Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích các tính chất cơ bản của dư luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.33 KB, 14 trang )

I.

Định nghĩa về dư luận xã hội
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét đánh

giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước vấn đề mang tính
thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều
người và được thể hiện trong nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
II.

Phân tích các tính chất cơ bản của dư luận xã hội
1. Tính khuynh hướng
Thái độ chung của dư luận xã hội đối với mỗi hiện tượng, sự kiện , quá trình xã hội có thể

khái quát theo các khuynh hướng nhất định gồm tán thành, phản đối hay lưỡng lự ( chưa rõ thái
độ). Cũng có thể phân chia dư luận xã hội theo các khuynh hướng như tích cực hoặc tiêu cực, tiến
bộ hoặc lạc hậu… Ở mỗi khuynh hướng thái độ tán thành hoặc phản đối lại có thể phân chia theo
mức độ cụ thể như rất tán thành, tán thành, lưỡng lự, phản đối, rất phản đối. Cùng đứng trước
một vấn đề mang tính thời sự nhưng tùy vào trình độ nhận thức, quan điểm, suy nghĩ của mỗi
người họ lại đánh giá về vấn đề một cách khác nhau. Ví dụ, trong xã hội hiện nay có trào lưu hầu
đồng, đó là thế giới rộn ràng tiếng nhạc, nỉ non lời hát chầu văn, nghi ngút khói hương và những
đàn đại mã hóa thành tro. Thế giới của những đền, những phủ, những đồng cô, đồng cậu với con
nhang đệ tử trong buổi hầu đồng khấn bóng. Lao vào thế giới đó ngoài những người buôn bán còn
có cả người tri thức, thậm chí là cả những người đang giữ cương vị ở bộ nọ ngành kia…Cùng đứng
trước một hiện tượng tâm linh như thế có người cho đây là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân
gian của nhân dân nơi thờ tự ( thuộc dòng Saman giáo của nhiều dân tộc). Ở Việt Nam lên đồng là
một nghi lễ không thể thiếu trong các nơi thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh
Trần. Trong khi lên đồng, đồng cô, đồng cậu những người nhảy, múa, hát để hầu đồng sẽ thay
khăn áo, múa gươm, bơi thuyền, uống rượu, hút thuốc,v..v. Các cung văn là những người hát hầu
ngâm bài thơ cổ và hát chầu văn. Các thanh đồng sẽ tung tiền, tung lộc như là may mắn đến với ai
nhận được như là may mắn của người đó. Lên đồng bản chất là một nét đpẹ văn hóa dân gian của


người Việt, nó vẫn được chấp nhận, được ngợi ca nhưng vì mục đích của kẻ xấu, lợi dụng tín
ngưỡng văn hóa hầu đồng để hành nghề mê tín dị đoan. Ông bà ta xưa có câu “ thứ nhất là tu tại
gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Vậy mà hiện nay khi cuộc sống no đủ, những kẻ “ phú quý sinh
lễ nghĩa” sẵn sàng bỏ ra hàng trăm triệu đồng cho một đàn hầu, đàn hát với một mong muốn “
phú quý hơn, phú quý mãi mãi”. Với số tiền như vậy phục vụ cho hầu đồng, không ít kẻ mê muội
trở nên khánh kiệt. Như thế thì có nên “ tu chùa” không? Con người tìm đến với chùa, đình, với
thần, thánh là để nhớ tới ông bà tổ tiên, để tìm thấy sự bình an thanh thản trong tâm hồn và
nguyện cầu cho những điều may mắn trong cuộc sống đời thường. Đó mới là nét đẹp của tín

1


ngưỡng. Chính vì vậy mà trong xã hội mới có rất nhiều quan điểm trái ngược về văn hóa hầu đồng.
Có người cho là văn hóa tín ngưỡng, có người phê phán là mê tín dị đoan, và có người không có ý
kiến gì nghĩ đó là một câu chuyện bình thường trong cuộc sống,… Vậy nên nghe theo ai, tùy vào
hoàn cảnh thái độ của con người nhìn nhận đánh giá vấn đề một khác. Nếu không có mê tín dị
đoan, chúng ta sẽ coi đó là hiện tượng tốt nó thể hiện sự thống nhất. Và ngược lại, chúng ta sẽ có
cả hai luồng ý kiến : có thể là tốt, có thể là không tốt khi đó dư luận xã hội đi ngược chiều nhau và
sẽ gây ra tranh cãi.

