớt xung đột pháp luật trong lĩnh vực mua
bán hàng hóa quốc tế, tạo khung pháp luật thống nhất, hiện đại trong lĩnh vực
mua bán hàng hóa, một lĩnh vực vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong thương
mại quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, việc gia nhập CISG sẽ đánh dấu một mốc mới trong quá trình
tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng cường mức
độ hội nhập của Việt Nam. Mặt khác, các quốc gia ASEAN, tại Diễn đàn
Pháp luật ASEAN lần III đã khuyến nghị các quốc gia gia nhập Công ước
Viên 1980 nhằm hài hòa hóa pháp luật về mua bán hàng hóa trong khuôn khổ
ASEAN. Việc Việt Nam và các thành viên ASEAN khác gia nhập CISG sẽ
giúp hài hòa hóa pháp luật về mua bán hàng hóa trong khuôn khổ ASEAN.
23


Thứ ba, việc gia nhập CISG giúp hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng
hóa quốc tế nói riêng và pháp luật về mua bán hàng hóa nói chung của Việt

Nam. Khi Việt Nam gia nhập CISG thì các điều khoản của Công ước này sẽ
trở thành các quy phạm của pháp luật Việt Nam áp dụng cho các giao dịch
mua bán hàng hóa quốc tế có liên quan.
Thứ tư, gia nhập CISG cũng sẽ là điều kiện để việc giải quyết tranh chấp,
nếu có, từ các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thuận lợi hơn. Với phạm
vi áp dụng rộng của CISG, các chủ thể có thể không cần xem xét, nghiên cứu
nguồn luật nước nào khác CISG. Việc giải thích và áp dụng CISG dễ dàng
hơn việc viện dẫn một hệ thống luật quốc gia.
a2. Lợi ích đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập CISG, các doanh nghiệp Việt Nam có
thể giảm bớt chi phí và thời gian đàm phán lựa chọn luật áp dụng; giảm bớt
khó khăn và chi phí phát sinh chọn luật nước ngoài; tránh được việc phải sử
dụng đến quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế để xác định luật áp dụng
cho hợp đồng.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có được một khung pháp lý hiện đại,
công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có
căn cứ hợp lý để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh. CISG đã đưa ra những
giải pháp nhằm giải quyết hầu hết mọi vấn đề pháp lý có thể phát sinh trong
quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nên nếu các
bên làm hợp đồng trên một cơ sở luật chung thì sẽ dễ dàng cho thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng.
Thứ ba, việc áp dụng Công ước Viên 1980 sẽ giúp doanh nghiệp Việt
Nam tránh được những tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế nhất là
khi Việt Nam đang trên con đường hội nhập nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh
các hoạt động thương mại quốc tế, trong đó chủ yếu là thương mại hàng hóa.
b, Tồn tại một số điểm bất cập.

23



Thứ nhất, các quy định của CISG không bao trùm mọi vấn đề pháp lý có
liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì vậy, các bên ký kết hợp
đồng vẫn đồng thời phải quan tâm đến các nguồn luật khác. Điều này nếu
không làm rõ có thể dẫn doanh nghiệp, người làm luật lơ là trong việc tìm
hiểu và áp dụng các văn bản pháp luật khác, có thể bị động khi xảy ra tranh
chấp ngay cả khi đã có CISG.
Ngoài ra, trong giao dịch buôn bán quốc tế, có những điều khoản hợp
đồng chuẩn cho mua bán một số loại hàng hóa như dầu, gạo, hoa quả tươi, cà
phê… và thường, các bên không muốn từ bỏ những điều khoản đã được sử
dụng rộng rãi và quen thuộc này. Do đó cho dù Việt Nam có gia nhập CISG
thì rất có thể CISG vẫn sẽ không điều chỉnh những hợp đồng mua bán quốc tế
loại này.
Thứ hai, CISG chưa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề pháp lý mới
phát sinh trong thương mại quốc tế. Vì vậy các doanh nghiệp vẫn cần những
hệ thống pháp luật khác để xử lý các vấn đề mới dù đã chọn CISG cho hợp
đồng của mình.
Thứ ba, dù thành công ở hầu hết các nước thành viên, ở một vài nước
khác, CISG không thành công như mong đợi. Điển hình nhất là tại Hoa Kỳ.
Lưu ý về trường hợp của Hoa Kỳ sẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh
nghiệp ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với đối tác Hoa Kỳ, đặc biệt khi
tranh chấp được xét xử tại Hoa Kỳ.
Thứ tư, vẫn còn một số nước khác chưa gia nhập Công ước này, đáng kể
nhất là Vương quốc Anh và các nước khu vực ASEAN. Vì vậy CISG sẽ
không phát huy hiệu quả trong những trường hợp hợp đồng mua bán được ký
kết giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp đối tác thuộc nước chưa
gia nhập CISG.
Thứ năm, CISG còn khá mới mẻ với Việt Nam. Vì vậy các doanh
nghiệp, tòa án, trọng tài ở Việt Nam cần có nhiều thời gian hơn để nghiên

