Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.02 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Mua bán hàng hoá là hoạt động chính trong hoạt động thương mại, là cầu
nối giữa sản xuất và tiêu dùng và không chỉ giới hạn ở phạm vi mỗi quốc gia mà
còn mở rộng ra cả các quốc gia khác nhau trên toàn thế giới.
Khi hai bên (thường gọi bên mua và bên bán) tiến hành mua bán hàng hoá
với nhau thì nảy sinh một hình thức được hai bên ký kết có thể bằng miệng,
bằng văn bản, bằng email, fax… mà người ta gọi là hợp đồng mua bán hàng
hoá. Hợp đồng mua bán hàng hoá rất phong phú, được điều chỉnh bởi nhiều
nguồn luật và khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ cá nhân hay
tổ chức nào. Nhà xã hội nổi tiếng người Pháp A.Foullier đã nhận định, hợp đồng
chiếm 9/10 dung lượng các bộ luật hiện hành và đến khi nào đó, trong các bộ
luật quy định về hợp đồng ở các điều khoản, từ điều khoản thứ nhất đến điều
khoản cuối cùng. Trong hệ thống pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể
về sự điều chỉnh quan hệ hợp đồng ngay từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989,
tiếp đến là Bộ luật Dân sự 1995, Luật Thương mại 1997… và hiện tại tiêu biểu
là hai văn bản pháp luật: Bộ luật dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005.
Như vậy, có thể nói hợp đồng mua bán hàng hoá là một nội dung không
thể thiếu trong hoạt động kinh doanh. Việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
và xác định vô hiệu của hợp đồng mua bán hàng hóa này là bước hết sức quan
trọng đối với hoạt động thương mại này. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây
là bài tiểu luận của nhóm với đề tài: “Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và
hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu”.

1


NỘI DUNG

I. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa:
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức


pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất
chung là hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Luật Thương mại năm 2005 không
đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa song có thể xác định bản chất
pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại trên cơ sở quy định
của Bộ luật dân sự năm 2005 về hợp đồng mua bán tài sản: “hợp đồng mua bán
tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản
cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho
bên bán” (Điều 428 BLDS 2005). Hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng cụ
thể của hợp đồng mua bán tài sản. Một hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là sự
thỏa thuận về việc mua bán hàng hóa ở hiện tại hoặc mua bán hàng hóa sẽ có ở
một thời điểm nào đó trong tương lai. Bất cứ khi nào một người mua hàng hóa
bằng tiền hoặc phương thức thanh toán khác và nhận quyền sở hữu hàng hóa thì
khi đó hình thành nên quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Một hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được hình thành theo bất cứ cách
thức nào, theo đó chứng tỏ các bên đã thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa là thời điểm các bên đã đạt được sự thỏa thuận. Trong quá
trình xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa cần nắm được các vấn đề pháp lý cơ
bản nhất.
2. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá:
Sự thoả thuận giữa các chủ thể được coi là hợp đồng mua bán hàng hoá và
được pháp luật bảo vệ phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện theo quy định của
pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng hoá được giao kết phải phù hợp với các
nguyên tắc được quy định trong hợp đồng dân sự nói chung xuất phát từ việc
nhằm bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng. Bộ luật dân sự 2005 (BLDS
2


2005) quy định việc giao kết hợp đồng phải tuân theo nguyên tắc: tự do giao kết
nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí,

hợp tác, trung thực và ngay thẳng (Điều 389).
3. Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá:
3.1 Đề nghị giao kết hợp đồng:
Đề nghị giao kết hợp đồng bản chất là hành vi pháp lý đơn phương của
một chủ thể. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, đề nghị giao kết hơp đồng
chính là chào hàng. Chào hàng là một quy định được thừa nhận trong các thông
lệ quốc tế mua bán hàng hoá (Điều 14 Công ước Viên 1980).
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự rằng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
cụ thể (khoản 1 Điều 390 BLDS 2005). Đề nghị hợp đồng mua bán có thể do
bên bán hoặc bên mua thực hiện.
Hình thức thực hiện có thể bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc
kết hợp giữa các hình thức này. Đề nghị hợp đồng được gửi đến cho một hay
nhiều chủ thể đã xác định. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
thông thường do bên đề nghị ấn định. Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời
đề nghị của mình. Trong một số trường hợp cụ thể, bên đề nghị giao kết hợp
đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết
hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp: bên nhận được đề nghị trả lời
không chấp nhận; hết hạn trả lời chấp nhận; thông báo về việc rút lại hoặc thay
đổi đề nghị có hiệu lực; thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; theo thỏa
thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề
nghị trả lời. Trong trường hợp đề nghị giao kết có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu
bên đề nghị giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề
nghị mà không được giao kết thì phải bồi thường nếu có thiệt hại phát sinh.
3.2 Chấp nhận đề nghi giao kết hợp đồng:
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị
chuyển cho bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ các nội dung đã nêu trong đề
3



