Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Giaodịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện ý chí của chủ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.99 KB, 21 trang )

Bài làm
A-

ĐẶT VẤN ĐỀ:
Xã hội ngày càng phát triển, sự phân công lao động ngày càng thể

hiện rõ rệt, theo đó, mỗi người chỉ có thể đảm trách một công việc nhỏ trong
toàn thể sự phát triển của cộng đồng. Trong khi đó, nhu cầu về vật chất, tinh
thần của con người ngày càng tăng và để thỏa mãn nhu cầu thì các chủ thể
phải tham gia các giao dịch khác nhau, trong đó có giao dich dân sự. Vấn đề
giao dịch dân sự luôn là một trong những vấn đề có nhiều tranh chấp nhất từ
trước đến nay. Ai đúng, ai sai ? Ai là người có quyền ? Giao dịch dân sự nào
được coi là vô hiệu ? Tất cả những câu hỏi ấy muốn trả lời phải dựa theo quy
định của pháp luật
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây em xin trình bày đề tài “ Giao
dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và hậu quả pháp lí của giao
dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện ý chí của chủ thể ”

1


B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ
1) Khái niệm, đặc điểm giao dịch dân sự:
Điều 121 BLDS năm 2005: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”
Với ý nghĩa là quy định chung cho hợp đồng và hành vi pháp lí đơn
phương nên các quy định về giao dịch dân sự sẽ được áp dụng cho các hợp
đồng và hành vi pháp lí đơn phương cụ thể. Xét dưới góc độ là căn cứ làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ dân sự thì giao dịch dân sự được coi


là căn cứ phổ biến nhất làm phát sinh nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, việc xác
lập giao dịch dân sự được thực hiện bởi các chủ thể với những mục đích, nội
dung cụ thể…phải phù hợp với quy định của pháp luật, có như vậy thì quyền
và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch mới có thể được bảo đảm
thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của nhà nước.

2 ) Phân loại giao dịch dân sự
Tất cả các giao dịch dân sự đểu có điểm chung tạo thành bản chất của
giao dịch: Đó là ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Căn cứ vào các bên
tham gia vào giao dịch có thể phân biệt giao dịch dân sự thành hai loại: hợp
đồng và hành vi pháp lý đơn phương.
a. Hành vi pháp lí đơn phương

2


Hành vi pháp lí đơm phương là sự tuyên bố ý chí công khai của một
phía chủ thể nên việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ dân sự trước hết phụ thuộc vào ý chí của chủ thể đó.
b. Hợp đồng dân sự:

Hợp đồng dân sự là “ là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” (Điều 388 BLDS 2005).
Như vậy, khác với hành vi pháp lí đơn phương là sự tuyên bố ý chí của chủ
thể, hợp đồng được xác lập dựa trên sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa
các chủ thể không cùng một phía (các bên)

3) Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
Theo điều 121 BLDS 2005 thì giao dịch dân sự là hợp đồng và hành
vi pháp lí đơn phương. Do đó điều kiện có hiệu lực cua giao dịch dân sự

cũng được hiểu là điều kiện được áp dụng cho cả hợp đồng và hành vi pháp
lí đơn phương.
Điều 122 BLDS quy định:
“ 1.Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;

b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
trong trường hợp pháp luật có quy định.”

II. GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN CỦA
CHỦ THỂ VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÍ

3


1) Khái niệm giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ
thể
Chủ thể tham gia giao dịch dân sự nhắm đạt được những lợi ích vật
chất, tinh thần nhất định, do đó việc lựa chon một giao dich dân sự nào đó để
tham gia cũng như xác định các quyền và nghĩa vụ trong giao dịch dân sự đó
là hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân chủ thể tham gia giao dịch.
Cơ sở để hình thành giao dịch dân sự là ý chí của chủ thể tham gia.
Ý chí là nguyện vọng mong muốn chủ quan bên trong của mỗi chủ thể mà
nội dung của nó là được xác định bởi các nhu cầu về sản xuất tiêu dùng của
bản thân chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí của các bên tham gia giao dịch
dân sự giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống bởi các giao dịch được
diễn ra hàng ngày, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của con người. Ý chí

