Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.18 KB, 4 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các
giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng cao là yếu tố quyết định của
đất nước. Với tư cách là một nghành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật lao động
là tổng hợp những quy phạm do nhà nước ban hành điều chỉnh quan hệ lao động và các
quan hệ có liên quan trong quá trình sử dụng sức lao động của người lao động. Bài viết của
em xin trình bày vấn đề: Quan hệ lao động- dối tượng điều chỉnh của luật lao đông”
PHẦN NỘI DUNG
I.Đối tượng điều chỉnh của luật lao động.
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những nhóm quan hệ xã hội cùng loại có
cùng tính chất cơ bản giống nhau được các quy phạm của ngành luật ấy điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là mối quan hệ xã hội phát sinh giữa một bên
là người lao động làm công ăn lương với một bên là cá nhân hoặc tổ chức sử dụng, thuê
mướn có trả công cho người lao động( gọi là quan hệ lao động) và các quan hệ khác có liên
quan phát sinh trong quá trình sử dụng lao động( quan hệ liên quan đến quan hệ lao động).
Như vậy, dối tượng điều chỉnh của luật lao động bao gồm hai nhóm quan hệ xã hội:
quan hệ lao động và quan hệ lien quan đến quan hệ lao động. Trong phạm vi yêu cầu của đề
bài, em xin đi vào phân tích sâu hơn về quan hệ lao động- đối tượng điều chỉnh của luật lao
động.
II.Quan hệ lao động.
1.Khái niệm quan hệ lao động (QHLĐ)
Theo nghĩa rộng, QHLĐ được hiểu là quan hệ giữa con người với con người hình
thành nên trong quá trình lao động, là một mặt biểu hiện cảu quan hệ sản xuất, do vậy, nhìn
chung mỗi một phương thức sản xuất có một loại quan hệ lao động tiêu biểu thích ứng với
nó. Trong nền kinh tế thị trường ở thời hiện đại, các quan hệ liên quan đến việc sử dụng lao
động rất phong phú như QHLĐ trong các hợp tác xã, trong hợp đồng khoán việc, trong các
doanh nghiệp đủ loại…Mỗi loại QHLĐ này lại có những đặc điểm, thuộc tính riêng. Dù
muốn luật lao đông cũng không thể điều chỉnh tất cả các QHLĐ theo nghĩa rộng này được.
Vì vậy, theo tinh thần của Luật lao động, chúng ta nên hiểu khái niệm QHLĐ theo nghĩa
hẹp hơn.
Theo nghĩa hẹp, QHLĐ là quan hệ giữa người sử dụng lao động( NSDLĐ) và người


lao động( NLĐ) phát sinh trong quá trình sử dụng sức lao động của NLĐ.
NSDLĐ là cá nhân hoặc tổ chức có vốn đầu tư, trang thiết bị kĩ thuật, nhu cầu sử
dụng lao động…NLĐ là cá nhân, không có vốn, dung sức lao động của mình để nuôi sống
bản thân và gia đình. NLĐ có nhu cầu, mong muốn bán được sức lao động với giá cao, có
môi trường làm việc tốt để chuyển giao sức lao động cho NSDLĐ một cách thuận lợi. Còn
đối tác của NLĐ là NSDLĐ cũng” hướng tới” sức lao động, tức là sử dụng sức lao động của
NLĐ vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Như vậy, giữa NLĐ và NSDLĐ hình thành nên quan hệ lao động mà mỗi bên đều có
quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Ví dụ, ông A là giám đốc xí nghiệp X kí hợp đồng lao
1
động với anh B vào làm trong nhà máy sợi của ông. Ông A có quyền tổ chức quản lí lao
động đối với B và có nghỉa vụ trả lương cho B. Anh B có nghĩa vụ chấp hành sự quản lí của
A và có quyền được thanh toán tiền lương theo hợp đồng đã thỏa thuận.
2.Đặc điểm của QHLĐ.
Với cách hiểu QHLĐ theo nghĩa hẹp thì ta có thể thấy QHLĐ có hai đặc điểm cơ bản
đó là: Trong QHLĐ, người lao động luôn phụ thuộc vào NSDLĐ; QHLĐ chứa đựng đồng
bộ các yếu tố kinh tế và xã hội.
a.Trong QHLĐ, người lao động luôn phụ thuộc vào NSDLĐ.
Sự phụ thuộc này thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau trong mỗi hình thái kinh tế- xã
hội nhưng nó tồn tại trong tất cả các giai đoạn phát triển.
Thứ nhất, sự phụ thuôc của NLĐ vào NSDLĐ về mặt pháp lí. NSDLĐ có quyền tổ
chức, quản lí quá trình lao động của NLĐ và NLĐ phải tuân thủ. Điều đó xuất phát từ
những lí do sau:1- NSDLĐ có quyền sở hữu tài sản mà các yếu tố cấu thành nên quan hệ
sản xuất luôn chịu sự chi phối cuả quan hệ sở hữu; 2- NSDLĐ bỏ tiền ra để mua sức lao
động của NLĐ, muốn sử dụng sức lao động ấy một cách hiệu quả nhất buộc NSDLĐ phải
quản lí nó sao cho hợp lí, không để bị lãng phí; 3- Do mục tiêu, năng suất, hiệu quả, chất
lượng( mục tiêu lợi nhuận) trong sản xuất kinh doanh mà NSDLĐ phải tổ chức, quản lí
NLĐ. Ngoài ra, còn do nhu cầu khách quan của quản lí mà NLĐ phải phụ thuộc vào
NSDLĐ. Tuy NLĐ bị phụ thuộc vào NSDLĐ nhưng pháp luật vẫn có quy định các bên
được tự do thỏa thuận trên cơ sở hợp đồng lao động.

