Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Vai trò của luật quốc tế trong giai đoạn hợp tác đối thoạihiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.62 KB, 17 trang )

Lời nói đầu
Trong thời đại ngày nay, có thể nói rằng hầu hết hành vi của các quốc
gia trên phạm vi quốc tế, các quan hệ quốc tế trong mọi lĩnh vực của đời
sống quốc tế và cả một số hành vi của các quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
của mình, trong một chừng mực nhất định, đều được điều chỉnh bởi luật
pháp quốc tế. Đó là vì đa số các quốc gia, kể cả các cường quốc, đều muốn
sống trong một thế giới ổn định và có thể dự báo trước được một cách tương
đối hành vi của các thành viên khác trong cộng đồng quốc tế. Muốn có sự ổn
định đó, các quốc gia bắt buộc phải không ngừng hoàn thiện một khuôn khổ
pháp lý quốc tế nhất định trong từng thời kì lịch sử nhất định, tùy thuộc vào
những phát triển của quan hệ quốc tế và nhu cầu khách quan của các quốc
gia trong việc điều chỉnh các quan hệ nói trên. Trong giai đoạn hợp tác đối
thoại hiện nay,sự phát triển của luật pháp quốc tế có vai trò quan trọng trong
việc điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực của đời sống.
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, khoa học kĩ thuật, văn hoá xã
hôi…
I, Định nghĩa và khái quát về luật quốc tế.
1, Định nghĩa:
Luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được
các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thoả thuận tạo dựng nên, trên
cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa
các quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Đó
là các nguyên tắc và các quy phạm áp dụng chung mà không có sự phân biệt
về tính chất, hình thức hay vị thế của từng quốc gia khi thiết lập quan hệ
quốc tế giữa những chủ thể này với nhau.
2, Đặc trưng của luật quốc tế:

1


.Từ định nghĩa ta có thể tìm thấy những dấu hiệu chung nhất của luật


quốc tế, đó là:
+ Thứ nhất, luật quốc tế được hình thành trên cơ sở đấu tranh và thoã
thuận giữa các quốc gia có chủ quyền và bình đẳng với nhau trong quan hệ
quốc tế.
+ Thứ hai, nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế chủ yếu do các
quốc gia xây dựng thông qua thoã thuận, bằng cách kí kết hoặc thông qua
các điều ước quốc tế hoặc cùng thừa nhận những tập quán pháp lý quốc tế
liên quan. Ngoài quốc gia là chủ thể cơ bản còn có các chủ thể khác của luật
quốc tế cũng tham gai xây dựng nên những nguyên tắc và quy phạm đó.
+ Thứ ba, đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế bao gồm những quan
hệ pháp lý vượt ra ngoài phạm vi của một quóc gia trong các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hôi, mà chủ yếu là các quan hệ mang tính chất chính
trị.
+ Thứ tư, luật quốc tế điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa các quốc gia
với nhau hoặc với các chủ thể khác của nó( tổ chức quốc tế liên chính phủ,
dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết, và nhóm chủ thể đặc biệt). Đó
là các mối quan hệ trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hôi,….
+ Thứ năm, biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm hiệu quả của những
quy phạm pháp luật quốc tế được các chủ thể áp dụng đa dạng, thể hiện bằng
các hình thức đơn lẻ cũng như tập thể gây thiệt hại cho lợi ích của các chủ
thể vi phạm

II, Vai trò của luật quốc tế trong giai đoạn hợp tác đối thoại
hiện nay:
1, Vai trò của luật quốc tế trong lĩnh vực hoà bình, an ninh, chính trị:
1.1 Luật quốc tế góp phần gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế:

