Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Những nội dung cơ bản của pháp luật về dịch vụ logistic ở ViệtNam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.49 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Dịch vụ logistics là dịch vụ xuất phát từ dịch vụ giao nhận hàng hóa , hay nói cách khác
dịch vụ logististics là bước phát triển cao của dịch vụ giao nhận hàng hóa. Dịch vụ này
được bắt đầu ghi nhận tại Luật thương mại năm 1997 và được ghi nhận chính thức, hoàn
thiện tại Luật thương mại 2005. Dịch vụ logistics đã ngàycàng phát triển trong nền kinh
tế thị trường và đem lại cho các thương nhân kinh doanh dịch vụ này những khoản lợi
không hề nhỏ bởi đây là một loại ngành nghề còn mới đối với các thương nhân Việt
Nam.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistic. Nhưng các doanh nghiệp lại chưa có cái nhìn
tổng quát về dịch vụ logistics. Nên muốn có được cái nhìn rõ hơn về dịch vụ logistic tại
Việt nam cũng như các vấn đề pháp lý liên quan đến kinh doanh loại hình dịch vụ này em
xin chọn đề tài: “Những nội dung cơ bản của pháp luật về dịch vụ logistic ở Việt
Nam” để làm đề tài viết bài tập cuối kỳ.
Bài viết của em rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý của các thầy cô. Em xin
trân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
I) KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DỊCH VỤ LOGISTIC.
1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ logistic
1.1 Khái niệm
Thuật ngữ logistics vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau và chưa thống nhất về
thuật ngữ này. Có nhiều quan điểm và cách định nghĩa khác nhau được xây dựng tương
ứng với mỗi ngành nghề và mục đích nghiên cứu nhưng tựu chung chia làm hai loại sau:
Nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa logistics trong các lĩn vực chuyên
ngành. Theo trường phái này logistics là yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm
từ nơi sản xuất tới nơi tiê thụ, dịch vụ logistics mang yếu tố vận tải là chính. Đồng nghĩa
dịch vụ logistics với việc vận chuyển hàng hóa.
Nhóm định nghĩa rộng, theo nhóm này thì dịch vụ logistics gắn liền với cả quá
trình nhập nguyên vật liệu đầu vào cho quá trình sản xuất,sản xuất ra hàng hóa và đưa


vào kênh lưu thông hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này đã
phân biệt được nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như: vận tải, giao nhận, phân phối, hỗ
trợ sản xuất…với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp. Người sẽ sẽ đảm
nhận toàn bộ quá trình hình thành và đưa đến tay người tiêu dùng.
+) Ở Việt Nam: Điều 233, Luật TM năm 2005 định nghĩa dịch vụ logistic như sau:
“Dịch vụ Logistic là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một
hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải
quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao
hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để
hưởng thù lao”. Cho đến này thì thuật ngữ “logistic” vẫn chưa được dịch sang tiếng Việt
một cách cụ thể. Thuật ngữ này vẫn được dùng như một mượn vì nội hàm của nó rất lớn,
bao gồm nhiều loại hình dich vụ mà tất cả các cách dịch đều chưa thỏa đáng, chưa phản

2


ánh đầy đủ và chính xác được. Chính vì vậy nên việc dịch sang tiếng Việt để có thể có
được một khái niêm chính xác nhất là điều tương đối khó
1.2. Đặc điểm Logistic
Tuy logistic có thể chưa thống nhất nhưng những đặc trưng chủ yếu của ngành
nghề kinh doanh này thì không thể phủ nhận. Logistic có các đặc điểm cơ bản sau:
- Chủ thể của quan hệ dich vụ gồm hai bên: nhà cung cấp dịch vụ logistic và khách hàng,
trong đó nhà cung cấp dich vụ phải là thương nhân. Khách hàng là người có hàng hóa cần
gửi hoặc cần nhận. Khách hàng có thể là người vân chuyển hoặc thậm chí có thể là người
làm dịch vụ giao nhận dịc vụ logistic khác.
- Nội dung của dịch vụ logistic rất đa dạng, bao gồm các công việc như:
+) Nhận hàng từ người gửi để tổ chức việc vận chuyển: đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu;
chuyển hàng từ kho của người gửi tời cảng, bến tàu, bến xe và địa điểm khách theo yêu
cầu.
+) Giao hàng hóa cho người vận chuyển; xếp hàng hóa lên phương tiện vận chuyển theo

qui định; nhận hàng hóa được vận chuyển đến.
+) Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng hóa hoặc thực hiện việc giao hàng
hóa được vận chuyển đến người có quyền nhận hàng.
- Dich vụ logistic là một loại hình hoạt động dịch vụ. Thương nhân kinh doanh dịch vụ
giao nhận hàng hóa được khách hang trả tiền công và các chi phí hợp lý từ việc cung ứng
dịch vụ. Trong kinh doanh Logistic thì ui tín luôn được khách hàng quan tâm hàng đầu.
- Đây là một loại dịch vụ mang tính liên hoàn, chuỗi ác dịch vụ gắn kết tương đối chặt
chẽ với nhau. Đặc điểm này cũng đã được đề cập đến trong phần phân tích định nghĩa ở
phần trên.
2. Vai trò của dich vụ logistic
Cần phải thấy rằng trong xu thế phát triển của nền kinh tế nước ta thì dich vụ
logistic ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong thương mại trong nước và nước
ngoài. Cụ thể:
3