nghị giao kết hợp đồng. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi
đó là hành vị, hành động mang tính tích cực của đối tác trong giao dịch mua bán
hàng hoá. Không thể coi là bên được đề nghị giao kết hợp đồng đã đồng ý với
lời đề nghị trong khi họ không có biểu hiện nào bên ngoài để cho người đề nghị
biết là mình đồng ý với toàn bộ đề nghị giao kết hợp đồng. Thời hạn trách
nhiệm của bên đề nghị bắt đầu từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng được
chuyển đi cho bên được đề nghị đến hết thời hạn ghi trong đề nghị giao kết hợp
đồng.
Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được thông báo
chấp nhận đề nghị sau khi hết thời hạn chờ trả lời thì lời đề nghị đó được coi
như là đề nghị mới của bên chậm trả lời: Nghĩa là đã xuất hiện một đề nghị giao
kết hợp đồng mới từ phía đối tác của người đã đề nghị và người đã đề nghị nếu
tiếp tục chấp nhận thì trở thành người chấp nhận đề nghị. Trong trường hợp
thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách hàng, mà bên
đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông bác chấp nhận giao
kết này vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị không đồng ý với chấp nhận
đó của bên được đề nghị giao kết hợp đồng.
Trong trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng,
nhưng có điều kiện sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung của đề nghị thì
hành vi đó được coi là từ chối đề nghị và hình thành một đề nghị giao kết hợp
đồng mới. Như vây, nếu bên được đề nghị sửa đổi, bổ sung đề nghị không làm
thay đổi cơ bản nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng thì hành vi đó cũng
không được coi là chấp nhận đề nghị, mà được coi là đề nghị giao kết hợp đồng
mới. Nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng được sửa đổi, bổ sung có thể là
điều kiện về giá cả, phương thức thanh toán, chất lượng, địa điểm thời gian giao
hàng…
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện
thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có
chấp nhận hay không, trừ trường hợp có thỏa thuân về thời hạn trả lời.
4



3.3 Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá:
Về nguyên tắc, hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết vào thời điểm
các bên đạt được sự thỏa thuận. Trong thực tế, thời điểm giao kết hợp đồng được
quy định khác nhau phụ thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp
đồng. Theo BLDS 2005 (Điều 404), có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá theo các trường hợp sau:
- Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: Thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
- Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản: thời điểm đạt được sự
thoả thuận được xác định theo thuyết tiếp nhận, theo đó hợp đồng được gia kết
khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
- Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: Thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung của hợp đồng.
Trong giao kết hợp đồng nói chung cũng như hợp đồng mua bán hàng hoá
nói riêng, sự im lặng của bên được đề nghị cho đến khi hết thời hạn trả lời cũng
có thể là căn cứ xác định hợp đồng đã được gia kết nếu có thoả thuận im lặng là
sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng (điều 405 BLDS 2005).
Theo quy định tại Điều 405 BLDS 2005 thì hợp đồng mua bán hàng hoá
có hiệu lực từ thời điểm giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác

II. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu:
1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu có nghĩa là nó không có hiệu lực trên
thực tế, các bên không phải chịu ràng buộc về quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng.
Hợp đồng vô hiệu có thể tồn tại dưới dạng vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương
đối.
2. Các dạng hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu:

2.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do không đảm bảo điều kiện
về chủ thể:
5


Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã giao kết hợp đồng vào đúng
thời điểm không nhận thức và làm chủ hành vi của mình thì có quyền yêu cầu
tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.
Trong thực tiễn hoạt động mua bán, chủ thể tham gia hợp đồng mua bán
chủ yếu là các thương nhân. Khi tham gia hợp đồng mua bán nhằm mục đích lợi
nhuận, các thương nhân phải đáp ứng điều kiện có đăng ký kinh doanh hợp pháp
đối với hàng hóa được mua bán. Trường hợp mua bán sản phẩm, hàng hóa có
điều kiện kinh doanh, thương nhân còn phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh
đó theo quy định của pháp luật.
2.2 Hợp đồng mua bán hàng hóa do người giao kết không đúng thẩm
quyền:
Việc xác định người có thẩm quyền ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa
dựa trên các căn cứ như Điều lệ, Quyết định thành lập công ty Nhà nước, giấy
chứng nhận đầu tư hay giấy phép đầu tư với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với các doanh nghiệp khác.
Đối với các thương nhân khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa có thể thông qua đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Hiện
nay, người đại diện theo pháp luật của thương nhân là tổ chức kinh tế được pháp
luật quy định tương ứng với từng loại doanh nghiệp. Người đại diện của các chủ
thể khác không phải là thương nhân sẽ áp dụng các quy định về đại diện theo
pháp luật và đại diện theo ủy quyền của Bộ Luật Dân Sự năm 2005 (BLDS
2005).
Hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết bởi người không có thẩm
quyền sau đó người đại diện theo pháp luật biết mà không phản đối thì hợp đồng
thương mại đó vẫn có hiệu lực. Khi người không có quyền đại diện pháp luật

xác lập, thực hiện hợp đồng, sẽ làm cho hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu với
người được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện của bên đại diện chấp
nhận. Hợp đồng mua bán hàng hóa được người đại diện xác lập, vượt quá phạm
vi đại diện không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người đại diện đối với
6


phần hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp được người đại diện
đồng ý hoặc biết mà không phản đối.
Ngoài các trường hợp vô hiệu theo quy định của BLDS năm 2005, trong
các văn bản pháp luật chuyên ngành (Luật Doanh Nghiệp năm 2005, Luật Phá
sản năm 2000, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000...) cũng có quy định cụ thể
một số trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa có thể vô hiệu do có sự tư lợi
hoặc tẩu tán tài sản khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Ví dụ: Theo
điều 59 Luật Doanh Nghiệp năm 2005, hợp đồng, giao dịch của Công ty Trách
nhiệm hữu hạn 02 thành viên trở lên với các đối tượng là thành viên, người đại
diện theo ủy quyền của thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người đại
diện theo pháp luật của công ty là những người có liên quan của người này phải
được hội đồng thành viên chấp thuận, nếu không đáp ứng các yêu cầu này các
hợp đồng đó sẽ vô hiệu.
2.3 Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do mục đích và nội dung của
hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội:
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép
chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Một hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu trong trường hợp này khi nội
dung và mục đích của nó vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Nội dung của hợp đồng được hiểu bao gồm các điều khoản của hợp đồng: điều
khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ và điều khoản tùy nghi. Như vậy, bất cứ

điều khoản nào của hợp đồng mà vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức
của xã hội đều làm cho hợp đồng đó bị vô hiệu. Tùy tính chất, của từng loại điều
khoản vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội mà hợp đồng mua bán
hàng hóa có thể vô hiệu toàn bộ hay vô hiệu từng phần: nếu điều khoản đối
tượng của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật; trái đạo đức xã hội thì hợp
đồng mua bán hàng hóa bị vô hiệu toàn bộ, các điều khoản khác của hợp đồng vi
7


phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội sẽ làm cho hợp đồng mua
bán hàng hóa bị vô hiệu từng phần.
Mục đích là những lợi ích hợp pháp mà các chủ thể mong muốn đạt được
khi tham gia hợp đồng. Do đó, những hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết
nhằm mục đích lẩn tránh các quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền và
lợi ích của các chủ thể khác... được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
do mục đích của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu tuyệt đối, không
có hiệu lực ngay từ khi xác lập. Bởi vậy, pháp luật không quy định thời hạn
tuyên bố hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái đạo đức xã hội.
2.4 Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do giao kết không đảm bảo
các nguyên tắc của hợp đồng theo quy định của pháp luật:
Việc quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm đảm bảo sự thỏa thuận
của các bên phù hợp với ý chí thực của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng
của các bên, đồng thời không xâm phạm đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo
vệ. Theo quy định của BLDS năm 2005 thì việc giao kết hợp đồng nói chung và
hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng phải tuân theo các nguyên tắc: tự do giao
kết nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã hội, tự nguyện, bình đẳng, thiện
chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Những hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối

để giao kết hợp đồng... là lý do dẫn đến hợp đồng mua bán hàng hóa không có
hiệu lực.
2.4.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do nhầm lẫn:
Nhầm lẫn theo cách hiểu thông thường là sự nhận thức không chính xác
về cái có thật, tưởng cái sai sự thật là thật và ngược lại. Theo điều 131 BLDS
2005 thì thời điểm xác định sự nhầm lẫn là thời điểm mà hợp đồng mua bán
hàng hóa được xác lập. Tại thời điểm này, chúng ta phải xác định cụ thể “nhận
thức” của bên cho rằng đã nhầm lẫn là gì và “sự thật về nội dung của hợp đồng
8


là như thế nào”, Tuy nhiên, muốn nhận thức đưuọc sự nhầm lẫn chỉ cần phải
khai thác, sử dụng những thông tin có được ở thì tương lai.
Theo Điều 131 BLDS năm 2005 thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia
thay đổi nội dung của hợp đồng đó, nếu bên kia không chấp nhận thay đổi thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Như vậy, theo quy định của
pháp luật hiện hành không phải mọi hợp đồng có yếu tố nhầm lẫn đều dẫn tới vô
hiệu. Điều này cho thấy hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do nhầm lẫn là loại
hàng hóa vô hiệu tương đối. Nhầm lẫn chỉ được yêu cầu thay đổi nếu không trái
đọa đức, không trái pháp luật.
2.4.2 Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do lừa dối:
Lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba nhằm làm cho bên
kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng
nên đã quyết định giao kết hợp đồng đó.
Khi một bên giao kết hợp đồng do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.
2.4.3 Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do bị đe dọa:
Đe dọa là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia
buộc phải giao kết và thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng,

con của mình... Đe dọa trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện
dưới hai hình thức:
- Đe dọa về thể chất như: bắt buộc một người phải ký kết hợp đồng nếu
không bên đe dọa sẽ hãm hại đến họ hoặc người thân của họ...
- Đe dọa về tinh thần như: đe dọa tố cáo hành vi tội lỗi của người đó...
Khi một bên giao kết hợp đồng do đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án
ruyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.
2.4.4 Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do giả tạo:
Hợp đồng giả tạo là một hợp đồng được thiết lập nhằm mục đích che dấu
một hợp đồng khác. Hợp đồng giả tạo chỉ là một hợp đồng hành thức, ở hợp
9


đồng này không có sự thống nhất “giữa việc thể hiện ý chí ra bên ngoài và ý chí
nội tâm của các bên tham gia”.
Sự vô hiệu của hợp đồng giả tạo không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của
hợp đồng bị che dấu, trừ trường hợp hợp đồng bị che dấu cũng vô hiệu theo quy
định của pháp luật.
2.5 Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu do không tuân thủ các quy
định về hình thức:
Trong trường hợp pháp luật hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các
bên, tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác sẽ ra quyết định buộc các bên
phải thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn nhất đinh;
quá thời hạn đó mà các bên không thực hiện thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu.

III. Một số kiến nghị cụ thể về việc hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hoá góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại :
Thứ nhất, về thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng mà trong đề nghị
không nêu rõ thời hạn trả lời. Về vấn đề này theo quy định của một số nước trên

thế giới thì thời hạn do Thẩm phán quy định tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Để
thực hiện được điều đó Thẩm phán cần phải có trình độ, hiểu biết sâu về lĩnh
vực cần ra phán quyết. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay trình độ của các Thẩm
phán không đồng đều nên cần thiết phải quy định cụ thể trong lần sửa đổi, bổ
sung BLDS 2005 sắp tới để tránh những cách hiểu khác.
Thứ hai, về vấn đề chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Theo nguyên tắc
thì chấp nhận đề nghị phải là chấp nhận toàn bộ các nội dung của đề nghị giao
kết. Tuy nhiên do tính chất mềm dẻo của quan hệ thương mại nên cần phải có
những ngoại lệ với chấp nhận đề nghị trong lĩnh vực thương mại. Tham khảo
Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit thì mọi sự phúc đáp có khuynh
hướng chấp nhận kèm theo các điều khoản bổ sung nhưng không làm biến đổi
một cách cơ bản nội dung chủ yếu của đề nghị thì vẫn được coi là trả lời chấp
nhận nếu bên đề nghị không phản đối ngay những điểm khác biệt đó thì hợp
10