2



Trong các biện pháp và phương tiện bảo đảm hòa bình và an ninh quốc tế,
pháp luật được coi là phương tiện hữu hiệu nhất. Luật điều chỉnh các hoạt
động gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế chủ yếu bao gồm các điều ước
quốc tế toàn cầu, khu vực, đa phương và song phương, trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến lĩnh vực này.
Hiến chương LHQ là điều ước quốc tế phổ cập có vai trò quan trọng
nhất, đặt cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật quốc tế nói chung, cho giữ
gìn hòa bình và an ninh quốc tế nói riêng. Trong lời nói đầu, Hiến chương đã
khẳng định quyết tâm của các nước thành viên LHQ là: “Phòng ngừa cho
những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh đã hai lần xảy ra trong đời
chúng ta, gây cho nhân loại đau thương không kể xiết”. Ở phạm vi toàn cầu,
ngoài Hiến chương LHQ, còn có các điều ước quốc tế trong lĩnh vực giải trừ
quân bị. Trong quan hệ song phương, có các điều ước quốc tế về hòa bình và
hữu nghị, được kí kết giữa các quốc gia láng giềng hoặc giữa các quốc gia,
tuy ở cách xa nhau về mặt địa lý nhưng là bạn bè và đối tác tin cậy của nhau.
Bên cạnh đó, còn có các điều ước quốc tế có ý nghĩa quan trọng của quá
trình giải trừ quân bị, được kí kết giữa các cường quốc quân sự hàng đầu thế
giới. Ngoài các điều ước quốc tế song phương và đa phương, toàn cầu và
khu vực, trực tiếp điều chỉnh các vấn đề về giữ gìn hòa bình và an ninh quốc
tế, các nghị quyết quan trọng cuả LHQ, mang tính khuyến nghị cũng được
coi là phương tiện bổ trợ nguồn trong lĩnh vực này.
Ngay trong các nguyên tắc của Luật quốc tế, vai trò này đã được thể
hiện rất rõ, nhất là nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
trong quan hệ quốc tế. Nội dung của nguyên tắc này được ghi nhận cụ thể
trong Tuyên bố 1970 của Đại hội đồng LHQ: “Mỗi quốc gia có nghĩa vụ từ
bỏ việc đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực để vi phạm biên giới quốc gia

3



của các nước khác hoặc dùng nó làm phương tiện để giải quyết các tranh
chấp quốc tế, kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề có liên quan đến
biên giới các nước”. Nguyên tắc này không chỉ bao gồm việc cấm sử dụng
lực lượng vũ trang hoặc khuyến khích sử dụng vũ trang mà còn cấm cả
những biện pháp khác nhằm chống lại chủ quyền thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia. Thuật ngữ “vũ lực” theo Hiến chương LHQ không chỉ
đơn thuần là sức mạnh vũ trang mà còn được hiểu bao gồm cả các loại sức
mạnh phi vũ trang khác như sức mạnh về kinh tế, chính trị, sử dụng lực
lượng vũ trang không nhằm tấn công xâm lược quốc gia khác nhưng để gây
sức ép, đe dọa đến quốc gia đó. Những hoạt động này cũng bị coi là vi phạm
nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực.
Trước đây, khi sức mạnh quân sự thường được các nước tận dụng một
cách triệt để thì hiện nay, trong giai đoạn hợp tác và đối thoại, vị trí của biện
pháp này đã bị suy giảm. Luật quốc tế bằng những quy định của mình đã,
đang và sẽ giúp cho con người tránh khỏi những cuộc chiến tranh khốc liệt.
Một cơ chế mới đã được Luật quốc tế quy định nhằm giải quyết những vấn
đề liên quan đến an ninh quân sự thông qua LHQ và Hội đồng bảo an. Với
192 thành viên, LHQ với Hội đồng bảo an đang trở thành cơ quan có vai trò
rất quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới.
Các tổ chức quốc tế và các quốc gia đã nỗ lực tham gia vào công việc
gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế như hoạt động gìn giữ hòa bình ở châu
Phi, đàm phán về vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, triển khai một
phái bộ của Liên minh châu Âu tới Kosovo dưới sự bảo trợ của LHQ…
Ngày 16/12/2008, Hội đồng Bảo an LHQ đã thông qua một nghị quyết nhằm
tiếp thêm động lực cho tiến trình hoà bình giữa Israel và Palestine. Đây là
lần đầu tiên trong vòng 5 năm qua Hội đồng bảo an LHQ gồm 15 nước