a) Logistic đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết các bài toán đầu vào và đầu ra của
các doanh nghiệp.
Logistic có thế thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu
chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa dịch vụ…các chi phí thừa trong quá trình quản lí được
giảm thiểu vì “chuỗi dịch vụ logistic” đã được cung ứng trọn gói, chi phí sản xuất giảm,
giá thành hạ và tất nhiên sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
b) Dịch vụ logistic có tác dụng tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động lưu thông phân
phối.
Chi phí lưu thông hàng hóa, chủ yếu là chi phí vận tải chiếm một tỉ lệ không nhỏ
và là bộ phận cấu thành giá cả trên thị trường. Vân tải là yếu tố quan trọng trong lưu
thông. Vân tại đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống logistic cho nên dịc vụ logistic
ngày càng hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết kiệm cho chi phi vận tải và các chi phí khác phát
sinh trong quá trình lưu thông
c) Dịch vụ Logistic góp phần tăng giá trị kinh doanh của doanh nghiệp vận tải giao nhận

Dịch vụ logistic là hoạt động có qui mô rộng và phức tạp hơn so với nhiều hoạt
động vận tải giao nhận thuần túy, các dịch vụ được cung ứng toàn diện hơn có tác dụng
thúc đấy sự gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận.
d) Logistic phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế
Sản xuất có mục đích là phục vụ tiêu dùng. Vì thế trong nền kinh doanh, vấn đề thị
trường luôn là vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh doanh quan tâm.
Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị trường cho sản phẩm của
mình thì cần phải có sự hỗ trợ của dịch vụ logistic. Dịch vụ logistic có vai trò như một
chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hóa trên các tuyến đường mới đến các thị
trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Dịch vụ logistic phát triển đống
vai trò rất lớn trong việc mở rộng thị trường kinh doanh.
Như vậy qua những phân tích trên ta có thể thấy được, dịch vụ logistic ngày càng
đóng một vai trò quan trọng trong việc xúc tiến cũng như đẩy manh hoạt động kinh
4


doanh, giúp cho nền kinh tế trong nước có thể sớm tiếp cận với nền kinh tế các nước trên
thế giới.

II) NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ
LOGISTICS.
1. Qui định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistic
a) Điều kiện chung
Thương nhân, doanh nghiệp kinh doanh dich vụ logistic cũng giống như thương
nhân, doanh nghiệp đăng kí kinh doanh các dịch vụ khác đều phải tuân theo các qui định
tại Chương II Luật Doanh nghiệp 2005 về “thành lập doanh nghiệp và đăng kí kinh
doanh”
Điều 13 LDN 2005 qui định những thay đối tượng được thành lập doanh nghiệp
(khoản 1); không được thành lập doanh nghiệp (khoản 2), các tổ chức cá nhân có quyền
mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp

danh (khoản 3, 4)
Điều 14 qui định về hợp đồng đăng kí trước khi kinh doanh
Điều 15 quy định trình tự đăng kí kinh doanh.
Mỗi một loại hình doanh nghiệp khác nhau có qui định khác nhau điều chỉnh. Nếu
thương nhân chọn loại hình doanh nghiệp tư nhân sẽ nộp hồ sơ gồm những nội dung theo
quy định tại điều 17 LDN 2005 mô hình công ty trách nhiêm hữu hạn tuân theo qui định
tại Điều 18 LDN 2005, công ty cổ phần nộp hồ sơ đăng kí kinh doanh theo Điều 19 LDN
2005.
Nếu thương nhân là nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam sẽ
nộp hồ sơ, tuân theo trình tự thủ tục, điều kiện và nội dung đăng kí kinh doanh quy định
tại Điều 20 LDN 2005.

5


Những quy định cụ thể khác về nội dung giấy tờ đề nghị đăng kí kinh doanh Điều
21 LDN 2005), nội dung và điều lệ công ty ( Điều 22 LDN 2005), điều kiện cấp Gấy
chứng nhận đăng kí kinh doanh (Điều 24 LDn 2005), cung cấp thông tin về nội dung
đăng kí kinh doanh ( Điều 27 LDN 2005), chuyển quyền sở hữu tài sản (Điều 29 LDN
2005), ngoài ra còn nhiều các qui định khác.
b) Những qui định đặc thù
Ngoài những điều kiện kiện kể trên thì, thương nhân kinh doanh dich vụ logistic
còn phải tuân theo các qui định đặc thù cho ngành nghề kinh doanh này khi đăng kí kinh
doanh.
+) Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic là doanh nghiệp có đủ điều kiện kinh
doanh dịch vụ logistic theo qui định của pháp luật
+) Chỉnh Phủ qui định chi tiết điều kiện kinh doanh dịch vụ logistic
Từ những điều kiện chung đó, Nghị định số 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi
tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistic và giới hạn trách nhiệm
với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic đã hướng dẫn cụ thể.

*) Đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic trong nước điều kiện là:
Là doanh nghiệp có đăng kí kinh doanh hợp phapstheo pháp luật Việt Nam( Khoản 1
Điều 5, Khoản 1 Điều 6, Khoản 1 Điều 7)
Có đủ phương tiện kĩ thuật đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, có đỗi ngũ nhân viên đáp ứng
nhu cầu nếu như đăng kí kinh doanh theo dịch vụ logistics chủ yếu theo qui định tại
Khoản 1 Điều 4 Nghị định này.
Tuân thủ điều kiện kinh doanh vận tại theo pháp luật Việt Nam nếu đang kí doanh liên
quan đến vận tải theo Khoản 2 Điều 4 Nghị định này.
*) Đối với thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics điều kiện là:
Ngoài việc đáp tất cả các điều kiện của thương nhân trong nước thì thương nhân nước
ngoài còn phải đáp ứng các điều kiện khác là về vốn góp được qui định tại Khoản 3 Điều
5, Khoản 3 Điều 6 Nghị định này.
6


2. Qui định về các hợp đồng liên quan đến kinh doanh dịch vụ logistic.
2.1) Khái niệm, đặc điểm kinh doanh dịch vụ logistic.
Cũng như các dich vụ khác, dịch vụ logistic được thực hiện trên cơ sở hợp đồng.
Hợp đồng dich vụ logistic là sự thỏa thuận, theo đó một bên làm dịch vụ có nghĩa vụ thực
hiện hoặc tổ chức thực hiện một hoặc một số dịch vụ liên quan đến quá trình lưu thông
hàng hóa, còn bên kia có nhiệm vụ thang toán thù lao và dịch vụ. Như vậy, khái niệm
hợp đồng dịch vụ logistic được hiểu là hợp đồng cung cấp hoặc một số dịch vụ trong
chuỗi dịch vụ logistic.
Với tính chất của một hợp đồng dịch vụ, hợp đồng dịch vụ logistic là hợp đồng
song vụ, hợp đòng ưng thuận và mang tính chất đền bù. Chủ thể của hợp đồng bắt buộc
một bên (bên làm dich vụ) phải có tư cách thương nhân, bên còn lại có thể là thương
nhân, hoặc tổ chức hay cá nhân không có tư cách thương nhân. Đối tượng của hợp đồng
là dich vụ gắn liền với hợp đồng mua bán, vận chuyển hang hóa: như tổ chức việc vận
chuyển, làm các thủ tục giấy tờ cần thiết để vận chuyển hàng hóa, nhận hàng từ người
vận chuyển để giao cho người có quyền nhân hàng…

Theo khái niệm qui định tại Điều 233 LTM 2005, dich vụ logistic là hoạt động
thương mại. Vì vậy, hợp đồng dich vụ logistic cũng sẽ tuân theo các quy định chung về
hợp đồng dịch vụ được qui định tại Chương III “cung ứng dịch vụ” của LTM 2005.
Điều 74 LTM 2005 “Hình thức hợp đồng dich vụ” qui định: “ Hợp đồng dịch vụ
được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc xác lập bằng hành vi cụ thể” và “ Đối với
các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải
tuân theo các qui định đó”. Như vậy, hợp đồng dich vụ logistic không bắt buộc phải được
kí kết dưới hình thúc văn bản. Hình thúc của hợp đồng phụ thuộc vào thỏa thuận cảu các
bên và nhưng qui định cụ thể.
Cũng trên cơ sở nhưng qui định của Luật Thương mại 2005, thì hợp đồng cung
ứng dịch vụ logistic còn phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau đây:

7


+) Nguyên tắc tự do thỏa thuận: Tự do thỏa thuẩn ở đây là tự do thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Các bên có quyền thảo thuận về rất nhiều
nội dung của hợp đồng như trách nhiệm đối với hàng hóa, thời hạn, giá cả thực hiện hợp
đồng… Các bên cũng được quyền thỏa thuận lựa chọn hình thức, luật và nơi giải quyết
tranh chấp.
+) Áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế: LTM 2005 qui
định rõ nếu các bên tham gia hợp đồng dịch vụ có yếu tố nước ngoài thì được thỏa thuận
áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế không trái với nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam (Điều 5).
2.2)Nội dung và các loại hợp đồng dich vụ logistic
a) Nội dung hợp của đồng dich vụ logistic
Nội dung của hợp đồng dịch vụ logistic chính là nguyên nhân lí giải vì sao trong thương
mại không có một hợp đồng chung là hợp đồng dịch vụ logistic.
+) Luật thương mại không có điều khoản nào qui định thế nào là hợp đồng dịch vụ
logistic, dịch vụ logistic gồm những nội dung gì. Sở dĩ như vậy là do hợp đồng dịch vụ

logistic không phải là một hợp đồng đơn lẻ mà là một chuỗi các dịc vụ như: là thủ tục
giấy tờ, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi và phân phối hàng hóa đi đến các địa điểm
khác nhau và tùy theo yêu cầu của khách hàng. Vậy nên hợp đồng dịch vụ logistic thường
không theo một mẫu thống nhất mà phụ thuộc vào loại dịch vụ mà thương nhân cung cấp
dịch vụ logistic thực hiện
Hơn nữa, ngược trở lại với định nghĩa của dịch vụ logistic được qui định tại Điều
233 LTM 2005: “ Dịch vụ logistic là hoạt động thương mại theo đó thương nhân tổ chức
thực hiện một hoặc nhiều công việc…” Theo cách hiểu này, định nghĩa dịch vụ logistic
không nhất thiết bắt buộc thương nhân thực hiện một hoạt động đơn lẻ trong chuỗi hoạt
động được đề cập trong định nghĩa này.

