Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.44 KB, 12 trang )

I.

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tập trung kinh tế

1.1.
1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của tập trung kinh tế
Khái niệm tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế tại Việt Nam được hiểu dưới ba góc độ cơ bản sau:
Một là: với tính chất gắn liền với cấu trúc thị trường thì tập trung kinh tế được hiểu là quá trình
mà một số các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp
nhập, thông qua hành vi tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất.
Với cách tiếp cận này giúp làm rõ nguyên nhân và hậu quả của tập trung kinh tế đối với cấu trúc thị
trường cạnh tranh và cũng coi hiện tượng tích tụ là một phần của tập trung kinh tế.
Hai là: với tính chất là hành vi của doanh nghiệp thì tập trung kinh tế được hiểu là sự tăng thêm
tư bản do hợp nhất nhiều tư bản hay một tư bản này thu hút tư bản khác. Với khái niệm này cho thấy
được hình thức và bản chất của tập trung kinh tế.
Ba là: dưới góc độ của pháp luật. Luật cạnh tranh 2004 không dưa ra khái niệm thế nào là tập
trung kinh tế mà chỉ đưa ra các trường hợp của tập trung kinh tế và coi đây là các trường hợp gây hạn
chế cạnh tranh được quy định tại điều 3 của luật cạnh tranh” sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh
nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giũa các doanh nghiêp, các trường hợp kác của quy định
pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm của tập trung kinh tế
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi tập trung kinh tế doanh nghiệp. Dưới giác độ của pháp luật
chống hạn chế cạnh tranh, chỉ có các doanh nghiệp mới có thể là các chỉ thể của tập trung kinh tế.
Thứ hai, hành vi tập trung kinh tế được thực hiện dưới những hình thức nhất định: tập trung kinh
tế có thể được tiến hành thông qua những con đường như sáp nhập, hợp nhất, mua cổ phần, liên
doanh….
Thứ ba, hậu quả của tập trung kinh tế dẫn đến hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn
mạnh, thay đổi cấu trúc trên thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường.


1.2. Vai trò và những ảnh hưởng của tập trung kinh tế
Dưới góc độ từ lợi ích doanh nghiệp tham gia: Tập trung kinh tế xem là con đường ngắn nhất để
các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách tích tụ nguồn lực và thị trường mà không
tốn kém quá nhiều thời gian. Tạo khả năng hợp tác sâu sắc trong kinh doanh thong qua các hành vi
như mua một phần cổ phần của nhau,liên doanh…Giúp các bên chia sẽ rủi ro cho nhau. Tập trung
kinh tế có thể là giải pháp hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc cơ cấu lại hoạt động kinh doanh.
Dưới góc độ của thị trường cạnh tranh: Các nguồn lực được tập trung lại giúp kinh doanh hiệu
quả hơn tránh tình trạng manh mún nhỏ lẻ. Việc tập trung kinh tế về cơ bản là không làm giảm sự
cạnh tranh mà nó chỉ giúp nâng cao tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Trong thị trưởng cạnh
tranh thì tập trung kinh tế là hoạt động bình thường của doanh nghiệp đồng thời nâng cao tiềm lực
kinh tế.
1.2.1. Tác động tích cực
Tập trung kinh tế là động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và cả nền
kinh tế nói chung. Tập trung kinh tế góp phần làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp thông qua việc hình thành những công ty lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong nước và quốc tế. Với sự ra đời của các tập đoàn kinh tế lớn, tập trung kinh tế đã tạo điều kiện
thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật vì các công tu lớn mạnh được hình thành sẽ đủ sức đầu tư, nghiên
cứu đổi mới công nghệ và triển khai ứng dụng chúng trong sản xuất kinh doanh, một việc mà các công

1


ty nhỏ khó có thể thực hiện được. Không ai có thể phủ nhận được những vai trò quan trọng của tập
trung kinh tế đến cạnh tranh trên thị trường. Nó có tác động tích cực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Từ 1 nền sản xuất nhỏ đi lên, ở Việt Nam số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số. Chính vì
vậy đất nước ta rấ cần các doanh nghiệp lớn được hình thành trong quá trình tích tụ và tập trung tư
bản. bên cạnh đó cùng với quá trình mở cửa thị trường thông qua việc kí kết và gia nhập các hiệp định
thương mại song phương và đa phương đã và sẽ xuất hiện những công tu đa quốc gia hoạt động ở Việt
Nam. Với sức mạnh kinh tế của mỉnh, những công ty này có khả năng tạo lập được vị trí thống lĩnh, vị
trí độc quyền và trong bối cảnh đó, 1 bộ phận doanh nghiệp nội địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế

đang bị loại bỏ dần khỏi đời sống kinh tế. Để khắc phục những hạn chế trên thì tập trung kinh tế là một
cách thức đơn giản và hiệu quả và dễ thực hiện. Bằng việc hợp nhât, sáp nhập, mua lại, liên doanh giữa
các doanh nghiệp, các nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ được tập trung vào 1 số doanh nghiệp nhất
định. Từ đó các công ty lớn, các tập đoàn kinh tế hùng hậu được hình thành, có đủ sức cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài và vươn ra thị trường thế giới.
Tập trung kinh tế còn thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. các toàn kinh tế hùng hậu chiếm thị phần lớn, có thế mạnh về tài chính
được hình thành mới đủ sức đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu đổi
mới công nghệ và triển khai chúng vào sản xuất kinh doanh, một việc mà công ty nhỏ khó có thể thực
hiện được. Khoa học công nghệ tiến bộ được áp dụng sẽ đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ tốt nhất với giá cả hợp lý nhất, nâng cao đời sống nhân dân.
Tập trung kinh tế đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, tạo ra những
ngành kinh tế mũi nhọn. Tập trung kinh tế thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất vì tập trung
kinh tế dẫn đến sự phát triển sâu rộng của phân công lao động xã hội, đến quy mô sản xuất và kinh
doanh. Sau khi thực hiện tập trung kinh tế, các doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất,
áp dụng công nghệ hiện đại,đào tạo nhân lực. người lao động Việt Nam được huấn luyện bài bản có
trình độ tay nghề cia sẽ trở thành nguồn lực chính của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay
Như vậy, tập trung kinh tế không những có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhiều mặt của nền kinh tế
nói chung mà còn tăng cường tích tụ, nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm tối đa hóa lợi nhuận của các
công ty nói riêng.
1.2.2. Tác động tiêu cực
Tập trung kinh tế có thể dẫn tới hậu quả như hình thành các công ty độc quyền, gia tăng vị trí
thống lĩnh trên thị trường làm hạn chế cạnh tranh, gây tổn hại đến lợi ích người tiêu dùng. Các công ty
đa quốc gia đã tiến hành các vụ TTKT thông qua việc sáp nhập ,hợp nhất, mua lại doanh nghiệp hoặc
thực hiện các hành vi dưới dạng liên doanh nhưng sau đó chấp nhận lỗ hàng năm trời để làm cạn kiệt
khả năng tài chính của doanh nghiệp Việt Nam, sau đó mua lại phần vốn góp, chiếm lĩnh thị trường và
tiếp tục loại bỏ các doanh nghiệp đối thủ ra khỏi thị trường.
Tập trung kinh tế có xu hướng phân hóa các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có ưu thế sẽ
dành chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh, uy tín được nâng cao, lợi nhuận kinh tế thu được ở mức

cao hơn. Còn các doanh nghiệp không đủ năng lực cạnh tranh sẽ gặp nhiều khó khăn, đi vào bế tắc, có
nguy cơ dẫn đến phá sản. Đây cũng là nguy cơ dẫn đến hiện tượng độc quyền, loại bỏ đối thủ cạnh
tranh 1 cách vĩnh viễn. lúc này, họ dùng sức mạnh độc quyền của mình tự do tăng giá bán, giảm giá
mua hoặc áp đặt các điều kiện ràng buộc bất hợp lý trong kinh doanh như ép mua, ép bán, mua kèm,
bán kèm những sản phẩm dịch vụ không cần thiêt để thu lợi nhuận siêu ngạch, gây ảnh hưởng đến lợi

2


ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Độc quyền làm cho nền kinh tế rơi vào trạng thái ngừng trệ
tương đối, mặt nào đó đã làm yếu đi các lực lượng thị trường và làm cho các quy luật kinh tế trong cơ
chế thị trường vận động sai lệch, cản trở nền kinh tế phát triển.
Người lao động có thể bị mất việc làm do hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp dẫn đến lao động dôi dư
hoặc do doanh nghiệp của họ bị thất thế trong quá trình cạnh tranh với các tập đoàn lớn và đi đến phá
sản, Người lao động bị thất nghiệp hàng loạt tạo ra 1 gánh nặng lớn cho xã hội, cho Nhà nước, tạo ra
sức ép đơi với các chính sách kinh tế và xã hội của quốc gia.

II.

Tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật Việt Nam

II.1.

Các hình thức tập trung kinh tế
Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam không thiết kế mô hình kiểm soát tập trung kinh tế theo các
dạng như các nước trên thế giới mà thiết kế theo các hình thức pháp lý của tập trung kinh tế nhằm tạo
cơ sở cho các quy định có liên quan. Theo Ðiều 16 Luật Cạnh tranh do Quốc hội ban hành ngày
3/12/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2005 thì: "Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao
gồm: (1) Sáp nhập doanh nghiệp; (2) Hợp nhất doanh nghiệp; (3) Mua lại doanh nghiệp; (4) Liên
doanh giữa các doanh nghiệp; và (5) Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật".