4



thành viên đã thông qua một nghị quyết liên quan đến Trung Đông. Như
vậy, có thể thấy, rất nhiều vấn đề có ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh
quốc tế hiện tại đang được luật quốc tế điều chỉnh và giải quyết theo nguyên
tắc hoà bình đối thoại và hơpk tác cùng phát triển.
1.2 Vai trò của luật quốc tế trong lĩnh vực chính trị :
Luật quốc tế có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển quan
hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia. Sự hợp tác và các mối quan hệ bang
giao giữa các quốc gia chỉ có thể phát triển trong môi trường ổn định và có
đủ độ tin cậy lẫn nhau. Pháp luật quốc tế là phương tiện có ý nghĩa quan
trọng trong việc tạo lập môi trường ổn định đó. Bên cạnh các quy phạm tùy
nghi cho phép các chủ thể có quyền thỏa thuận để lựa chọn cách xử sự cho
mình, pháp luật quốc tế còn chứa đựng các nguyên tắc, quy phạm mệnh lệnh
có giá trị bắt buộc đối với mọi chủ thể khi tham gia quan hệ quốc tế như
nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, nguyên tắc không can
thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, nguyên tắc các quốc gia có
trách nhiệm hợp tác với nhau, nguyên tắc tự nguyện thực hiện các cam kết
quốc tế…một mặt, các nguyên tắc, quy phạm này đóng vai trò làm nền tảng
cho việc thiết lập và phát triển quan hệ bền vững,lâu dài giữa các chủ thể.
Mặt khác, trên cơ sở các nguyên tắc và quy phạm đó một trật tự sẽ được
thiết lập trong đó quốc gia cũng như các chủ thể khác của pháp luật quốc tế
phải tôn trọng, thực hiện tất cả những cam kết quốc tế của mình và phải chịu
trách nhiệm về những hành vi vi phạm cam kết quốc tế đó. Chính điều này
sẽ tạo ra sự tin tưởng và thúc đẩy quá trình giao lưu, hợp tác giữa các quốc
gia trên tất cả các lĩnh vực, cho dù các quốc gia này có chế độ chính trị - xã
hội và hệ thống pháp luật khác nhau.

5


Trong giai đoạn hợp tác và đối thoại hiện nay vai trò của luật quốc tế

đối với tình hình chính trị của thế giới là vô cùng quan trọng. Điều đó thể
hiện thông qua việc kí kết nhiều điều ươc song phương và đa phương về
ngoại giao, mở rộng quan hệ về chính trị giữa các quốc gia. Đặc biệt phải
nói đến sự ra đời của nhiều cộng đồng các quốc gia liên minh với nhau về
chính trị để từ đó thúc đẩy sự phát triển về kinh tế văn hoá xã hôi, giải quyết
hoà bình và an ninh chung cho các quốc gia thành viên. Điển hình đó là sự
ra đời và hoạt động rất mạnh mẽ của Liên minh châu Âu EU. EU ra đời năm
1951 và hiện tại có 27 thành viên. Đây thực sự là một khối cộng đồng các
quốc gia hùng mạnh, là một liên minh chính trị sâu sắc với những đặc trưng:


Tất cả các công dân của các nước thành viên được quyền tự do đi lại
và cư trú trong lãnh thổ của các nước thành viên.



Được quyền bầu cử và ứng cử chính quyền địa phương và Nghị viện
châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào mà họ đang cư trú.



Thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung trên cơ sở hợp
tác liên chính phủ với nguyên tắc nhất trí để vẫn bảo đảm chủ quyền
quốc gia trên lĩnh vực này.



Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu Âu.




Mở rộng quyền của Cộng đồng trong một số lĩnh vực như môi trường,
xã hội, nghiên cứu...



Phối hợp các hoạt động tư pháp, thực hiện chính sách chung về nhập
cư, quyền cư trú và thị thực
Như vậy, sự ra đời và hoạt động của EU đã tạo ra cho thế giới một

cộng đồng các quốc gia lớn mạnh và thực sự trở thành một đối trọng lớn về
mặt chính trị, quốc phòng cũng như về kinh tế đối với các cường quốc như

6


Mỹ, Nga, góp phần giảm chiến tranh và bạo lực giữa các quốc gia. Nâng cao
tinh thần đối thoại hợp tác trong các lĩnh vực của các chủ thể luật quốc tế.
Ở một phạm vi hẹp hơn đó là sự ra đời của cộng đồng các quốc gia
ASEAN. Đây là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8
tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Singapore, và Philippines, để tỏ rõ tình đoàn kết giữa các nước
trong cùng khu vực với nhau, đồng thời hợp tác chống tình trạng bạo động
và bất ổn tại những nước thành viên. Sự ra đời của ASEAN mặc dù còn
nhiều hạn chế không thể so sánh về quy mô và chất lượng vợi EU nhưng với
sự ra đời cua mình ASEAN đã khẳng định một tiếng nói riêng của mình,
những quốc gia bé nhỏ đang phát triển giờ đây đã biết dựa vào nhau để tạo
thành một khối thống nhất chống lại những thù địch bên ngoài cũng như giải
quyết êm thoã những mâu thuẫn bên trong.

2. Vai trò của luật quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, thuơng mại:
2.1 Quan hệ thương mại quốc tế:
Để đảm bảo quyền và lợi ích của nhau trong thương mại, đảm bảo quá trình
phát triển có hiệu quả của hợp tác kinh tế quốc tế, Luật quốc tế là công cụ
pháp lí điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế. Đó là sự ra đời của tổ chức
thương mại thế giới WTO nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương
mại giữa các nước. Những quy tắc này ghi nhận trong Hiến chương của
WTO. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về
Thương mại và Việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Hiến chương quy
định, ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại, WTO còn
hoạt động như một trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các nước thành
viên liên quan đến việc áp dụng quy định của WTO. Không giống như các tổ
7


chức quốc tế khác, WTO có quyền lực đáng kể trong việc thực thi các quyết
định của mình thông qua việc cho phép áp dụng trừng phạt thương mại đối
với thành viên không tuân thủ theo phán quyết của WTO. Một nước thành
viên có thể kiện lên Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO nếu như họ
tin rằng một nước thành viên khác đã vi phạm quy định của WTO Hiến
chương ITO đề cập tới các vấn đề chung nhất về lĩnh vực thương mại, như
các điều kiện hợp tác chung của các quốc gia trong lĩnh vực thương mại; quy
định chế độ pháp lí mà các bên hữu quan dành cho nhau trong lĩnh vực thuế
quan, xuất - nhập khẩu hàng hóa, thương mại, hàng hải, vận tải và quá cảnh;
hoạt động của thể nhân, pháp nhân nước kí kết này trên lãnh thổ nước kí kết
khác đều dựa trên thỏa thuận giữa các quốc gia thông qua các điều ước quốc
tế song phương và đa phương. Trên cơ sở đó, các thỏa thuận và hoạt động về
từng lĩnh cụ thể của hợp tác thương mại giữa các quốc gia mới được triển
khai. Ví dụ, liên quan đến quan hệ trao đổi thương mại cụ thể, các bên có thể
kí kết các hiệp định thương mại quốc tế, ghi nhận số lượng hạn định được