8


+) Như vậy, hợp đồng này có nội dung rất “mờ”, các bên có thể thỏa mái lựa chọn các
dịch vụ để kí những nội dung cụ thể. Liệu qui định này có gì mâu thuẫn với một đặc
trưng của dịch vụ logistic là “tính liên hoàn, chuỗi dich vụ” hay không ?
Trước khi xây dựng Nghị định số 140/2007/NĐ-CP, đã có nhiều ý kiến đóng góp
xây dựng pháp luật về dịch vụ gogistic, trong đó có ý kiến cho rằng : “ cụm từ một hoặc
nhiều công việc” nếu cho rằng một doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh bất kì một
trong nhiều công việc trên thì đều được xem là kinh doanh dịch vụ logistic dẫn đến hệ
quả là khi một doanh nghiệp muốn kinh doanh bất kì một dịch vụ nào như vận chuyển,
lưu kho, là thuế thủ tục hải quan … thì họ cũng đều cho họ là kinh daonh dịch vụ logistic
và buộc họ phải đáp ứng các qui định của pháp luật về ngành nghề kinh doanh này.
Để làm rõ nội dung này cần phải xem xét đến bản chất của dịch vụ logistic và mục
đích của thương nhân trong kinh doanh dich vụ logistic. Như đã phân tích ở phần trên, thì
mục đích của dịch vụ logisitic là đem đến cho khách hàng sự tối ưu hóa về vị trí và thời
gian, vận chuyển và lưu chữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu của dây chuyền cung ứng cho
đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic phải
nhằm mục đích ấy, nghĩa là muốn được thực hiện một chuỗi các dịch vụ liên hoàn chứ

không thực hiện một hoạt động riêng lẻ. Họ phải đăng kí kinh doanh dịch vụ này trước,
rồi mới theo nhu cầu của khách hàng kinh doanh một hoặc nhiều dịch vụ trong chuỗi dich
vụ. Kinh doanh dịch vụ logistic thì không yêu cầu thương nhân phải thực hiện tất cả các
khâu của quá trình này. Điều này khác hẳn với một doanh nghiệp không đăng kí kinh
doanh dich vụ logistic tiến hành một trong các công việc đơn lẻ như: lưu kho, vận
chuyển…Vì trên thực tế tư cách của các doanh nghiệp này vẫn là kinh doanh các dịch vụ
thông thường, đơn lẻ. Bởi vậy khi chúng ta thấy các công việc của dịch vụ logistic và các
dịch vụ thông thương không khác nhau nhưng xét về bản chất thì lại khác nhau vì tư cách
thương nhân là khác nhau. Và vì thế không phải cứ thương nhân thực hiện một trong các
hoạt động của dịch vụ logistic thì đều phải đăng kí kinh doanh dịch vụ logistic.

9


Câu trả lời là không có gì mâu thuẫn hoặc không hợp lí trong các qui định tại Điều
233 LTM với các đặc trưng của dịch vụ logistic.
b) Các loại hợp đồng dịch vụ logistic và các qui định của pháp luật có liên quan.
- Hợp đồng chọn gói thực hiện các dịch vụ logistic (trên cơ sở một hợp đồng)
- Hợp đồng thực hiện theo đơn đặt hàng một số dich vụ trong chuỗi dịch vụ logistic
theo kiểu logistic chuyền thống, tức là thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa, hợp
đồng giao nhận vận tải và các vấn đề khác liên quan đến vận chuyển đa phương quốc tế.
Hợp đồng logistic được thực hiện dự trên thỏa thuận giữa các bên về thực hiện các
dịch vụ có thể là trọn gói hoặc một số loại dịch vụ riêng lẻ. Ở loại hợp đồng trọng gói chủ
hàng yêu cầu công tuy thực hiện các dịch vụ: vận tải, giao hàng, lưu kho và gửi hàng, bốc
xếp… Ở loại hợp đồng thực hiện một số dịch vụ logistic, chủ hàng thường xuyên yêu cầu
về vận chuyển và giao nhận hàng.
Đối với hợp đồng từng chặng một số chặng có các loại hợp đồng như hợp đồng
vận tải đơn thức, hợp đồng vận tải đa phương thức, hợp đồng giao nhận hàng hóa và các
loại khác.
- Các loại hợp đồng này được điều trỉnh bởi các qui định ở Luật quốc gia và các văn bản

có liên quan:
+) Luật thương mại 2005: qui định cụ thể ở Chương III - “cung ứng dich vụ”; Mục 4
“dịch vụ logistic” của Chương VI : : “Một số hoạt động thương mại cụ thể khác”,
+) Bộ luật Hàng hải 2005, được qui định cụ thể tại Chương V: “ Hợp đồng vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển”,
+) Luật hàng không dân dụng 2006, được qui định cụ thể tại Chương VI “ Vận cuyển
hàng không”,
+) Luật giao thông nội địa 2004
+) Nghị định số 125/2003/NĐ-CP ngày 2-10-2003 của Chính phủ về vận tải đa phương
thức quốc tế.
- Liên quan đến các hợp đồng này còn có các điều ước quốc tế:
10