Thứ hai, về mặt lợi ích kinh tế, giữa NLĐ và NSDLĐ vừa có sự mâu thuẫn vừa có sự
thống nhất phụ thuộc nhau. Trong đó, đặc điểm nổi bật là sự phụ thuộc của NLĐ vào
NSDLĐ.
Trong QHLĐ, NSDLĐ có quyền quy định cơ chế phân phối trong đơn vị, có quyền
quyết định các mức lương theo từng vị trí công việc, có quyền và nghĩa vụ trả lương…Ở
khía cạnh chung nhất, NSDLĐ luôn muốn giảm tới mức thấp nhất các khoản chi phí này để
tăng lợi nhuận cho họ. Mà tiền lương và thu nhập trong QHLĐ lại là nguồn sống chủ yếu
của NLĐ và gia đình họ.
NLĐ bao giờ cũng phụ thuộc vào NSDLĐ về cả mặt pháp lí và kinh tế. Pháp luật
cũng thừa nhận quyền quản lí, điều hành của NSDLĐ và nghĩa vụ chấp hành của NLĐ.
Nhưng trên thực tế, thường xảy ra xu hướng lạm quyền của NSDLĐ và sự cam chịu của
NLĐ, nên phải quan tâm bảo vệ NLĐ.
Như vây, sự phụ thuộc của NLĐ là phương diện căn bản, là đặc điểm quan trọng để
phân biệt QHLĐ với các quan hệ tương đồng. Ở góc độ lí luận, nó là căn cứ để xác định đối
tượng điều chỉnh của luật lao động.
b.QHLĐ chứa đựng đồng bộ các yếu tố kinh tế và xã hội.
QHLĐ không chỉ lien quan đến việc làm, giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp,
bảo đảm đời sống NLĐ, an toàn lao động, vệ sinh lao động…mà còn liên quan đến đầu tư
nguồn nhân lực, thu nhập, thu hút đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế.
2
Ví dụ, A kí hợp đồng lao động với công ty B, sẽ phát sinh quan hệ làm công ăn lương
kèm theo đó là những vấn đề về vệ sinh lao động, an toàn lao động, trợ cấp thất nghiệp, bảo
hiểm…đối với A phải được đảm bảo thực hiện.
Trên cơ sở của đặc điểm này, nhà nước phải có định hướng điều chỉnh phù hợp, giải
quyết đồng bộ các vấn đề kinh tế xã hội đặt ra trong quá trình sử dụng lao động. Ví dụ nhà
nước xây dựng các chương trình quốc gia về việc làm như di dân, đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài; nhà nước thực hiện bảo hộ lao đông…
3.Các loại quan hệ lao động.
Căn cứ vào vị trí của NLĐ và tính chất của QHLĐ khi có thể hiên ra bên ngoài thì
QHLĐ được phân thành các nhóm sau:

a.Quan hệ làm công ăn lương giữa NLĐ và NSDLĐ( còn gọi là quan hệ chủ thợ; quan hệ
thuê mướn lao động; quan hệ hợp đồng lao động).
Khái niệm, là QHLĐ giữa người làm công ăn lương với NSDLĐ được xác lập trên cơ
sở hợp đồng lao động. Xét về bản chất, đó chính là sự thỏa thuận của các bên( phạm vi hẹp
hơn thỏa thuận trong dân sự) trong khung quy định của luật, tạo thành hành lang pháp lí,
trong đó quyền lợi của các bên được ấn định ở mức tối thiểu và nghĩa vụ ở mức tối đa.
Đặc điểm, quan hệ làm công ăn lương vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội. Tính
kinh tế thể hiện ở mục đích tham gia quan hệ, mục đích của NSDLĐ là lợi nhuận, của NLĐ
là tiền lương và các lợi ích vật chất khác. Tính xã hội thể hiện ở việc đảm bảo nhân quyền
trong phạm vi lao đông( an toàn, sức khỏe..).
Quan hệ này vừa có tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn.Thống nhất vì là đối tượng
điều chỉnh cơ bản của luật lao động, mâu thuẫn do địa vị pháp lí mà suy cho cùng là lợi ích
kinh tế của mỗi bên.
Quan hệ này vừa có tính bình đẳng vừa có tính lệ thuộc. Bình đẳng được thể hiện ở
sự thỏa thuận trong công việc giải quyết lơi nhuận của mỗi bên. Tính lệ thuộc thể hiện ở
phương diện pháp lí, NLĐ phụ thuộc vào NSDLĐ( người quản lí lao động).
Quan hệ này bao gồm các loại: QHLĐ trong các đơn vị kinh tế, nơi sử dụng nhiều lao
động nhất; QHLĐ trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp trừ cán bộ, công chức, viên
chức do luật hành chính điều chỉnh; QHLĐ trong các tổ chức đoàn thể trừ đối tượng là
thành viên của tổ chức; QHLĐ có yếu tố nước ngoài( QHLĐ giữa NLĐ Việt Nam với cơ
quan tổ chức nước ngoài tại Việt Nam; Quan hệ giữa NLĐ nước ngoài với NSDLĐ Việt
Nam tại VIệt Nam).
Tóm lại, quan hệ làm công ăn lương giữa NLĐ và NSDLĐ là đối tượng điều chỉnh
trọn vẹn, chủ yếu nhất của luật lao động, bởi vì xuất phát từ yêu cầu của nên kinh tế thị
trường( thị trường lao động, không gian mua bán trao đổi sức lao động); nhu cầu của các
bên tham gia quan hệ và NLĐ là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội mà do đó luật lao
động phải điều chỉnh quan hệ này một cách trọn vẹn nhất.
b.Các quan hệ lao động khác.
Là quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ nhưng không xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động
mà bằng các hình thức khác( như biên chế, bầu cử..). Những quan hệ này luật lao động chỉ

3
điều chỉnh một phần, ví dụ như: quy định thời gian nghỉ tết nghỉ lễ( 9 ngày /năm); áp dụng
tiền lương tối thiểu; an toàn lao động, vệ sinh lao động; bảo hiểm xã hội…
Bao gồm 4 nhóm quan hệ: quan hệ giữa công chức, viên chức với nhà nước; lực
lượng vũ trang với nhà nước; xã viên với hợp tác xã; người làm việc trong tổ chức đoàn thể
với tổ chức đoàn thể đó.
PHẦN KẾT LUẬN
Luật lao động có vai trò quan trọng trong việc thực hiện và bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân trong lĩnh vực lao động. Bằng việc xác định đối tượng điều chỉnh chủ yếu là
các quan hệ lao động làm công ăn lương, luật lao động đã thúc đẩy sự phát triển loại quan
hệ lao động tiêu biểu và phổ biến của nền kinh tế thị trường theo xu hướng công nghiệp hóa,
hiện đai hóa đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật lao động, Nxb.CAND, Hà Nội,
2009.
2. Đại học Quốc gia, Giáo trình luật laao động Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia,
Hà Nội, 1999.
3. Bộ luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2007.
4. Bộ luật dân sự năm 2005.
5. Luật cán bộ công chức năm 2008.
4

×