chính phủ các bên hữu quan nhất trí đồng ý và ghi nhận trong danh mục trao
đổi hàng hóa giữa các bên. Theo các quy định của hiệp định dài hạn, danh
mục hàng hóa có thể được bổ sung và quy định rõ thêm theo sự thỏa thuận
đồng ý của các bên hữu quan. Theo quy định, hàng năm các chính phủ sẽ kí
nghị định thư về cung cấp hàng hóa trên cơ sở của hiệp định dài hạn. Nội
dung pháp lí quốc tế cơ bản của hiệp định lưu thông hàng hóa là vấn đề
chính phủ các bên hữu quan thỏa thuận nhất trí chung số lượng hạn định
hàng hóa và nghĩa vụ tương ứng dành cho mỗi quốc gia tham kết.
Tất cả các hiệp định hàng hóa đều góp phần quan trọng trong việc ổn
định giá cả của thị trường thế giới bằng biện pháp cân bằng giữa cung và
cầu, mở rộng hợp tác quốc tế trên thị trường thế giới, đảm bảo tư vấn giữa
các quốc gia, cải thiện tình hình trong nền kinh tế thế giới, phát triển thương
8


mại, quy định giá cả hợp lí đối với sản phẩm nông nghiệp và nguyên liệu
khoáng sản…
Hiện nay, đã có nhiều thoã thuận kí kết giữa các quốc gia với nhau,
giữa các khu vực về hợp tác thương mại, ta có thể nói đến việc Ban Thư ký
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Ban thư ký Diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đã đưa ra sáng kiến nhằm thúc
đẩy thương mại giữa các quốc gia ASEAN và các nền kinh tế thành viên
APEC. Với việc thúc đẩy hoạt động thương mại này sẽ mở ra một cơ hội lớn
cho tất cảc các quốc gia Đông nam á có thể đẩy mạnh phát triển thương mại
đặc biệt khi tiếp xúc với những nền kinh tế thương mại lớn trong cộng đồng
APEC như Mỹ, Nhật… để có thể kêu gọi được sự đầu tư và hợp tác phát
triển kinh tế thương mại của những đối tác này. Vì bên cạnh lĩnh vực thương
mại, Ban Thư ký hai bên đã xác định các lĩnh vực khác có thể phối hợp hoạt
động như khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), giảm nhẹ thảm họa,
kết nối hệ thống cung ứng sản phẩm, y tế và quản lý dự án.

2.2 Quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế:
Quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế phát sinh trong mọi lĩnh vực hợp
tác kinh tế quốc tế khác nhau giữa các quốc gia, như trong hoạt động thương
mại quốc tế, giúp đỡ về kinh tế và kĩ thuật, trong lĩnh vực đầu tư… Cũng
như hợp tác quốc tế thương mại, quan hệ hợp tác tài chính - tiền tệ quốc tế
hầu hết là trên cơ sở các thỏa thuận quốc tế mà quan trọng hơn cả là các hiệp
định tín dụng và hiệp định thanh toán. Hiệp định tín dụng điều chỉnh quan hệ
giữa các quốc gia trong việc giúp đỡ kĩ thuật, khi xây dựng các cơ sở công
nghiệp, khi tiến hành các hoạt động mậu dịch hàng hóa. Hiệp định thanh
toán quốc tế là công cụ pháp lí để điều tiết các quan hệ tiền tệ, tài chính quốc
tế khác giữa các quốc gia. Đây là các hiệp định liên chính phủ về trình tự
thanh toán sau khi cung cấp hàng hóa hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ
9


hay các hoạt động thương mại và phi thương mại khác trong quan hệ thương
mại quốc tế.
Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ thế giới đáng nói chính là sự ra đời
của Quỹ tiền tệ thế giới( IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài
chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như
hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. Để thành lập ra quỹ này,
các nứơc thành viên đã kí kết một hiệp ước, có thể được xem là hiến chương
của tổ chức này. IMF ra đời làm việc nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu,
thiết lập tài chính an toàn, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế,
đẩy mạnh việc làm và tăng trưởng kinh tế cao, và giảm bớt đói nghèo. Với
ngoại lệ của Bắc Triều Tiên, Cuba, Liechtenstein, Andorra, Monaco, Tuvalu
và Nauru, tất cả các nước thành viên của Liên Hiệp Quốc tham gia trực tiếp
vào IMF hoặc được đại diện cho bởi những nước thành viên khác. Trong
những thập kỷ sau chiến tranh thế giới hai, kinh tế thế giới và hệ thống tiền
tệ có thay đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng và thích hợp trong việc