+) Vân tải đườn biển: Qui tắc Hague Rules 1924, Hague/Visby Rules 1968, Hamburg
Rules 1978,
+) Vận tải bằng ô tô: Công ước quốc tế về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường bộ.
Ngoài ra còn các công ước quốc tế khác về vận tải. Có thể rễ ràng thấy rằng các văn bản
qui định cụ thể về hợp đồng dịch vụ logistic không nằm tập chung ở một văn bản nào mà
nó nằm giải rác ớ nhiều văn bản khác nhau.
3. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong quan hệ dịch vụ logistic
3.1. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic
a) Thực hiện các công việc theo đúng thỏa thuận với khách hàng
Đây là nghĩa vụ cơ bản nhất của người làm dịch vụ logistic. Người làm dịch vụ
phải thực hiện các công việc liên quan đến hàng hóa như đóng gói, kí mã hiệu hoặc nhận
hàng theo đúng những điều kiện đã thỏa thuận với khách hàng. Các điều kiện nà được ghi
nhận trong hợp đồng kí giữa người làm dịch vụ với khách hàng hoặc được khách hàng
hướng dẫn cụ thể trên cơ sở các qui định chung của hợp đồng.
Người làm dich vụ được từ chối thực hiện những hướng dẫn không phù hợp với

các điều kiện của hợp đồng dịch vụ logistic đã kí kết với khách hàng hoặc những hướng
dẫn trái pháp luật. Nếu việc thực hiện đúng với các chỉ dẫn của khách hàng có nguy cơ
gây thiệt hại hoặc toàn bộ những chỉ dẫn của khách hàng thì người làm dịch vụ phải kịp
thời thông báo cho khách hàng để xin chỉ dẫn. Trong trường hợp cấp bách thì người làm
dịch vụ có thể tự mình quyết định thực hiện công việc sau đó phải thông báo ngay cho
khách hàng biết. Trong trường hợp không thông báo kịp thì người thực hiện dịch vụ phải
chụi trách nhiệm tài sản phát sinh do không thực hiên đúng chỉ dẫn của khách hàng.
(Điểm b,c Khoản 1, Điều 235 LTM 2005)
b) Quyền được hưởng thù lao và chi phí về việc thực hiện dịch vụ
+) Theo điển a, Khoản 1, Điều 235 LTM 2005, mức thù lao dịch vụ do các bên
thỏa thuận và ghi trong hợp đồng. Mức thù lao này có thể được xác định theo số tiền
11


tuyệt đối hoặc tỉ lệ trên giá trị hàng hóa. Mức thù lao do có bên thỏa thuận và phụ thuộc
vào nội dung, mức độ phức tạp của công việc giao nhận hàng hóa mà khách hàng ủy thác
cho người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa thực hiện.
Ngoài tiền thù lao, người làm dịch vụ logistic có thể yêu cầu khách hàng thanh
toán các khoản chi phí liên quan đến việc thực hiện dịch vụ nếu điều này được các bên
thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán thù lao và các khoản chi phí hợp lí khác, người
làm dịch vụ logistic có quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa.
Theo qui đinh tại Điều 239 LTM 2005 thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa
có quyền cầm giữ số hàng hóa nhất định và các chứng từ liên quan đến hàng hóa để đòi
tiền nợ đã đến hạn của khách hàng. Tuy nhiên quyền cầm giữ chi phí phát sinh khi có
những điều kiện sau:
Thứ nhất: Khách hàng không thanh toán nợ dã đến hạn cho người làm dich vụ.
Thứ hai: Người làm dịch vụ chỉ được cầm cố giữ số lượng hàng hóa có giá trị
tương đương với giá trị nợ mà khách hàng chưa thanh toán nợ.
Thứ ba : Người làm dịc vụ phải thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng về

việc cầm giữ hàng hóa.
Quyền định đoạt hàng hóa cầm giữ của người làm dịch vụ logistic chỉ phát sinh nếu sau
45 ngày, kể từ ngày cầm giữu hàng hóa mà khách hàng vẫn không thanh toán nợ cho
người làm dịch vụ nhận hàng hóa. Đối với hàng hóa có dấu hiệu hư hỏng thì quyền định
đoạt hàng hóa phát sinh ngay khi có bất kì khoản nợ nào của khách hàng. Việc định đoạt
hàng hóa cầm cố cũng phải theo các qui định cụ thể của pháp luật. Người làm dịch vụ
logistic phải thông bảo cụ thể bằng văn bản cho khách hàng biết về việc định đoạt tài sản
để thanh toán nợ.
+) Song song với việc trao quyền, Điều 140 LTM 205 cũng qui định cụ thể nghĩa
vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic khi cần, giữ hàng hóa:
Thứ nhất : phải bảo quả giữ gìn hàng hóa
12