Tính khuynh hướng cũng biểu hiện sự thống nhất hay xung đột của dư
luận xã hội. Xét theo các mức độ tán thành hoặc phản đối được nêu trên, nếu
đồ thị phân bố dư luận xã hội có hình chữ U thì biểu thị sự xung đột; nếu đồ
thị phân bố dư luận xã hội có hình chữ J thì biểu thị sự thống nhất. Đồ thị
phân bố dư luận xã hội có dạng hình chữ U khi trong xã hội có hai loại quan
điểm mâu thuẫn đối lập nhau về cùng sự kiện, hiện tượng quá trình xã hội nào
đó đều có tỉ lệ số người ủng hộ cao. Trong xã hội nhất định nếu thái độ dư
luận xã hội với phần lớn các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội có dạng phân bố
hình chữ U thì điều đó có nghĩa là xã hội đó đang đứng bên bờ vực của cuộc
nội chiến. Khi đồ thị phân bố hình chữ J thì chỉ có một loại quan điểm ( tán

thành hoặc phản đối) có tỉ lệ số người ủng hộ cao mà thôi, điều đó biểu thị sự
thống nhất trong dư luận xã hội.
2. Tính lợi ích
Để trở thành đối tượng của dư luận xã hội, các sự kiện, hiện tượng xã
hội đang diễn ra phải được xem xét từ góc độ chúng có mối quan hệ mật thiết
với lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội. Tính lợi ích của dư
luận xã hội được nhìn nhận trên hai phương diện là lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần.
Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra trong
xã hội có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống
của đông đảo người dân. Chẳng hạn các chủ trương của Đảng và Nhà nước về
khoán trong nông nghiệp, về cải cách chế độ tiền lương, các quyết định tăng

2


giá xăng dầu, điều chỉnh mức thu tiền điện thoại,… đều là những ví dụ sinh
động cho mối liên quan này. Cụ thể với ví dụ về chế độ tiền lương: trong khi
nền kinh tế nền kinh tế suy thoái trầm trọng, Quốc hội thông qua quyết định
nâng mức lương cơ bản của công nhân viên chức lên 1.050000 đồng. Đây là
điều đáng mừng nhưng với số tiền đó liệu có đủ sống cho 1 người/tháng. Lợi
ích vật chất đặt ra trước mắt người đi làm. Điều này khiến họ đắn đo chọn lựa
có nên vào làm Nhà nước hay không hay ra ngoài làm với mức lương cao
hơn? Một người bình thường cũng cần đầy đủ các nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại.
Vậy thì với mức lương như thế một người công nhân viên chức mới chắc
chắn không thể đáp ứng nổi nhu cầu bình thường nhất trong cuộc sống hàng
ngày.
Lợi ích tinh thần được đề cập khi các vấn đề, các sự kiện đang diễn ra
đụng chạm đến hệ thống giá trị chuẩn mực xã hội, các phong tục tập quán,
khuôn mẫu hành vi ứng xử của văn hóa cộng đồng xã hội hoặc của cả dân tộc.

Chẳng hạn cuộc chiến tranh do Mỹ đơn phương phát chống lại Irắc là quốc
gia có chủ quyền đã gây ra dư luận phản đối mạnh mẽ trên thế giới. Dư luận
phản đối không chỉ bởi những thiệt hại với người dân Irắc mà còn bởi sự nhận
thức đông đảo của người dân thế giới về nguy cơ tiềm tàng của chủ nghĩa đế
quốc và thực dân núp dưới chiêu bài “can thiệp nhân đạo”, tạo ra thứ tiền lệ
nguy hiểm cho các cuộc can thiệp sau này.
Lợi ích mới chỉ là điều kiện để thúc đẩy việc tạo ra dư luận xã hội.
Điều kiện đủ ở đây chính là sự nhận thức của các nhóm xã hội về lợi ích của
mình và mối quan hệ giữa chúng với sự kiện, hiện tượng quá trình xã hội
đang diễn ra. Có hai điểm đáng lưu ý:
Một là bản thân nhận thức về lợi ích là một tiến trình biến đổi và phát
triển giữa tính cá nhân và tính xã hội; giữa tính vật chất và tính tinh thần; giữa
tính trước mắt và tính lâu dài.
Hai là quá trình trao đổi , thảo luận ý kiến dẫn đến dư luận xã hội là quá
trình giải quyết mâu thuẫn lợi ích. Trong công việc này nhóm xã hội nào có tổ
3