được biểu hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể
khác có thể biết được ý chỉ của họ khi tham gia giao dịch dân sự cụ thể. Tuy
nhiên ý chí phải được thể hiện dưới hình thức phù hợp với các giao dịch của
pháp luật và phải có sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí giữa các bên tham
gia giao dịch. Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự là yếu tố cơ bản với
mục đích thỏa mãn một nhu cầu nào đó của bản thân chủ thể. Muốn đạt
được những mục đích đó, chủ thể tham gia giao dịch phải có năng lực hành
vi dân sự để điểu khiển ý chỉ và lý chí của mình.
Ý chí của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nói chung và quan
hệ dân sự nói riêng phải phù hợp với ý chí của nhà nước được thể hiện
thông qua các quy phạm pháp luật. Bởi vậy trong các giao dịch dân sự “ý chí

4


của các chủ thể và ý chí của nhà nước kết hợp lại, ý chí của cá nhân phải phụ
thuộc vào ý chỉ của nhà nước”.
Giao dịch dân sự là hành vi mang ý chỉ của chủ thể tham gia giao dịch.
Các bên tham gia giao dịch tự đặt mình vào cam kết, có cam kết đặt ra theo
ý chí của một bên, có cam kết thể hiện ý chí của hai hay nhiều bên, tuy nhiên
khi xác định và thực hiện các giao dịch dân sự các chủ thể tham gia giao
dịch phải tự nguyện. Sự tự nguyện có thể hiểu một cách đơn giản là sự lựa
chọn và hoạt động tự do trong ý thức bắt nguồn từ những tác nhân được xem
xét dựa trên lí trí để đạt được mục đích nào đó. Theo cách này tự nguyện
chính là việc chủ thể điều khiển chính bản thân trong những hành động và
quyết định của chính mình.
Trong các giao dịch dân sự, sự tự nguyện được hiểu là sự thống nhất
ý thức và ý chí của chủ thể. Tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của sự tự
nguyện, khi tham gia vào giao dịch dân sự thì sự tự do ý chí và bày tỏ ý chí
phải thống nhất với nhau như hai mặt của một vấn đề.

Tự do ý chí là khả năng con người tự giác lựa chọn định hướng hành vi
của mình cũng như chịu trách nhiệm hình sự của mình về hành vi đó. Giao
dịch dân sự có đặc điểm quan trọng là sự thống nhất ý chí của các chủ thể
tham gia giao dịch nên ý chí có vai trò cực kì quan trọng đối với các giao
dịch . Nó được xem là cực kì quan trọng bởi nó là yếu tố cơ bản không thể
thiếu được để hình thành giao dịch từ đó làm phát sinh ra các nghĩa vụ pháp
lý. Vì vậy dù ở hệ thống pháp luật nào người ta cũng thừa nhận nền tảng của
giao dịch dân sự là tự do ý chí.
Tự do ý chí thể hiện ra bên ngoài là việc tự do phương thức để đạt
được mục đích đặt ra theo ý chí của người cam kết. Tự do ý chí và thể hiện ý
chí là ý muốn và sự lựa chọn pương thức để đạt được ý muốn trong điều
kiện có thể của người tham gia giao dịch ý chí đó nếu chưa được bộc lộ ra
5


bên ngoài thì vẫn là ý tưởng chủ quan của chủ thể, nó mới là động lực bên
trong thúc đẩy các chủ thể tham gi giao dịch hay không. Để bên ý tưởng chủ
quan đó thành hiện thực thì các chủ thể phải hành động tức là ý chí của họ
phải được thể hiện ra bên ngoài và người khác có thể thúc đẩy nội dung ý
chí đó.
Tất các các gia dịch dân sự đều có một đặc điểm chung là sự thống
nhất giữa tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Giao
dịch dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất
định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chú thể tham
gia giao dịch. Ý chí của chủ thể tham gia giao dịch là nguyện vọng mong
muốn chủ quan của bên trong con người mà nội dung bên trong của nó được
xác định bởi nhu cầu nhất định của bản thân họ. Ý chí của chủ thể tham gia
giao dịch dân sự được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để
chủ thể khác biết được mục đích, động cơ và nội dung cụ thể của giao dịch
dân sự. Bởi vậy giao dịch dân sự không thể thiếu được sự thống nhất về ý

chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch. Điều này không chỉ
đúng với các giao dịch dân sự có chủ thể là cá nhân mà còn đúng với các
chủ thể khác như pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình. Bởi vì, khi xác định
giao dịch dân sự, các chủ thể này thông qua người đại diện. Người đại diện
xác lập giao dịch phải thể hiện được ý chí của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Do vậy, sự tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự là sự thống
nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí mà không bất kì tác động nào.
Pháp luật dân sự nước ta quy định một trong các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự là người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện.
Vì vậy, hành vi vi phạm sự tự nguyện về ý chí sẽ dẫn đến giao dịch dân sự
vô hiệu. Vi phạm sự tự nguyện về ý chí là sự không thống nhất ý chí thực (tự
6


do ý chí) và biểu hiện của ý chí (bày tỏ ý chí) ra bên ngoài của các chủ thể.
Sự không thống nhất đó có thể do yếu tố bên ngoài tác động hoặc do yếu tố
chủ quan bên trong của chủ thể.


Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể là giao

dịch dân sự mà ý chí của các chủ thể bên trong giao dịch dân sự đó không có
sự thống nhất ý chí bên trong và bày tỏ ý chí ra bên ngoài của một hoặc các
bên tham gia. Sự vi phạm đó có thể dẫn đến hiệu quả pháp lí là làm vô hiệu
giao dịch dân sự này.
2) Các loại giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể
2.1.
2.1.1. Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn
Theo Điều 131 BLDS 2005 đã đưa ra quy định về sự nhầm lẫn như

sau: “Khi một bên có lỗi vô ý làm bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao
dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên
kia thay đổi nôij dung cảu giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì
bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu”.
Sự nhầm lẫn xuất phát tự nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai
lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ
vào nội dung giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng
minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên đối tác thì khi đó sẽ thuộc trường hợp
vô hiệu do lừa dối.
Để xem xét một cách chính xác có yếu tố nhầm lẫn trong giao dịch
dân sự không, ta cần xác định hai khía cạnh:
-

Ở khía cạnh khách quan, người ta phải đặt một người bình thường vào

vị trí của một người tin nhầm để xác định trong hoàn cảnh tương tự, người
7


có nhận thức, đánh giá như thế nào về nội dung của giao dịch. Từ đó đánh
giá xem sự tin nhầm đó có phải là vô lí hay khó chấp nhận không.
-

Ở khía cạnh chủ quan, người ta cần xem xét mối quan hệ giữa sự nhầm

lẫn của người đó trong mỗi tương quan với khả năng nhận thức, năng lực
chuyên môn của người đó. Từ đó đánh giá xem sự tin nhầm của người đó có
phải là từ sự cẩu thả sơ suất không?
Hiện nay nhầm lẫn được chia thành nhiều loại cụ thể:

-

Nhầm lẫn đơn phương:

-

Nhầm lẫn chung

-

Nhầm lẫn tương hỗ

-

Nhầm lẫn về luật

-

Nhầm lẫn về sự việc
2.1.2. Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối
Điều 132 quy định “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một

bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể,
tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập
giao dich đó”
Một người có hành vi lừa dối thì không thể coi là trung thực được. Quy
định này của pháp luật là một trong những sự thể hiện của nguyên tắc tự do,
tự nguyện giao kết hợp đồng, thể hiện được sự phù hợp với pháp luật và
thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn.


8


Hành vi lừa dối của các chủ thể có thể mang tính chủ động (tích cực)
hoặc mang tính bị động (tiêu cực). Lừa dối mang tính chủ động khi người
lừa dối thực hiện những hành vi tổ chức thực hiện hoặc đồng lõa với việc
cung cấp thông tin sai sự thật, sử dụng tài liệu giả, nói dối… làm cho người
bị lừa dối nghĩ về sự việc quá lên so với thực tế khách quan. Lừa dối được
coi mà tính bị động hay tiêu cực trong trường hợp người lừa dối im lặng
không bày tỏ quan điểm của mình về một yếu tố quan trọng của giao dịch
nhằm hưởng lợi từ việc người bị lừa dối chấp nhận xác lập giao dịch dân sự.