Thứ hai : Không được sử dụng hàng hóa nếu không được bên có hàng bị cầm giữ đồng ý.
Thứ ba : Trả lại hàng hóa khi các điều kiện cầm giữ, định đoạt hàng hóa qui định tại Điều
239 LTM 2005 không còn.
Thứ tư : Bồi thường thiệt hại cho bên có hàng hóa bị cầm giữ khi bị hư hỏng, mất mát.
3.2. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng ( Điều 85, Điều 236 LTM 2005).
Với tính chất là một hợp đồng song vụ: quyền của bên này sẽ tương ứng với trách nhiệm
của bên kia khi sử dụng dịch vụ logistic. Nếu không có thỏa thuận khác, khách hàng được
hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ sau:
+) Quyền lựa chọn người làm dịch vụ logistic theo nhu cầu và năng lực của người
làm dịch vụ.
+) Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng dịch vụ logistic.
+) Nghĩa vụ thông tin đầy đủ, chi tiết và chính xác về hàng hóa cho người làm dịch
vụ.
+) Cung cấp đầy đủ rõ ràng các chỉ dẫn của người làm dịch vụ
+) Thanh toán tiền công và chi phí hợp lí khác liên quan đến việc giao nhận hàng
hóa theo thảo thuận trong hợp đồng giao nhận hàng hóa đã được kí kết giữa các bên

Như vậy, pháp luật đã qui định khung cơ bản nhất cho các bên khi tham gia vào quan hệ
thương mại. Sự thỏa thuận hợp pháp vẫn luôn được tôn trọng, tuy nhiên nếu nó không
được hình thành thì sẽ áp dụng các điều khoản này để đảm bảo sự công bằng về quyền và
nghĩa vụ.
4) Trách nhiệm và các trường hợp miễn trách nhiệm của người làm dịch vụ logictics.
Trách nhiệm này có thể là thực hiện hợp đồng, hủy hợp đồng, bồi thường thiệt hại
phát sinh từ sự vi phạm nghĩa vụ hoặc phạt hợp đồng.
Thứ nhất giới hạn trách nhiệm, Điều 238 Luật thương mại quy định: trừ khi các
bên có thỏa thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics không vượt quá giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất hàng hóa”. Đây được coi là
một ngoại lệ trong chế tài bồi thường thiệt hại của Luật thương mại nói chung khi điều
13


302 quy định: giá trị bồi thường thiệt hại là tổn hại thực tế trực tiếp xảy ra, khoản lợi trực
tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Tuy nhiên họ
sẽ không được giới hạn trách nhiệm trong trường hợp người bị vi phạm chứng minh được
thiệt hại là do hành vi cố ý của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Nghị định
140/2007/NĐ- CP có quy định cụ thể giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh
logistics tại Điều 8.
Thứ hai là các trường hợp miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng nói
chung tại Diều 294 bà đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics nói riêng tại
Điều 237.
+)Điều 294 quy định các trường hợp:
Xảy ra trương hợp miễn trách nhiệm do 2 bên thỏa thuận.
Xảy ra sự kiện bất khả kháng
Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
Hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các
bên không thể biết khi giao kết hợp đồng.
+)Điều 237 Luật thương mại quy định miễn trách nhiệm cho thương nhân kinh doanh

dịch vụ logistics.
Do lỗi của khách hàng hoặc do người được khách hàng ủy quyền.
Tổn thất phát sinh do thương nhân làm đúng theo chỉ dẫn của khách hàng hoặc người
được khách hàng ủy quyền.
Tổn hại do khuyết tật hàng hóa
Những tổn thất phát sinh do những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp
luật và tập quán về vận tải nếu thương nhân kinh doanh logistics tổ chức vận tải.
Do thương nhân không nhận được thông báo về khiếu nại trong thời hạn 14 ngày làm
việc kể từ ngày thương nhân giao hàng cho người nhận.
Sau khi bị khiếu nại, thương nhân không nhận được thông báo về việc bị kiện tai trọng tài
hoặc tòa án trong thời hạn 9 tháng kể từ ngày giao hàng.
14


Thương nhân kinh doanh dichj vụ logistisc không phải chịu trách nhiệm về việc mất
khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng về việc chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ
logistics sai địa điểm không do lỗi của mình.
Như đã nói ở trên kinh doanh dịch vụ logistíc là một ngành mà rủi ro cao, giá trị
hợp đồng lớn, nên cần những quy định khung làm cơ sở để định hướng giải quyết các
tranh chấp phát sinh sau này. Nếu rơi vào một trong những trường hợp trên thì thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistic không phải chịu trách nhiệm nào đối với tổn thất hàng
hóa xảy ra.