chức tốt thành lực lượng thì nhóm xã hội đó sẽ thành công hơn trong việc bảo
vệ quan điểm và lợi ích của mình và ngược lại.
3. Tính lan truyền
Dư luận xã hội được coi như là hành vi biểu hiện của hành vi tập thể,
hiện tượng được các nhà xã hội học rất quan tâm. Cơ sở của bất cứ hành vi
tập thể nào cũng là hiệu ứng phản xạ quay vòng, trong đó khởi điểm từ cá
nhân nhóm xã hội nhỏ sẽ gây nên chuỗi các kích thích của cá nhân khác,
nhóm xã hội khác. Để duy trì được các nhân tố này luôn cần có nhóm các
nhân tố tác động, đó có thể được coi là các thông tin bằng hình ảnh, âm thanh
sống động trực tiếp, có tính thời sự. Dưới tác động của các luồng thông tin
này, các nhóm công chúng khác nhau sẽ được lôi vào quá trình bày tỏ sự quan
tâm của mình thông qua các hoạt động trao đổi, bàn bạc, tìm kiếm thông tin,

cùng chia sẻ trạng thái tâm lí với người xung quanh. Đặc biệt đối với các sự
kiện lớn của đất nước như tình trạng của đất nước, các cuộc bầu cử hay các sự
kiện vượt ra ngoài hoạt động sống và làm việc bình thường của con người
như các vụ tội phạm nguy hiểm, nạn hạn hán, lũ lụt…Chẳng hạn như vụ án
giết người man rợ trong năm 2011 – vụ án Lê Văn Luyện. Đây là một vụ án
tốn không ít giấy mực của giới báo chí về hành động dã man của hung thủ.
Tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng y cướp tiệm vàng và giết hại 3 thành viên gia đình
chủ tiệm vàng. Sau khi vụ việc diễn ra ở đâu người ta cũng bàn tán xôn xao
về việc tên tội phạm sẽ bị xử như thế nào? Y có bị tử hình hay không?
V.v..Đặc biệt là trong phiên tòa xử vụ việc này vào ngày 10/1/2011 tại tòa án
nhân dân tỉnh Bắc Giang, hàng trăm người có mặt tại phiên tòa bàn tán, theo
dõi phiên tòa và thậm chí hỗn loạn chen lấn khi Lê Văn Luyện được đưa về
trại giam. Đến khi chúng ta có thể theo dõi và ghi nhận ảnh hưởng của các
luồng thông tin đến hành động quan tâm của công chúng. Khi đó sự hình
thành mạnh mẽ và lan truyền nhanh chóng của dư luận xã hội được thể hiện
rất rõ nét.
4. Tính bền vững và tính dễ biến đổi
4


Dư luận xã hội vừa có tính bền vững tương đối lại vừa có tính dễ biến
đổi. Có những dư luận xã hội chỉ qua một đêm là thay đổi nhưng cũng có dư
luận xã hội qua hàng thập niên vẫn không thay đổi. Tính bền vững của dư
luận xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với những sự kiện hiện tượng hay
quá trình quen thuộc, dư luận xã hội thường rất bền vững. Chẳng hạn sự đánh
giá rất cao của dư luận xã hội với cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ. Cái mới
lúc đầu chỉ được số ít thừa nhận và do đó dễ bị đa số phản đối. Nhưng ý kiến
của đa số sẽ nhanh chóng dễ dàng thay đổi khi cái mới vươn lên khẳng định
mình trong cuộc sống.
Tính biến đổi của dư luận xã hội thường được xem xét trên hai phương