Để xem xét một hành vi có phải sự lừa dối trong giao kết hợp đồng

hay không, người ta căn cứ vào các yếu tố sau: Một là, phải có sự cố ý đưa
ra thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên. Hai là, người nghe
phải không biết đến sự sai lệch đó. Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch
đó do một bên đưa ra trong giao kết hợp đồng.
2.1.3. Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa
“ Đe doạ trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên làm
cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt
hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình
hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình…”.( Điều 132 BLDS 2005)
Đe dọa gồm hai điều kiện:
- Về mặt khách quan : hành vi đe dọa phải là hành vi do một bên hoặc
người thứ ba gây ra
- Về mặt chủ quan: sự đe dọa có tính chất quyết định khiến bên bị đe dọa
buộc phải xác lập thay đổi hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự mà không thể có
cách lựa chọn nào tốt hơn.

Như vậy hành vi đe dọa trở thành căn cứ xác định một giao dịch dân sự
vô hiệu cần có các điều kiện sau:
9


+ bên đe dọa thực hiện hành vi đe dọa với lỗi cố ý, mục đích là buộc
chủ thể phía bên kia phải xác lập giao dịch dân sự với mình hoặc với mình
hoặc xác lập giao dịch dân sự với chủ thể mà bản thân bên đe dọa mong
muốn;
+ hành vi đe dọa nhằm làm cho bên kia sợ hãi, tức là bản thân bên bị
đe dọa hoàn toàn tê liệt ý chí mà không có một sự lựa chộn nào khác;
+ chủ thể bị đe đọa có thể là một bên trong giao dịch nhưng cũng có
thể là người khác;
+ hành vi đe dọa chưa gây thiệt hại về đối tượng đe dọa mà hành vi đó
hướng tới, tức là bên bị đe dọa mới chỉ sợ hãi về hậu quả của sự đe dọa có
thể xảy ra.
BLDS 2005 cũng không đề cập đến trường hợp giao dịch dân sự được
xác lập bởi sự cưỡng bức. Đối với giao dịch xác lập bởi sự đe dọa thì hậu
quả của đe dọa chưa xảy ra( chủ thể bị tác động về mặt tinh thần, còn giao
dịch dân sự được xác lập bởi sự cưỡng bức đã có hậu quả thực tế và bên bị
cưỡng bức phải xác lập giao dịch nếu không thì hậu quả của sự cưỡng bức
này có thể tiếp tục xảy ra( chủ thể bị tác động về thể xác)
2.1.4. Giao dịch dân sự xác lập bởi sự giả tạo.
Sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định chính là
sự thể hiện sự tự nguyện của chủ thể. Tuy nhiên không phải sự tự nguyện
nào cưa chủ thể cũng làm phát sinh haauj quả pháp lí. Có những trường hợp
bản thân chủ thể hoàn toàn kiểm soát được sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài,
không bị tác động của bất cứ yếu tố khách quan nào nhưng cũng không được
pháp luật thừa nhận, đó chính là giao dịch dân sự xác lập do sự giả tạo.
Đối với giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo, chủ thể hoàn toàn

mong muốn sự thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định mặc
10


dù ý chí đó không phải là ý chí đích thực. Do đó, thể hiểu giao dịch dân sự
dược xác lập do sự giả tạo là giao dịch được xác lập nhằm che giấu một giao
dịch khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Điều 129 BLDS 2005 quy định:
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che
giấu một giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu,còn giao dịch bị che
giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy
định của Bộ luật này; nếu giao dịch được xác lập không nhằm mục đích
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên, thì giao dịch đó cũng bị coi là
vô hiệu”
Có hai loại giao dịch dân sự giả tạo :
+ một là, giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che
giấu một giao dịch khác.
Như vậy, ít nhất trong trường hợp này có hai giao dịch song song tồn tại
– đó là giao dịch đích thực( bên trong) và giao dịch giả tạo( giao dịch che
giấu, thể hiện ra bên ngoài).
Giao dịch giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác luôn luôn vô hiệu, còn
giao dịch đích thực vẫn có hiệu lực pháp lí. Tuy nhiên nếu giao dịch đích
thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì có
thể vô hiệu. VD: Ông A tặng cho con út cưa mình là B một ngôi nhà nhưng
vì lí do tế nhị( sợ rằng điều này có thể là nguyên nhân gây mâu thuẫn giữa
những người con) ông A và B đã kí hợp đồng mua bán nhà. Ở đây có 2 giao
dịch cùng tồn tại, đó là giao dịch tặng cho nhà ở( giao dịch bên trong, giao
dịch đích thực) và giao dịch mua bán nhà ở( giao dịch bên ngoài, giao dịch
giả tạo)
+ hai là giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh

nghĩa vụ với người thứ ba.
11


Trong trường hợp này, giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện
khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn
tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác
. bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với
một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác lập giao
dịch giả tạo. VD: Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài
sản, A đã kí hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân của mình là B để tránh
trương hợp ngôi nhà đó có thể bị xử lí đê thực hiện nghĩa vụ của A.
. khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ
nhất định đối với nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập với sự giả tạo. VD: A
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho B nhưng nhằm trốn tránh nghĩa vụ
nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, A và B đã kí hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất.
2.1.5 Giao dịch dân sự xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập
không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
Là trường hợp bản thân của chủ thể - người xác lập giao dịch dân sự
có năng lực pháp luật dân sự nhưng do những nguyên nhân khác nhau mà
đúng vào thời điểm xác lập giao dịch dân sự thì họ lại không nhận thức được
hành vi của mình. Việc không nhận thức được hành vi của mình được biểu
hiện ra bên ngoài thành những điều thiếu lô gich mà trong điều kiện bình
thường một người nhận thức bình thường sẽ không hành động như vậy.
“Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch dân
sự vào đúng thời điểm không nhận thức và điều khiển được hành vi của
mình, thì có thể yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu”.
( điều 133 BLDS 2005)


12


Do vậy việc xác lập giao dịch dân sự của người đó ở thời điểm này
được coi là không dựa trên cơ sở của sự tự nguyện và vì vậy giao dịch được
xác lập cũng không thể hiệu lực pháp luật. VD: kí hợp đồng trong khi say
rượu…
Việc không nhận thức và làm chủ được hành vi của chủ thể khi xác
lập giao dịch có thể do ý chí chủ quan của người này nhưng cũng có thể do
chủ thể khác hoặc do nguyên nhân khách quan. Đây là yếu tố hết sức quan
trong cần phải được xác lập cụ thể để đảm bảo quyền lợi các chủ thể khi
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
2.2
2.2.1.Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối do vi phạm sự tự nguyện
Là giao dịch đã có sự vi phạm ý chí của một hay hai bên tham gia
giao dịch trong các trường hợp: khi giao dịch được xác lập do bị nhầm
lẫn( Điều 131 BLDS); khi một bên chủ thể tham gia xã lập giao dịch do bị
lừa dối hoặc đe dọa( Điều 132 BLDS); khi người tham gia xác lập không
nhận thức được hành vi của mình( Điều 133 BLDS). Nhưng các giao dịch do
nhưngx chủ thể trong các trường hợp trên thực hiện chỉ bị coi là vô hiệu khi
có đủ những yếu tố:
+ khi có đơn yêu cầu của người có quyền và nghĩa vụ liên quan
+ có quyết định của tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu
2.2.2. Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối do vi phạm ý chí tự nguyện.
Là những giao dịch vi phạm ý chí của một hay cả hai bên tham gia
giao dịch trong các trường hợp: Khi vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội( diều 128 BLDS); khi giao dịch được xác lập giả tạo nhằm
che giấu một giao dịch khác( Điều 129 BLDS); khi hình thức của giao dịch
không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật (điều 134 BLDS).
Các giao dịch này mặc nhiên bị coi là vô hiệu.

13


CHƯƠNG 2- HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH VI PHẠM SỰ
TỰ NGUYỆN CỦA CHỦ THỂ
I – Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của
chủ thể
Hậu quả trước hết phải là một kết quả và kết quả đó phải xảy ra tự
một sự kiện, một hành vi nào đó tức là chúng phải có mối quan hệ nhân quả
với nhau.
Trong khoa học pháp lý hậu quả pháp lý là sự bất lợi cho các cá nhân,
tổ chức khi hành vi của họ bị pháp luật xác định là hành vi vi pham pháp
luật. Khi các chủ thể tham gia vào một quan hệ nhất định mà hành vi của họ
là trái pháp luật thì trong từng quan hệ cụ thể phải chịu hậu quả pháp lý được
điều chỉnh bởi những ngành luật khác nhau. Trong lĩnh vực dân sự, thì hậu
quả pháp lý xuất phát từ hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
khác hoặc khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Khi giao dịch dân sự vô hiệu các chủ thể tham gia vào giao dịch phải
gánh chịu những hậu quả nhất định do pháp luật quy định. Việc xác định hậu
quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu còn căn cứ vào mức độ vi phạm
một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Ngoài ra, yếu tố lỗi
của chủ thể cũng có ảnh hưởng lớn đến việc xác định hậu quả pháp lí cuả
giao dịch dân sự vô hiệu. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự thường dẫn
tới sự bất lợi về tài sản hoặc lợi ích vật chất nằm ngoài ý chí và sự mong
muốn của chủ thể.
Giao dịch dân sự vô hiệu sẽ phát sinh hậu quả pháp lý như sau:
+ Thứ nhất khi một giao dịch dân sự vô hiệu thì sẽ làm phát sinh, thay
đổi chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên và thời điểm đó
được tính từ khi xác lập giao dịch có nghĩa là khi bị vô hiệu thì coi như chưa
14