III.NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
HÀNH PHÁP LUẬT LOGISTICS Ở VIỆT NAM
Trên đây là những qui đinh pháp luật về dịch vụ logistic. Điều cần thiết là phải
xem xét trên thực tế những qui định này được áp dụng như thế nào, chúng đã phát huy
được những ưu và bộc lộ những hạn chế gì cần sử chữa.
1. Những bất cập trong qui định pháp luật về dịch vụ logistic
1.1 Sự trồng chéo giữa các văn bản pháp luật về dich vụ logistic là một loại hình

dịch vụ tổng hợp, quá trình hoạt động liên qua đến sự quả lí của nhiều Bộ, ban, ngành
như: Giao thông vận tải, Hải quan, Đo lường… Việc mỗi cơ quan này ban hành nhưng
qui định riêng điều chỉnh các hoạt động thuộc lĩnh vự mình quản lí là hoàn toàn rễ hiểu.
Nhưng nếu có quá nhiều văn bản cùng điều chỉnh một hoạt động kinh doanh sẽ tạo nên
sự chồng chéo, khó nắm bắt và khó áp dụng trong thực tế. Dịch vụ logistic là một loại
hình dịch vụ mới, sự chồng chéo này sẽ gây cản trở không nhỏ cho thương nhân khi họ
chưa có kinh nghiệm và lúng túng sẽ phải tuân theo qui định nào.
1.2. Nhưng qui định mâu thuần trong kinh daonh dich vụ logistic là thực tiễn còn
tồn tại. Ví dụ rõ ràng nhất là việc xem xét dịch vụ Bưu chính có được coi là dịch vụ
logisic liên quan hay không ? Theo Khoản 3, Điều 4 Nghị đinh số 140/2007/NĐ-CP qui

15


đinh “dịch vụ bưu chính” được coi là “dịch vụ logistic liên quan”. Tuy nhiên Nghị đinh
số 128/2007/NĐ-CP ngày 2/8/2007 về dịch vụ chuyển phát lại qui định: Không điều
chỉnh hoạt động kinh doanh và sử dung “… dịch vụ logistic; Dịch vụ vận tải đa phương
thức quốc tê; dịch vụ giao nhận bằng phương thức vận tải đường hàng không, đường
biển, đường thủy nội địa, đường sắt, đường bộ” ( Điều 1). Vậy nhưng thương nhân kinh
doanh dịch vụ bưu chính sẽ phải tuân theo qui định nào ? Đây là một vấn đề đang có
nhiều quan điểm khác nhau và chưa thống nhất.
1.3. Dịch vụ logistic là loại hình dịch vụ có nội hàm rất rộng chỉ với 8 Điều trong
LTM 2005, một Nghị định hướng đãn trực tiếp và một số văn bản nằm giải rác thì có đủ
để điều chỉnh toàn bộ lĩnh vự kinh doanh này hay không ?. Đây còn là vấn đề mà pháp
luật còn để “hở”, nghĩa là hiện chưa có qui phạm pháp luật nào điều chỉnh.
Từ thực trạng trên, mục đích đặt ra là phải làm thế nào để hoàn thiện các qui định
pháp luật về dịc vụ logistic, khắc phục kịp thời những điểm còn thiếu sót nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước, phát triển ngành dich vụ còn mới
và từ đó tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
2. Cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về dịch vụ logistic

2.1. Tôn trọng và phát huy quyền tự do thương mại.
Tự do thương mại trong logistic cũng đồng nghĩa với việc khuyến khích các doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động logistic bằng cách đăng kí kinh doanh ngành nghề dịch vụ
này. Các nhà đầu tư trong nước có quyền lựa chọn các loại hình kinh doanh phù hợp. Đối
với nhà đầu tư nước ngoài thì có phần hạn chế hơn. Sau khi đăng kí, các nhà đầu tư sẽ tự
do giao kết hợp đòng với các thương nhân trong và ngoài nước, được từng nội dung cụ
thể của hợp đồng sao cho phù hợp với năng lực dịch vụ mình có thể cung cấp.
2.2. Đảm bảo sự phù hợp các điều ước quốc tế và gia nhập WTO.
Điều này có nghĩa là khi kí kết một hiệp định, điều ước về logistic với các quốc gia khác,
Việt Nam sẽ phải nghiêm chỉnh tuân theo các qui định cụ thể trong các hiệp định, điều

16


ước ấy. Việc đảm bảo sự đảm bảo sự phù hợp này sẽ giúp Việt nam tìm được tiếng nói
chung trong sự phát triển kinh tế cộng đồng, hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
3. Các giải pháp hoàn thiện.
3.1. Pháp luật dịch vụ logistisc cần được quy định cụ thể, chi tiết hơn nữa..
Logistic là một lĩnh vực rất rộng, bao gồm nhiều nội dụng dịch vụ khác nhau. Vì
thế nó luôn được điều chỉnh bởi các qui phạm pháp luật có liên quan, nằm giải rác trong
toàn bộ hệ thống pháp luật mà có nhiều qui định còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn.
Luật Thương mại 2005 ra đời tạo tiền đề cho việc cụ thể hóa những qui định pháp luật về
dịch vụ này dù mới chỉ dừng lại ở khung pháp lí cơ bản ban đầu. Làm thế nào để những
quy định về dịch vụ logistic được hoàn thiện, tập trung hơn và gắn với tình hình thực tiễn
phát triển của Việt Nam hơn nữa, hạn chế tình trạng có những mảng pháp luật còn bỏ
trống.
Trong quá trình hội nhập, tiếp thu điểm tiến bộ của pháp luật nước ngoài là điều
cần thiết. Việc Việt Nam kì kết những hiệp định khu vực và quốc tế về dịch vụ logistic đã
thể hiện điều đó. Những hiệp định này sẽ giúp cho pháp luật Việt Nam hài hòa với sự
phát triển của nhân loại