đáp ứng mục tiêu của IMF, nhưng điều đó cũng có nghĩa là yêu cầu IMF
thích ứng và hoàn thiện cải tổ. Những tiến bộ nhanh chóng trong kỹ thuật
công nghệ và thông tin liên lạc đã góp phần làm tăng hội nhập quốc tế của
các thị trường, làm cho các nền kinh tế quốc dân gắn kết với nhau chặt chẽ
hơn. Xu hướng bây giờ mở rộng nhanh chóng hơn số quốc gia trong IMF.
Rõ ràng IMF với những hiệp định, kí ước trong tổ chức này đã góp phần
điều chỉnh quan hệ tiền tệ tài chính của các nước thành viên nói riêng và của
toàn thế giới nói chung. Giúp tăng cưòng khả năng hội nhập quốc tế cho
nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia còn nhiều khó khăn về kinh tế tài
chính.
2.3 Các hoạt động đầu tư nước ngoài :
10


Để điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài, cộng
đồng quốc tế đã sử dụng điều ước quốc tế đa phương và song phương là chủ
yếu. Cho đến nay, chưa có điều ước quốc tế đa phương toàn cầu nào điều
chỉnh toàn bộ các lĩnh vực của đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các điều ước
song phương và đa phương khu vực đã điều chỉnh hầu hết quan hệ giữa các
nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Rất nhiều hiệp định song phương
về khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã được kí kết. Các nước xuất khẩu vốn
lớn trên thế giới và hơn 80 quốc gia đang phát triển đã tham gia vào các hiệp
định song phương thuộc loại này. Tuy các hiệp định song phương về đầu tư
có hạn chế là chỉ ràng buộc hai quốc gia tham gia hiệp định nhưng chúng đã
góp phần đặt nền móng cho một khuôn khổ đầu tư quốc tế mà cộng đồng các
quốc gia có quyền hi vọng cuối cùng sẽ thu hút được sự nhất trí của tất cả
các nước trên thế giới.Bên cạnh hiệp định song phương, hiệp định đầu tư đa
phương khu vực cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cái nền
móng ấy.
3. Vai trò của luật quốc tế trong các lĩnh vực văn hoá, xã hôị, khoa học

-kĩ thuật và các lĩnh vực khác:
3.1 Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học - kĩ thuật:
Trong quá trình trao đổi các thành quả khoa học - kĩ thuật giữa các quốc gia,
cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ này ngày càng hoàn thiện, hệ
thống hợp tác toàn cầu trong lĩnh vực khoa hoc - kĩ thuật được hình thành.
Hệ thống các quy phạm luật quốc tế điều chỉnh hợp tác của các quốc gia
trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật đã tạo nên nền tảng của hợp tác quốc tế về
khoa học - kĩ thuật.
Các hiệp định về hợp tác khoa hoc – kĩ thuật xác định các triển vọng
chung, xu hướng mới và các lĩnh vực hợp tác thương mại – kinh tế, công
nghiệp và khoa học – kĩ thuật đồng thời đưa ra các hình thức tổ chức được
11