hề có giao dịch đã xác lập, các bên phải chấm dứt thực hiện giao dịch dân sự
đó, nó không có giá trị pháp lý kể từ thời điểm ký kết. Do vậy giao dịch bị
tuyên bố vô hiệu không có giá trị bắt buộc đối với các bên tham gia giao
dịch, nghĩa là các bên không còn ràng buộc bởi quyền và nghĩa vụ với nhau,
các bên phải chấm dứt thực hiện giao dịch dân sự đó. Nếu mới xác lập chưa
thực hiện thì các bên không được thực hiện còn nếu trong trường hợp đang
thực hiện cũng không tiếp tục được thực hiện nữa.
+ Thứ hai,về hậu quả các bên khôi phục lại trong tình trạng ban đầu
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Hoàn trả về tài sản là một trong những
biện pháp phổ biến để giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu nhằm
khôi phục lại tình trạng ban đầu. Tuy nhiên trong thực tế tài sản được hoàn
trả không phải lúc nào cũng còn nguyên giá trị của nó tại thời điểm giao kết,
thông thường nó bị biến đổi do tác động của các yếu tối tự nhiên và xã hội
không còn nguyên giá trị ban đầu. Vì vậy, pháp luật đã có quy định: các bên
phải hoàn trả bằng hiện vật, nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì tính thành
tiền để trả.
VD: A bán cho B một tài sản nhưng khi xác lập giao dịch, A bị B
đe dọa nên giao dịch đó không có sự tự nguyện. Sau khi giao dịch được xác
lập một thời gian nhất định( vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện yeeu cầu tòa
án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu), A yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu. Trong trường hợp này B phải trả cho A tài sản mua của A và
A trả lại B tiền mà mình đã nhận thanh toán từ B khi xác lập hợp đồn mua
bán.
Cũng có trường hợp tài sản là đối tượng của giao dịch không còn( bị
tiêu hủy, bên nhận tài sản đã tiêu dùng hết hoặc làm mất) thì phải hoàn trả
bằng tiền. Tuy nhiên hiệ nay pháp luật cũng chưa quy định việc hoàn trả

15



bằng tiền được tính theo giá trị của tài sản tại thời điểm hoàn trả hay tính
theo giá tri của tài sản vào thời điểm các bên xác lập giao dịch.
+ Thứ ba, khi giao dịch dân sự vô hiệu cần xác định lỗi của các bên để
yêu cầu bồi thường cũng như để các bên phải chịu hậu quả khác tương ứng
với mức độ lỗi của mình. Nguyên nhân có lỗi của một trong hai bên hoặc
của cả hai bên tham gia giao dịch, vì vậy cần xác định mức độ lỗi của mỗi
bên để có thể đưa ra hướng xử lí cụ thể.
VD: Xác định lỗi liên quan đến giao dịch mua bán nhà ở cần xác
định lỗi bên mua và bên bán. Một bên bị coi là có lỗi nếu bên đó có hành vi
làm cho bên kia nhầm tưởng là có đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán nhà ở
là hợp pháp. Cụ thể: . Bên bán có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng bên bán
có quyến sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất hoặc có hành vi gian dối để được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở,
quyền sử dụng đất ở và sử dụng các giấy tờ này làm chứng để bên mua tin
và giao kết hợp đồng mua bán nhà đó.
. Bên mua có lỗi nếu có hành vi gian dối làm cho bên
bán tin tưởng là tài sản đặt cọc, tài sản đẻ thực hiện nghĩa vụ thuộc quyền sở
hữu của bên mua nên đã giao kết hoặc giao nhà ở cho bên mua.
+ Thứ tư, bảo vệ người thứ ba ngay tình.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người thứ ba ngay tình
khi tham gia giao dịch dân sự vô hiệu được hiểu là: “người được chuyển
giao tài sản thông qua giao dịch dân sự mà họ không biết, không buộc phải
biết là tài sản do người chuyển giao cho họ thu được từ một giao dịch vô
hiệu”. vậy người thứ ba khi tham gia giao dịch dân sự ngay tình là khi tham
gia giao dịch trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tuân theo các quy định của
pháp luật mà không biết đối tượng của giao dịch là tài sản bất minh, do chủ
sở hữu được xác lập trước đó bởi một giao dịch vô hiệu. Đây có thể nói là
16