đồng sẽ bao gồm các điều khoản của đề nghị giao kết và những sửa đổi, bổ sung
trong chấp nhận đề nghị. Do đó, BLDS 2005 nên bổ sung quy định tương tự cho
phù hợp với thông lệ quốc tế về giao kết hợp đồng.
Thứ ba, sửa đổi những quy định về các điều kiện làm hợp đồng vô hiệu:
- Trường hợp vô hiệu do vi phạm điều cấm: cần quy định rõ ràng hơn về
điều cấm của pháp luật dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Để tránh cho việc tuyên bố
hợp đồng vô hiệu trở nên dễ dàng và để đảm bảo cho quyền lợi của các bên thì
nên sửa đổi theo hướng chỉ những vi phạm nghiêm trọng dẫn đến tội hình sự
mới có thể bị tuyên vô hiệu, những vi phạm khác có thể sử dụng chế tài hành
chính hoặc bồi thường thiệt hại còn hợp đồng thì vẫn có hiệu lực. Cần có quy
định cụ thể việc hợp đồng vô hiệu do mục đích vi phạm điều cấm thì đây phải là
mục đích của hai bên hay chỉ cần một bên theo đuổi.
- Trường hợp vô hiệu do nhầm lẫn: BLDS 2005 có quy định về hợp đồng
vô hiệu do nhầm lẫn nhưng chưa đưa khái niệm thế nào là nhầm lẫn. Do đó, cần

tham khảo quy định điều 3.4 của Unidroit: “nhầm lẫn là một niềm tin sai về sự
việc hay pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng” để đưa khái niệm nhầm lẫn
trong giao kết hợp đồng vào BLDS 2005 sửa đổi.
Cần quy định thêm trường hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn dẫn đến hậu quả
hợp đồng vô hiệu cho phù hợp với thực tế. Và đối tượng của sự nhầm lẫn phải là
nhầm lẫn về đối tượng và nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng mới làm cho hợp
đồng vô hiệu. Ngoài ra cần quy định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tuyên bố
hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn là 02 năm kể từ ngày phát hiện ra là bị nhầm
lẫn, vì nhiều khi sau khi giao kết hợp đồng xong bản thân bên bị nhầm lẫn cũng
không biết mình đã bị nhầm lẫn (Điều 136 BLDS quy định thời hiệu yêu cầu
tuyên bố giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn là 02 năm kể từ ngày xác lập giao dịch).
- Trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm về điều kiện hình thức: với
quy định hiện nay về hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức sẽ dẫn đến việc
nhiều luật chuyên ngành mở rộng ra nhiều trường hợp hợp đồng phải ký kết
bằng văn bản, do đó khiến cho khả năng tuyên bố vô hiệu trở nên dễ dàng. Điều
11


này có thể gây cản trở cho hoạt động thương mại vì bản thân luật Thương mại
2005 cũng có rất nhiều quy định về hợp đồng phải ký kết bằng văn bản, do đó
chỉ quy định hạn chế một số loại hợp đồng dứt khoát phải bằng văn bản còn
những loại khác không bắt buộc. Ngoài ra, BLDS 2005 cần có quy định chế tài
để cưỡng chế các bên thực hiện việc hoàn thiện hợp đồng cho phù hợp với hình
thức đã quy định trong khoảng thời gian để đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi cho
bên không có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu.
KẾT LUẬN
Như vậy, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và xác định vô hiệu
của hợp đồng mua bán hàng hóa là một bước hết sức quan trọng đối với hoạt
động thương mại. Các chủ thể kinh doanh khi ký kết và thực hiện hợp đồng cần
phải nắm vững, hiểu rõ các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng

hoá sẽ giúp các chủ thể kinh doanh ký kết và thực hiện hợp đồng được thuận lợi,
an toàn và hiệu quả, tránh các tranh chấp, rủi ro đáng tiếc.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thương mại năm 2005.
2. Bộ luật Dân sự năm 2005.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại (tập 2),
Nguyễn Viết Tý (chủ biên), NXB. CAND, Hà Nội, 2006.
4. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Giáo trình Luật Thương mại (tập 2), NXB.
Giáo dục, 2008.
5. Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại
và đầu tư - những vấn đề pháp lý cơ bản, NXB. CTQG, Hà Nội, 2008.
6. Trần thị thanh thuỷ, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng góp phần thúc
đẩy hoạt động thương mại. lv ts luật học 2010.

13



×