thành lập giúp đỡ thúc đẩy việc thực hiện sự hợp tác này trong thời hạn quy
định.
Bên cạnh đó, các hiệp định về hợp tác khoa học – kĩ thuật tạo điều
kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển tiếp cận có hiệu quả thành tựu
khoa học –kĩ thuật và công nghệ. Trong các hiệp định quy định các bên có
nghĩa vụ giúp đỡ thúc đẩy hợp tác giữa các tổ chức và xí nghiệp hữu quan
của cả hai quốc gia, tạo lập các điều kiện thích hợp để thực hiện và phát triển
quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
Ngày nay, nhờ áp dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, giao lưu quốc tế đã phá vỡ tính chất tự
nhiên, khép kín, biệt lập trong phạm vi quốc gia, mở rộng không gian và môi
trường quốc tế, hình thành thị trường thế giới thống nhất và rộng mở. Trong
điều kiện đó, pháp luật với những phương tiện hợp tác đa dạng, phong phú
và rất linh hoạt như Điều ước quốc tế, diễn đàn hợp tác quốc tế, tổ chức
quốc tế…đã đóng vai trò quan trọng trong việc vừa bảo đảm chủ quyền và
lợi ích quốc gia, vừa thúc đẩy phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các

quốc gia trên tất cả các lĩnh vực.
3.2 Vai trò của luật quốc tế đối với các vần đề xã hội, văn hoá:
Trong pháp luật quốc tế, vấn đề quyền con người chính thức được ghi
nhận lần đầu tiên tại Hiến chương Liên Hiệp Quốc và tuyên ngôn quyền con
người 1948. Kể từ đó, bảo vệ quyền con người đã trở thành trách nhiệm của
tất cả các quốc gia trên thế giới và nguyên tắc bảo vệ quyền con người trở
thành một trong những nguyên tắc của pháp luật quốc tế.
Tính đến nay, có rất nhiều công ước đa phương về quyền con người
đã được kí kết. Đó là chưa kể đến các công ước về quyền con người mang
tính khu vực như công ước về nhân quyền ở Châu Âu, công ước về nhân
quyền ở Châu Mỹ, Hiến chương về quyền con người ở Châu Phi. Trong các
12


công ước này, có công ước đề cập toàn diện đến các quyền cơ bản của con
người nhưng cũng có những công ước chỉ đề cập đến quyền cơ bản của một
số đối tượng cụ thể như phụ nữ, trẻ em, người tị nạn…hoặc chỉ đề cập đến
quyền con người trong một lĩnh vực cụ thể như chống phân biệt chủng tộc,
chống diệt chủng, bảo hộ nạn nhân chiến tranh…
Pháp luật quốc tế không dừng lại ở việc ghi nhận các quyền cơ bản
của con người mà còn có cả những biện pháp bảo đảm cho các quyền đó
được thực hiện trên thực tế. Các biện pháp trừng phạt về kinh tế, ngoại giao,
quân sự…không chỉ được cộng đồng quốc tế áp dụng với những các quốc
gia có hành vi đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh quốc tế mà còn
được áp dụng cả với những quốc gia có hành vi vi phạm các quyền cơ bản
của con người đã được ghi nhận trong các Điều ước quốc tế.
Trong vấn đề văn hoá xã hôị, giáo dục phải kể đến sự ra đời của tổ
chức UNESCO- Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp
quốc UNESCO được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1945 với việc ký kết
Công ước thành lập của UNESCO, ngày 4 tháng 11 năm 1946, là một trong

những tổ chức chuyên môn lớn của Liên hiệp quốc, hoạt động với mục đích
"thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hóa để
đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho
tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo"
(Công ước thành lập UNESCO).
Vai trò của UNESCO thể hiện: Khuyến khích sự hiểu biết và thông
cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng
rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do
giao lưu tư tưởng bằng ngôn ngữ và hình ảnh; Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo
dục quần chúng và truyền bá văn hóa; Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến
13


thức. Như vậy, thông qua UNESCO với những nội quy luật lệ của tổ chức
này đã trở thành nguồn của luật quốc tế điều chỉnh đời sống văn hoá xã hội
của thế giới nói chung giúp nền văn hoá xã hội thế giới ngày càng gắn kết và
phát triển mạnh mẽ trong xu thế hội nhập.