23



cứu, hiểu rõ khi áp dụng CISG trong các quan hệ giao dịch thương mại quốc
tế.
Ngoài ra, Công ước 1980 hiện được lưu hành theo 6 thứ tiếng (không
phải tiếng Việt), và điều này có thể gây khó khăn khi áp dụng Công ước (đặc
biệt khi chúng ta hiểu không đúng hoặc không đủ ý nghĩa hàm chứa trong các
quy định cụ thể).
Mặc dù có tồn tại một vài điểm bất cập, nhưng xét về lâu dài, việc gia
nhập CISG đối với Việt Nam sẽ lợi nhiều hơn, những bất cập đó có thể được
khắc phục. Bởi vậy Việt Nam cần sớm gia nhập công ước này.
c, Một số kiến nghị cho việc gia nhập Công ước Viên 1980.
Chính phủ cần nghiên cứu và có kế hoạch thực hiện các thủ tục cần thiết
để Việt Nam có thể gia nhập Công ước Viên trong thời gian sớm nhất. Khi
gia nhập Công ước Viên, cần chú ý một số vấn đề mà Công ước cho phép các
quốc gia thành viên bảo lưu như Điều 96, Điều 12 liên quan đến hình thức
của hợp đồng, theo đó, các quốc gia mà pháp luật đòi hỏi các hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản có thể bảo lưu không áp
dụng nguyên tắc tự do về hình thức.
Hiện tại, khi chưa gia nhập, các Tòa án, trọng tài khi xem xét các tranh
chấp có liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể dẫn chiếu
đến các điều khoản của Công ước này, còn các doanh nghiệp Việt Nam cần
nghiên cứu và hiểu được những lợi ích mà Công ước đem lại cho mình, có thể
lựa chọn Công ước này là luật áp dụng cho hợp đồng.
Ngoài ra, cũng cần phải chú ý đến các trường hợp CISG được áp dụng
tại các quốc gia chưa phải là thành viên theo quy định tại điều 1.1.b. CISG,
các tranh chấp về mua bán hàng hoá quốc tế giữa doanh nghiệp Việt Nam và
các đối tác nước ngoài có thể sẽ được giải quyết bằng CISG bởi các tòa án
hay trọng tài Việt Nam và quốc tế.
2. Việt Nam với Quy định Rome I.


23


Việt Nam không thể tham gia vào Quy định Rome I nhưng có thể học
hỏi từ quy định này một số điểm để hoàn thiện pháp luật nước nhà về hợp
đồng thương mại quốc tế.
So với Quy định Rome I thì pháp luật Việt Nam có một số hạn chế:
Một là, Điều 3 Quy định Rome I khẳng định :“ hợp đồng sẽ được điều
chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn”. Điều 769 BLDSVN 2005 quy định:“
Quyền và nghiã vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo luật nơi
thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy so với sự ghi
nhận trực tiếp của Quy định Rome I thì luật Việt Nam dùng cụm từ “nếu
không có thỏa thuận khác” không rõ ràng bằng. Điều này dẫn tới hệ quả là
có một số khía cạnh của quyền tự do chọn luật áp dụng cho hợp đồng được tư
pháp quốc tế thế giới, trong đó có Rome I đề cập thì pháp luật Việt Nam lại
chưa quy định hoặc quy định chưa rõ ràng.
Hai là, Quy định Rome I cho phép các bên lựa chọn luật áp dụng cho chỉ
một phần hoặc toàn bộ hợp đồng. Điều 3 của Quy định này khẳng định “
Bằng thỏa thuận của mình, các bên có thể chọn luật áp dụng cho toàn bộ
hoặc chỉ một phần của hợp đồng”. Pháp luật Việt Nam trong phạm vi Điều
769 BLDSVN không quy định rõ vấn đề này.
Ba là, Khoản 2 Điều 3 của Quy định Rome I ghi nhận: “Tại bất kỳ thời
điểm nào, các bên có thể thỏa thuận chọn một luật khác với luật đã điều
chỉnh hợp đồng trước đây. Mọi sự thay đổi về luật áp dụng sau thời điểm hợp
đồng được ký kết không được làm ảnh hưởng đến tính hợp pháp về hình thức
của hợp đồng hoặc ảnh hưởng bất lợi đến quyền của bên thứ ba”.
Pháp luật Việt Nam không quy định rõ vấn đề này.
Bốn là, sự thể hiện của thỏa thuận chọn luật: Quy định Rome I yêu cầu
sự lựa chọn phải được biểu thị rõ ràng (clearly demonstrated), hạn chế sự tự

do của Tòa án trong việc quyết định rằng các bên đã ngầm chọn luật áp dụng
cho hợp đồng của mình hay chưa. Rome I chấp nhận cả thỏa thuận chọn luật