diện sau:
+ Thứ nhất biến đổi theo không gian và theo môi trường văn hóa: Sự
phán xét đánh giá của dư luận xã hội về bất kì sự kiện hiện tượng hay quá
trình xã hội nào cũng phụ thuộc vào hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội
đang tồn tại trong nền văn hóa cộng đồng người. Với cùng sự việc, sự kiện
xảy ra, dư luận xã hội của các cộng đồng người khác nhau thể hiện sự phán
xét, đánh giá khác nhau. Chẳng hạn, hiện tượng tảo hôn, đa thê là hiện tượng
bình thường được chấp nhận ở các nước thuộc khu vực Trung Đông, Nam
Sahara (châu Phi) hay Ấn Độ nhưng chúng sẽ gặp phải sự phản ứng gay gắt
tại nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, mà lại bị phản đối mạnh mẽ, thậm chí bị
trừng phạt theo luật lệ tôn giáo ở Trung Đông, Ấn Độ.
+ Thứ hai – biến đổi theo thời gian: Cùng với sự phát triển của xã hội
nhiều giá trị văn hóa, chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán có thể biến đổi
ngay trong cùng nền văn hóa – xã hội dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn
nhận, đánh giá của dư luận xã hội. Chẳng hạn trong thời kì bao cấp ở nước ta
trước đây khi nhà nước chịu trách nhiệm chu cấp và đảm bảo cuộc sống tối
thiểu cho người dân thì các hoạt động buôn bán, kiếm lời cho cá nhân bị xã
hội lên án mạnh mẽ và quy kết thành tội đầu cơ, tích trữ. Còn trong thời kì
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hiện nay thì dư luận xã hội không còn
5


đánh giá các hoạt động đó một cách tiêu cực mà coi đó là hoạt động kinh
doanh thương mại bình thường. Nói như thế không có nghĩa là dư luận xã hội
không cảnh giác với trường hợp đặc biệt khẩn cấp như việc đầu cơ tích trưc
lương thực để bán kiếm lời sau những vụ bão lụt, mất mùa... Khi các hoạt
động này mang tính trục lợi và gây thiệt hại cho người dân loại hành vi đó cấu
thành tội đầu cơ quy định tại điều 160 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sẽ
bị dư luận xã hội lên án và pháp luật trừng trị.
Phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể, dư luận xã hội còn biến thành đối tượng

của các phán xét, đánh giá khi chúng phát hiện thêm mối liên quan giữa đối
tượng ban đầu với các sự kiện, hiện tượng quá trình diễn ra kèm theo nó. Mặt
khác, xuất phát từ các phán xét, đánh giá bằng lời, dư luận xã hội có thể
chuyển hóa thành hành động mang tính tự phát hoặc có tính tổ chức thể hiện
thái độ đồng tình hay phản đối của mình. Một mặt, dư luận xã hội tích cực lên
án đòi xử lí nghiêm khắc( thể hiện bằng ý kiến) các vụ tội phạm tấn công vào
các chiến sĩ công an khi đang thi hành nhiệm vụ. Mặt khác, chính người dân
đã tích cực quyên góp từ thiện( thể hiện bằng hành động) để hộ trợ một phần
cho gia đình của chiến sĩ công an đã dũng cảm hy sinh trong khi làm nhiệm
vụ này.
Dư luận xã hội về những vấn đề của đời sống xã hội có thể ở trạng thái
tiềm ẩn, không bộc lộ bằng lời( dư luận của đa số im lặng). Trong những xã
hội thiếu dân chủ, dư luận xã hội đích thực thường tồn tại dưới dạng tiềm ẩn.
Trong xã hội cũng thường có dư luận xã hội tiềm ẩn về sự việc, sự kiện sắp
tới chưa xảy ra, hiện thời chưa cấp bách. Ví dụ vấn nạn tham nhũng, hối lộ
của các quan chức cấp cao trong các cơ quan nhà nước, nếu ở nước đó thiếu
dân chủ thử hỏi mấy ai dám lên tiếng tố cáo? Điều này không phải không có ở
nước ta nhưng ngày nay khi nền dân chủ được đề cao, có rất nhiều người dám
lên tiếng tố cáo, chỉ đích danh kẻ ăn hối lộ, nhũng loạn chính trường tham ô
của dân. Việc làm ấy sẽ khiến người ta không đắn đo, suy nghĩ, hay phải bức
xúc khi biết được sự thật mà không thể hay không dám nói ra.
6


5. Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của
dư luận xã hội.
Sự phản ánh thực tế của dư luận xã hội có thể đúng ( đúng nhiều hoặc
đúng ít), có thể sai ( sai nhiều hoặc sai ít). Dù có đúng đến mấy thì dư luận xã
hội vẫn có những hạn chế, do đó không nên tuyệt đối hóa khả năng nhận thức
từ dư luận xã hội. Dù có sai đến mấy thì trong dư luận xã hội vẫn có những

hạt nhân hợp lí không thể coi thường được. Chân lí của dư luận không phụ
thuộc vào tính chất phổ biến của nó. Không phải lúc nào dư luận của đa số
cũng đúng hơn dư luận của thiểu số. Cái mới lúc đầu thường chỉ có một số
người nhận thấy, do đó dễ bị đa số phản đối. Đối với những vấn đề trừu
tượng, phức tạp, dư luận của giới tri thức, của người có trình độ học vấn cao
thường chín chắn hơn người có trình độ học vấn thấp. Điều này thể hiện rất rõ
khi người ta bàn tán về những vụ án hay tệ nạn trong xã hội. Cùng nói về mại
dâm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, với những người có trình độ học vấn thấp,
phần lớn họ sẽ có suy nghĩ mỉa mai, châm biếm, thậm chí chửi rủa những
người làm công việc này. Nhưng với người có học thức cao họ sẽ có suy nghĩ
lo ngại đáng buồn cho thế hệ trẻ, cho người là tương lai của đất nước mà
không được gia đình, xã hội giáo dục để có nhận thức đúng đắn.
III.

Tác động của dư luận xã hội với lĩnh vực pháp luật.

Tính phong phú, đa dạng của các bộ phận, các hình thái ý thức xã hội phản
ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống xã hội. Trong sự phát triển
chung của ý thức xã hội, các bộ phận, các hình thái ý thức xã hội luôn ảnh
hưởng, tác động qua lại với nhau. Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính
trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật… đều dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh
hưởng đến cơ sở kinh tế.
Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp, xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của pháp luật. Các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau có sự thể hiện
ý thức pháp luật khác nhau, trong đó ý thức pháp luật giữ vai trò chủ đạo là ý
7


thức pháp luật của giai cấp thống trị cầm quyền. Nhưng, trước khi có sự xuất

hiện nhà nước, pháp luật và cùng với đó là ý thức pháp luật, những yếu tố
tham gia định hướng và điều chỉnh ý thức, hành vi xã hội của con người lại
chính là đạo đức, phong tục, tập quán, truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng...
đặc biệt là dư luận xã hội.
Dư luận xã hội là sự biểu hiện trạng thái ý thức của một cộng đồng người,
là một phương thức tồn tại đặc biệt của ý thức xã hội. Trong cấu trúc của dư
luận xã hội luôn có mặt tất cả các thành phần, các yếu tố cấu thành ý thức xã
hội: nhận thức, tình cảm và ý chí, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, ý thức chính
trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức và thẩm mỹ... Dư luận xã hội với tư
cách một hiện tượng xã hội đặc biệt không tồn tại độc lập như là một thành
phần trong kết cấu nói trên, mà nó tham gia, có mặt trong tất cả các bộ phận,
các thành phần của ý thức xã hội. Vấn đề là ở chỗ, khi có một sự việc, sự
kiện, hiện tượng xã hội nào đó, dù là thuộc ý thức xã hội thông thường, ý thức
xã hội lý luận, tâm lý xã hội hay thuộc hệ tư tưởng xã hội, có đụng chạm đến
lợi ích của cộng đồng xã hội và thu hút được sự quan tâm chú ý của họ, thì
khi đó sẽ nảy sinh dư luận xã hội. Căn cứ vào nội dung và tính chất của các
bộ phận hợp thành, ý thức pháp luật bao gồm hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý
pháp luật.
• Tác động của ý thức pháp luật với hệ tư tưởng pháp luật
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có
tính chất lý luận và khoa học về pháp luật, phản ánh về pháp luật và các hiện
tượng pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm
trù khoa học. Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật, phổ biến các tư
tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội. Dư luận xã hội tác
động trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng
pháp luật. Với tư cách một hiện tượng xã hội, dư luận xã hội phản ánh tồn tại
xã hội nói chung, đồng thời phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra
trong đời sống xã hội. Sự bàn luận, trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong
8