III. Tác động của luật quốc tế đối với Việt Nam.
Về mặt chính trị, Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên Hiệp
Quốc từ năm 1977, Hiện nay, sự giúp đỡ của Liên Hợp Quốc đã góp phần
tích cực phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Đồng thời, Liên Hợp Quốc trở thành một diễn đàn để Việt Nam triển khai
các nhiệm vụ đối ngoại. Vị thế và vai trò của Việt Nam tại Liên Hợp Quốc
ngày càng được nâng cao. Sự tham gia và hoạt động tích cực của Việt Nam
ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích cực và đó là cơ sở để
Việt Nam ứng cử vào ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
Về lĩnh vực thương mại, Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO vào tháng 10 năm 2006. các nguyên tắc cơ bản

của WTO là không phân biệt đối xử và minh bạch hóa. Nguyên tắc không
phân biệt đối xử được bảo đảm thông qua Quy chế tối huệ quốc (MFN - có
nghĩa là không phân biệt đối xử giữa các nước đối tác của mình) và Quy chế
đối xử quốc gia (NT - có nghĩa là không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp,
sản phẩm, dịch vụ trong nước với doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ của nước
ngoài). Với việc ra nhập WTO Việt Nam đang đứng trước những thời cơ
thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu kinh tế, thu hút đàu tư nươc
ngoài cho việc phát triển kinh tế trong nước. Tuy nhiên, những khó khăn và
thách thức cũng không ít. Nếu không theo kịp xu thế của thời đại thì nền
14


kinh tế đất nước sẽ nhanh chóng tụt hậu, và thậm chí còn có thể bị các nền
kinh tế lớn khác nuốt chửng.
Về vấn đề nhân quyền, Việt Nam đã trở thành thành viên của hầu hết
các công ước quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc về quyền con người , cụ
thể là 8 công ước sau: Công ước về Quyền Dân sự, Chính trị; Công ước về
quyền Kinh tế, Văn hoá, Xã hội; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng
tộc; Công ước Quyền Trẻ em; và hai Nghị định thư bổ sung về trẻ em trong
xung đột vũ trang và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và
tranh ảnh khiêu dâm; Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt các tội ác Apác-thai; Công ước về không áp dụng những hạn chế luật pháp đối với tội
phạm chiến tranh và tội chống nhân loại. Kể từ khi trở thành thành viên của
Tổ chức Lao động thế giới (ILO), Việt Nam đã gia nhập 15 công ước quốc
tế về quyền lao động, trong đó có những công ước quan trọng như: Công
ước số 5 về Tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia vào lao động công
nghiệp; Công ước số 100 về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ;
Công ước số 111 về Không phân biệt đối xử trong việc làm và nghề
nghiệp…
Về văn hoá xá hội thì Việt Nam chính thức gia nhập UNESCO từ

tháng 7/1976 .Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam được thành lập
ngày 5/7/1977. Với sự kiện này đã giứp cho Việt Nam có nhiều cơ hội để
phát triển một nền văn hoá xã hội khoa học uyên bác và phù hợp với nền văn
minh nhân loại.

15


KẾT BÀI
Trước đây, hiện nay và mãi về sau này, pháp luật quốc tế vẫn luôn thể
hiện sự thỏa hiệp về lợi ích giữa các chủ thể, trước hết là giữa các quốc gia
trong quá trình vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau. Pháp luật quốc tế cũng
đồng thời phản ánh tương quan giữa các lực lượng tiến bộ và lực lượng phản
động trên trường quốc tế. Hiện nay, tương quan lực lượng của cuộc đấu
tranh trên vũ đài quốc tế đang nghiêng về phía các lực lượng đấu tranh cho
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, do đó pháp luật quốc tế
cũng đang phát triển theo chiều hướng ngày càng tiến bộ.

16


MỤC LỤC

17



×