23


nói rõ lẫn ngầm định. Điều 769 BLDSVN không đề cập đến sự thể hiện của
thỏa thuận chọn luật. Thiết nghĩ đây là vấn đề cần được lưu ý điều chỉnh.
Đối với thỏa thuận chọn luật ngầm định, vấn đề gây tranh cãi là thỏa
thuận cơ quan tài phán có thể xem là thỏa thuận chọn luật ngầm định không?
Rome I không coi một thỏa thuận chọn tài phán dẫn đến một thỏa thuận chọn
luật ngầm định. Tuy nhiên, ở Recital 12, Quy định Rome I có ghi nhận rằng:
“một trong những yếu tố xem xét có hay không một thỏa thuận chọn luật là
thỏa thuận của các bên trao cho một hay nhiều Tòa án hay trọng tài của một
nước thành viên độc quyền xét xử tranh chấp phát sinh từ hợp đồng của họ”.
Việt Nam chưa quy định rõ ràng về việc có thể xem xét thỏa thuận chọn
tòa án hay trọng tài Việt Nam xét xử như thỏa thuận ngầm giữa các bên về
việc chọn luật Việt Nam áp dụng cho hợp đồng hay không.
Từ những hạn chế này, pháp luật Việt Nam nên có những quy định rõ
ràng, cụ thể và hợp lý hơn về hợp đồng thương mại quốc tế để hoàn thiện.

C – KẾT LUẬN:
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế và đồng thời cũng
đứng trước nhiều khó khăn thử thách trong quá trình phát triển. Bởi thế, trong
thời gian qua, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế vẫn
không ngừng được xây dựng, học hỏi và hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu
đặt ra của quá trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên có thể nhận thấy, hệ thống pháp
luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế của Việt Nam còn chưa đầy đủ và
chưa phù hợp với các chuẩn mực quốc tế mà điển hình trong đó là lĩnh vực
pháp luật về hợp đồng. Với những cố gắng không ngừng để học hỏi và hoàn

thiện hệ thống pháp luật kể trên, hy vọng trong thời gian tới đây, sẽ có những
bước biến chuyển mới trong quy định của nhà nước, nhằm tạo điều kiện cho
quá trình hội nhập, thúc đẩy quan hệ quốc tế trên mọi lĩnh vực, thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế của đất nước.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, NXB.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, NXB. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2008.
3. Bùi Thị Thu (Chủ biên) Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB. Giáo dục,
2010.
4. Nông Quốc Bình, Phạm vi áp dụng và không áp dụng của công ước
Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Luật học số
10/2011, tr 3-9.
5. Bùi Thị Thu, Một số vấn đề về chọn luật áp dụng trong hợp đồng
thương mại quốc tế theo Công ước Rôm năm 1980 về luật áp dụng đối
với nghĩa vụ hợp đồng, Tạp chí NN&PL số 11/2005, tr.70-75.
6. Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế ngày 11

tháng 4 năm 1980;
7. Quy định Rome của Nghị viện và Hội đồng liên minh châu Âu ngày 17

tháng 6 năm 2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng;
8. />9. Nguyễn Thị Hồng Trinh, " Nguyên tắc tự do chọn luật hợp đồng công
ước Rome, quy tắc Rome I và nhìn về Việt Nam", Khoa luật Đại học
Huế.

10.Nguyễn Thị Minh Hằng, Việt Nam và việc gia nhập Công ước Viên, tạp
chí Nghiên cứu lập pháp số 105 tháng 9/2007.
11.Nhóm cộng tác viên VCCI, Việt Nam tham gia công ước Viên 1980 về
hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế CISG – Lợi ích và hạn chế, ngày
11/4/2010.
12.Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Khoa kinh tế, PGS.TS.
Nguyễn Văn Luyện , Giáo trình luật hợp đồng thương mại Quốc tế,
NXB đại học quốc gia thành phố HCM.
23


MỤC LỤC
I, Những vấn đề lý luận chung về nguồn điều ước quốc tế điều chỉnh hợp đồng

1

thương mại quốc tế...................................................................................................

II, Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế ngày 11 tháng 4

2

năm 1980 và Quy định Rome I của Nghị viện và Hội đồng liên minh châu Âu
ngày 17 tháng 6 năm 2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp
đồng.............................................................................................................................

1,Công ước Viên năm 1980......................................................................................

2


2,Quy định Rome I..................................................................................................

10

III, Việt Nam với Công ước Viên 1980 và Quy định Rome I...............................

15

1, Việt Nam với Công ước Viên 1980..................................................................

15

2, Việt Nam với Quy định Rome I.......................................................................

20

23


23



×