xã hội về các sự kiện, hiện tượng pháp lý đưa tới kết quả là, họ đạt tới sự nhận
thức chung, thống nhất trong các phán xét, đánh giá về sự việc, sự kiện pháp
lý. Ban đầu, "chuẩn mực" chung chi phối quá trình thảo luận, bàn bạc giữa họ
là những thông tin, kiến thức, hiểu biết về pháp luật mà mỗi thành viên có
được từ những nguồn khác nhau, chủ yếu là những khái niệm cơ sở mang tính
kinh nghiệm. Các ý kiến bước đầu được đưa ra có thể khác nhau vì nhận thức
pháp luật của mỗi thành viên xã hội cũng khác nhau. Dần dần, các cuộc thảo
luận đi vào chiều sâu, nội dung các phán xét, đánh giá của dư luận xã hội
thường tập trung vào những vấn đề trọng tâm, đưa ra những nhận định phản
ánh đúng đắn bản chất của các sự kiện, hiện tượng pháp lý. Khi đã hình thành,
dư luận xã hội biểu thị thái độ, quan điểm, cảm xúc, ý chí tập thể của đại đa
số người trong cộng đồng xã hội trước thực tiễn đời sống pháp luật của xã
hội, thể hiện trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề mang tính
bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Một trong những đặc
điểm cơ bản của dư luận xã hội là tính lan truyền. Dư luận xã hội là sản phẩm
của tư duy phán xét, là sự thể hiện quan điểm, thái độ của các cá nhân trước
các hiện tượng pháp lý. Dư luận xã hội lan truyền càng rộng thì càng có xu
hướng thống nhất về nội dung các phán xét, đánh giá, càng làm cho mọi
người trong xã hội nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề mang tính bản chất
của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Do đó ảnh hưởng của dư luận xã
hội đối với hệ tư tưởng pháp luật còn thể hiện ở chỗ, dư luận xã hội tham gia
vào việc phổ biến, tuyên truyền trong các tầng lớp xã hội những giá trị pháp
luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật. Dư luận xã hội có tác đụng củng cố,
bảo vệ tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật.
Chẳng hạn như với vụ việc Lê Văn Luyện đã nêu ở trên, với ba mạng người
mà hung thủ sát hại thì nhân dân luôn cho rằng hình phạt cao nhất mà Luyện
phải chịu là tử hình. Nhưng dựa theo quy định trong Bộ Luật hình sự năm
1999, hung thủ Luyện không phải chịu hình phạt tử hình mà khung hình cao
nhất cho hành vi giết người man rợ của hắn là 18 năm tù. Và báo chí liên tục

9


phải giải thích, đưa ra lí do từ phía cơ quan xét xử là do hung thủ chưa đủ tuổi
thành niên. Từ đây thông tin được lan truyền và mọi người dân lại hiểu thêm
hơn về quy định của pháp luật. Quy định pháp luật mà nhà lập pháp đưa ra là
có căn cứ và có tính khoa học cao. Người phải có đủ năng lực trách nhiệm
pháp lí thì mới phải chịu trách nhiệm pháp lí khi không thực hiện đúng hoặc
thực hiện không đầy đủ các quy định của pháp luật.
• Tác động của dư luận xã hội với tâm lí pháp luật.
Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, cảm
xúc, tâm trạng của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật, cũng
như những hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật
chỉ biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp
luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Tâm lý pháp
luật, cũng như những yếu tố tâm lý vốn có của con người là sự phản ánh trực
tiếp các sự kiện, hiện tượng bên ngoài có liên quan đến pháp luật. Những sự
kiện, hiện tượng pháp luật đó đồng thời cũng là đối tượng phản ánh của dư
luận xã hội.
Một là, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật.
Tình cảm pháp luật là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp luật, thường được hình
thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp hàng ngày của
con người với môi trường pháp lý xung quanh. Và, do là yếu tố mang tính tự
phát, chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, kinh nghiệm sống và nếp sống
của con người, nên tình cảm pháp luật có thể được bộc lộ dưới dạng các phản
ứng tích cực, cũng như tiêu cực của mỗi người trước những sự kiện, hiện
tượng pháp lý diễn ra trong thực tế. Do vậy, tình cảm pháp luật có thể biểu
hiện dưới dạng tích cực, như thái độ phản ứng lại các hành vi vi phạm pháp
luật, yêu công lý, đề cao công bằng xã hội, đề cao trách nhiệm pháp lý... cũng
có thể biểu hiện dưới dạng tiêu cực, như cổ vũ cho hành vi phạm pháp, chống