yếu tố quan trọng nhất để xác định người tham gia giao dịch hoàn toàn ngay
tình.
Theo quy định của BLDS 2005 việc bảo vệ quyền và lợi ích của người
thứ ba ngay tình căn cứ vào đối tượng của giao dịch là động sản không phải
đăng kí quyền sở hữu bất động sản hoặc động san phải đăng kí quyền sở
hữu. Cụ thể là:
-

Nếu tài sản của giao dịch dân sự vô hiệu là động sản không phải đăng

kí quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch cho người thứ ba
ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn còn hiệu lực.
-

nếu tài sản giao dịch dân sự vô hiệu là bất động sản hoặc động sản

phải đăng kí quyền sở hữu, thì giao dịch với người thứ ba là vô hiệu trừ
trường hợp người thứ ba có được tài sản do bán đấu giá hoặc giao dịch với
người mà theo bản án, quy định của cơ quan có thẩm quyền là chủ sở hữu tài
sản, nhưng sau đó người ngày không phải là chủ sở hữu do quy định bị hủy
hoặc sửa,
Như vậy so với BLDS 1995 thì quy định nhằm bảo vệ người thứ ba
ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong BLDS 2005 đã làm rõ hơn vấn
đề này với việc phân chia thành các loại tài sản không đăng kí sở hữu và các
loại tài sản phải đăng ký sở hữu.
Đồng thời BLDS 2005 cũng giải quyết mối quan hệ giữa vô hiệu của
hợp đồng chính và vô hiệu của hợp đồng phụ, trong đó sự vô hiệu của hợp
đồng phụ được thay thế bởi hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng

với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu của hợp
đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính trừ trường hợp các bên thỏa
thuận của hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời hợp đồng chính.
như đã phân tích thì giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý
chí có thể chia thành hai loại: giao dich dân sự vô hiệu tuyệt đối (giao dịch
17


giả tạo ) và giao dịch dân sự vô hiệu tương đối (giao dịch nhầm lẫn, lừa
dối,đe dọa, giao dịch được xác lập do người không nhận thức và làm chủ
hành vi của mình.
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là giao dịch mà quyết định của tòa
án đối với giao dịch này không mang tính chất phân xử mà đơn thuần chỉ là
một trong những hình thức công nhận vô hiệu của giao dịch dựa trên các cơ
sở luật định không phụ thuộc vào yêu cầu của các bên . Bên cạnh đó quyết
định của tòa án còn nội dung xác định rõ hậu quả và cưỡng chế các bên vi
phạm thực hiện của giao dịch vô hiệu.
Như vậy đối với giao dịch giả tạo thì giao dịch đó sẽ bị vô hiệu mà
không phụ thuộc vào các bên thời hiệu yêu cầu đối với giao dịch giả tạo
nhằm che dấu một giao dịch khác thì giao dịch bị che dấu sẽ có hiệu lực
pháp luật, nếu giao dịch đó đáp ứng được các yêu cầu và điều kiện của giao
dịch dân sự.
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối,thì quyết định của tòa án sẽ
là cơ sở duy nhất làm cho giao dịch đó trở nên vô hiệu.Quyết định của Tòa
án mang tính chất phân xử. Tòa án tiến hànhgiar quyết vụ việc khi có đơn
yêu cầu các bên kể từ ngày xác lập giao dịch đó. Bên yêu cầu có nghĩa vụ
chứng minh trước tòa các cơ sở yêu cầu. ví dụ một người yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch vô hiệu vì lí do khi xác lập giao dịch bị lừa dối hoặc đe
dọa thì bên yêu cầu đó phải có nghia vụ chứng minh trước Tòa sự lừa dối
hoặc đe dọa đó mà bên kia đã gây ra với mình. Nếu một bên yêu cầu tuyên