3.2. Thúc đẩy hơn nữa sự liên kết các doanh nghiệp giao nhận kho với nhau để có những
doanh nghiệp có đủ qui mô, đủ điều kiện cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại trong
khu vực và trên thế giới.
Muốn kinh tế hội nhập, muốn tạo một khu vực tự do dịch vụ thì bản thân các
doanh nghiệp Việt Nam phải có đủ năng lực để cung ứng dịch vụ trong nước trước khi
doanh nghiệp nước ngoài dành mất thị phần của họ. Chính phủ cần khuyến khích các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistic liên kết lại tập hợp vào hiệp hội chung mà cụ
thể là Hiệp hội giao nhận Kho vận Việt Nam (VIFAS) để cùng hỗ trợ phát triển giống
như khi thành lập các hiệp hội như hiệp hội Da - Giầy Việt Nam, Hiệp hội Cà phê Việt
Nam… có được như vậy vị thế của các doanh nghiệp nước ta sẽ được nâng cao và sức
cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài cũng được tăng lên.
17


3.3 Ban hành các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Trong đó đặc biệt chú trọng đến việc chọn lọc vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào các
vùng trọng điểm, khơi luồng vận chuyển trong và ngoài nước. Điều này có vai trò rất
quan trọng trong việc thúc đẩy mạnh công nghiệp hóa logistic. Đồng thời, cũng nên tạo
cơ chế thông thoáng cho các nhà đầu tư có uy tín và năng lực trong lĩnh vực này. Kinh
nghiệp từ Trung Quốc cho thấy các chính sách khuyến khích là nên có và vô cùng quan
trọng cà cần thiết. Tận dụng thế mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài để phát triển những
mặt còn yếu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
3.4 Nhà nước cần có những chính sách để đầu tư vào cơ sở hạng tầng phục vụ cho các
doanh nghiệp kinh doanh dich vụ logistic.
Cơ sở hạng tầng là yêu cầu quan trọng của hoạt động logistic. Ở Việt Nam cơ sở
vật chất còn khá yếu kém. Điều này cần có sự đòi hỏi phải có sự cải cách nhanh chóng và
toàn diện nguồn tài nguyên cho ngành từ cảng, sân bay, càng thông qua nội địa, đường
bộ, đường sắt… Tất cả tài nguyên cần được sắp xếp hợp lí trong một bản đồ qui hoạch
liên hoàn. Đặc biệt cần nâng cấp hệ thống hạ tầng giao thông khuyến khích vận tải
container phát triển.

Sắp xếp lại cảng trên cơ sở dài hạn. Lập trung tâm logistic tại các vùng trọng điểm
kinh tế tập chung hàng xuất khẩu và phân phối nhập khẩu hay thành phẩm. Xây dựng một
mạng lưới phân phối giữa chủ hàng, công ty giao nhận hệ thống chi nhánh, nơi phân phối
cuối cùng.
3.5. Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành logistic còn non trẻ ở Việt Nam.
Chính phủ cần mở rộng đào tạo chuyên ngành về dịch vụ logistic trong các trường
Đại học, cao đẳng ở Việt Nam để tạo ra một nguồn nhân lực có chuyên môn, có trình độ
trong lao động và quản lí. Đối với lực lượng đông đảo chưa có tay nghề hoặc nghiệp vụ
còn yếu thì cần phải có chính sách đào tạo lại. Các trương trình đào tạo phải cập nhật và
đổi mới để sao cho những gì mà chúng ta dạy không bị lỗi thời so với thể giới.

18


Thực hiện tổng thể các biện pháp đó sẽ giúp cho dịc vụ logistic có nền tảng vững
chắc và toàn diện để phát triển cả về điều kiện kinh tế đến nhưng quy định về pháp luật.

KẾT LUẬN.
Dịch vụ logistics là một trong những dịch vụ mới phát triển ở Việt Nam, bên cạnh
những thuận lợi thì khó khăn không phải là ít. Để logistics Việt Nam có thể phát triển
nhanh và mạnh hơn nữa thì bên cạnh những yếu tố khách quan thì nhân tố chủ quan đóng
một vai trò khá quan trọng. Vì đây là một ngành nghề mới nên cũng cần đòi hỏi sự quan
tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới để làm sao dịch vụ logistics
phát triển đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời với đó là đảm bảo sự quản lý của các cơ
quan nhà nước đối với loại dịch còn mới mẻ nhưng đầy húa hẹn này.

19


MỤC LỤC


20



×