đối người thi hành công vụ, làm ngơ trước người bị hại... Tất cả những biểu
hiện đó của tình cảm pháp luật đều là đối tượng phán xét, đánh giá của dư
10


luận xã hội. Trước một vụ vi phạm luật giao thông như không đội mũ bảo
hiểm ngay trên đường phố chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp hai cảnh tượng
một là những kẻ đang chế giễu người vi phạm giao thông, hai là những người
xung quanh bàn tán về những người thi hành công vụ với giọng điệu mỉa mai
và thậm chí còn thương cho túi tiền của người vi phạm.
Trong thực tiễn đời sống pháp luật, trước những diễn biến của một sự
kiện hay hiện tượng pháp luật, dư luận xã hội thường nảy sinh và biểu hiện ở
hai xu hướng: thứ nhất, khen ngợi, biểu dương tinh thần đấu tranh không
khoan nhượng trước các hành vi vi phạm pháp luật, ủng hộ những việc làm
phù hợp với quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, thử hai, phê phán, lên
án các hành vi sai trái, phạm pháp, phạm tội. Về mặt tình cảm, không ai muốn
mình trở thành đối tượng phán xét của dư luận xã hội, không ai muốn hứng
chịu sức ép của "búa rìu xã hội". Do vậy, mỗi cá nhân đều mong muốn có thể
kiểm soát, điều chỉnh tình cảm và hành vi của mình sao cho phù hợp với ý chí
chung của cộng đồng xã hội. Với ý nghĩa đó, dư luận xã hội tác động mạnh
mẽ tới tình cảm pháp luật, góp phần định hướng cho sự hình thành tình cảm
pháp luật tích cực, đúng đắn của mỗi công dân.
Hai là, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật
pháp. Tâm trạng của con người trước luật pháp là sự thể hiện trạng thái tâm lý
của các cá nhân trước các sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống
xã hội thường ngày. Đây là yếu tố rất linh động, dễ thay đổi của tâm lý pháp
luật. Do sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố, như điều kiện sống, lao động,
sinh hoạt hàng ngày mà tâm trạng của con người thường được thể hiện ra ở
các trạng thái đối lập: hưng phấn - ức chế, lạc quan - bi quan, hy vọng - thất
vọng, quan tâm - thờ ơ, nhiệt tình - lãnh đạm... trước thực tiễn cuộc sống. Tuỳ

thuộc đang trong tâm trạng hưng phấn, nhiệt tình, người ta dễ có những phản
ứng mạnh mẽ, tích cực trước các hành vi vi phạm pháp luật ở nơi công cộng,
còn khi không tin tưởng vào sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, người
ta thường thờ ơ trước các sự kiện pháp lý... Những tâm trạng đó được bộc lộ
11


trong nội dung các phán xét, đánh giá của dư luận xã hội và qua đó, dư luận
xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp. Nếu bạn là một
người đua xe lạng lách, bạn bị bắt cũng một nhóm người khác nhưng bạn bị
giữ xe khi những người kia được thả chắc chắn bạn sẽ không còn tin tưởng
vào hai chữ công bằng trong pháp luật.
IV.

Kết luận

Trên đây là những hiểu biết, phân tích của em về các tính chất của dư luận
xã hội và tác động của dư luận xã hội đến ý thức pháp luật. Nói chung dư luận
xã hội luôn có hai hướng tích cực và tiêu cực, quan trọng là cách chúng ta
nhìn nhận và đánh giá về một vấn đề. Dư luận xã hội có ảnh hưởng không
nhỏ đến ý thức pháp luật của con người vì vậy nên chúng ta cần am hiểu pháp
luật có thái độ đúng đắn để không có cái nhìn sai lệch về hiện tượng, sự kiện
pháp luật và có hành vi đúng pháp luật.

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Sách:
1. Tác động của dư luận xã hội với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ

sở - TS Ngọ Văn Nhân
2. Tập bài giảng xã hội học – Chủ biên : Ngọ Văn Nhân, Đỗ Như Kim; NXB:
Trường đại học luật Hà Nội
* Web:
www.luatviet.org
www.dantri.com.vn
www.vnexpress.net

13


MỤC LỤC

14



×