bố giao dịch vô hiệu với lý do xác lập giao dịch trong thời điểm không nhận
thức được hành vi của mình thì Tòa án buộc bên yêu cầu phải chứng minh
được rằng tại thời điểm xác lập giao dịch đó họ bị rơi vào tình trạng không
nhận thức được hành vi của mình. Dựa trên những minh chứng đó thì tòa án
mới cân nhắc để quyết định giao dịch đó có bị vô hiệu hay không. Đối với
18


các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối, nếu không có đề nghị hoặc có đề
nghị nhưng không được tòa án chấp nhận thì giao dịch vẫn có hiệu lực pháp
luật.
Như vậy hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do vi phạm sự tự
nguyện về ý chí của chủ thể được giải quyết theo điều 137 BLDS 2005, theo
đó hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh thay đổi chấm dứt chấm dứt quyền
và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Trong trường hợp
này, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoặc trả cho nhau những gì đã
nhận nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền , trừ
trường hợ tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức bị tịch thu theo quy định của
pháp luật. bên có lỗi vi phạm phải bồi thường.
II – Cách thức và thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xử lý hậu quả
pháp lý hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm ý chí của chủ thể.
Khi hợp đồng dân sự bị vô hiệu nó sẽ dẫn tới những hậu quả pháp lý .
Tuy nhiên xử lý hậu quả đó như thế nào, chúng ta cần phải có những cách
thức cụ thể. Và để xử lý hậu quả pháp lý hợp đống dân sự vi phạm sự tự
nguyện ý chí của chủ thể ta có những cách thức sau đây:
Thứ nhất: nếu nội dung thỏa thuận trong hợp đồng chưa được bên chủ
thể thực hiện thì các bên không được phép thực hiện các nội dung đó. Ơ đây
ta thấy trong cả bốn trường hợp được xác lập do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, đe
dọa và trường hợp hợp đồng do người không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình xác lập thì sau khi hợp đồng được kí kết, pháp luật đều

quy định cho người bị nhầm lẫn lừa dối đe dọa, không làm chue được hành
vi của mình có quyền yêu cầu chủ thể bên kia thay đổi lại hợp đồng. Do đó
các bên thực thỏa thuận lại nội dung hợp đồng thì coi như hợp đồng đó có
19


hiệu lực pháp luật trừ trường hợp vi phạm các điều kiện có hiệu lực khác của
hợp đồng do pháp luật quy định. Các trường hợp bên chủ thể kia không đồng
ý với sự thay đổi hợp đồng thì hợp đồng sẽ không được phép thực hiện.
Khác với bốn trường hợp trên trường hợp trường hợp hợp đồng do các bên
thực hiện một cách giả tạo thì ở đây cả hai bên chủ thể tham gia giao kết hợp
đồng đều thống nhất ý chí và cố ý vi phạm các quy định của pháp luật. Do
đó điều đầu tiên bắt buộc khi hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu đó là cả hai
bên đều không được phép thực hiện hợp đồng đã ký kết.
thứ hai : nếu nội dug thỏa thuận trong hợp đồng đã được thực hiện một
phần hoặc đã được thực hiện xong thì các bên chủ thể thì các bên chủ thể
phải tiếp tục chấm dứt hợp đồng và tiến hành xử lí tài sản.
Việc xử lí tài sản được thực hiện theo nguyên tắc. Các bên phải hoàn trả
nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải được
hoàn trả bằng tiền trừ trường hợp tài sản hợp đồng có hoa lợi, lợi tức được
tịch thu theo quy định của pháp luật.

C – KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên đây có thể nhận ra một điều rằng, sự tự
nguyện của các chủ thể khi tham gia giao dịch là một yếu tố vô cùng quan
trọng trong việc bảo đảm các điều kiện của giao dich dân sự có hiệu lực.
Bài làm trên của em còn có nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự
đóng góp của các thầy cô để bài làm của em được tốt hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!


20


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. Khái quát chung về giao dịch dân sự
B. Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể và hậu quả pháp lí
của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể
I.Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể
1.Khái niệm giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện
2.Các loại giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện
II. Hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của
chủ thể.

21



×