“ Tập trung kinh tế ” là khái niệm dùng để chỉ sự tích tụ, tập trung của doanh nghiệp trên thị
trường nhằm hình thành doanh nghiệp lớn hơn. Cụ thể hơn, Điều 17 Luật Cạnh tranh đưa ra khái niệm
pháp lý của các hình thức tập trung kinh tế chủ yếu như sau:
o Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại
của doanh nghiệp bị sáp nhập.
o Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự
tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
o Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh
nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
o Liên doanh1 giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một
phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.
Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định các hình thức tập
trung kinh tế theo luật định, phân biệt với các hình thức tích tụ vốn khác.
Định nghĩa về hành vi sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp tại khoản 1, khoản 2 điều 17 Luật
cạnh tranh về cơ bản là phù hợp với điều 94, điều 95 của Bộ luật Dân sự; điều 152 và điều 153 Luật
doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2005 xác định cụ thể việc sáp nhập và hợp nhất
doanh nghiệp được thực hiện ở những doanh nghiệp cùng loại. Do vậy có thể hiểu các định nghĩa nêu
trên một cách đầy đủ thông qua các quy định có liên quan tại Luật doanh nghiệp 2005.
Theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, các hình thức tập trung kinh tế bao gồm:
Sáp nhập doanh nghiệp: Theo Khoản 1 Điều 17 Luật cạnh tranh năm 2004 thì: “Sáp nhập doanh
1 Thông thường ở Việt Nam, cứ nói đến liên doanh là chúng ta nghĩ ngay đến liên doanh với nước ngoài vì hình thức này được quy định trong Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên thuật ngữ liên doanh cũng xuất hiện ở một số văn bản khác như Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà
nước... nhưng không có định nghĩa cụ thể. Luật Cạnh tranh đã đưa ra khái niệm về liên doanh nhưng không nói đến quốc tịch của các bên liên doanh, do
đó có thể hiểu rằng việc liên doanh có thể tiến hành giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau hoặc giữa một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam với một
hoặc nhiều doanh nghiệp nước ngoài, miễn là có mục đích thành lập một doanh nghiệp mới.

3



nghiệp là việc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”. Như
vậy, sau khi xoá tên trong sổ đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp bị sáp nhập không còn tồn tại còn
doanh nghiệp nhận sáp nhập được hưởng toàn bộ tài sản cũng như các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp: Theo Khoản 2 Điều 17 Luật cạnh tranh năm 2004 thì: “Hợp nhất doanh
nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh
nghiệp bị hợp nhất”. Như vậy, sau khi đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp bị hợp nhất chấm dứt tồn
tại, doanh nghiệp hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp chịu trách nhiệm về các khoản
nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp: Khoản 3 Điều 17 Luật cạnh tranh định nghĩa: “mua lại doanh nghiệp là
việc 1 doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc 1 phần tài sản, cổ phần của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát,
chi phối hoạt động 1 hoặc toàn bộ ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. Như vậy, mua lại doanh
nghiệp gồm hai trường hợp: mua lại toàn bộ và mua lại 1 phần doanh nghiệp. Mua lại toàn bộ doanh
nghiệp về bản chất chính là hình thức sáp nhập doanh nghiệp, bởi vì mua lại toàn bộ doanh nghiệp,
người mua trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như tài sản của doanh nghiệp, được hưởng các
quyền, nghĩa vụ và tính hợp pháp của doanh nghiệp đó. Chỉ có 1 điểm khác biệt giữa 2 hình thức này
đó là việc doanh nghiệp bị mua lại có chấm dứt tồn tại hay không? Tùy thuộc vào ý chí chủ quan của
doanh nghiệp mua, nếu doanh nghiệp bị mua chấm dứt tồn tại thì đó chính là sáp nhập, còn nếu nó tiếp
tục hoạt động như 1 chủ thể kinh doanh độc lập thì sẽ trở thành công ty con trong 1 tập đoàn kinh tế.
Hành vi mua lại doanh nghiệp có sự khác biệt cơ bản với hành vi sáp nhập, hợp nhất hoặc liên
doanh giữa các doanh nghiệp. Hành vi mua lại doanh nghiệp là việc doanh nghiệp dùng sức mạnh tài
chính để mua toàn bộ hoặc một phần tài sản, cổ phần của doanh nghiệp khác và tài sản bị mua lại
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp mua lại. Sau khi mua lại doanh nghiệp, doanh nghiệp bán tài sản
không còn quyền tài sản như đối với doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp bị sáp nhập hay doanh
nghiệp bị hợp nhất trong các trường hợp liên doanh, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp mà tài sản được
chuyển quyền sở hữu sang doanh nghiệp mua lại, doanh nghiệp bị mua lại thường trở thành công ty
con hoặc chi nhánh của doanh nghiệp mua lại.

Liên doanh giữa các doanh nghiệp: Khoản 4 Điều 17 Luật Cạnh tranh quy định : “liên doanh
giữa các doanh nghiệp là việc hai hay nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành nên doanh nghiệp mới”. Tại Việt Nam, liên
doanh thường được hiểu là liên doanh với người nước ngoài vì hình thức này được quy định trong luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, thuật ngữa liên doanh cũng xuất hiện ở một số văn bản
pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp… nhưng không có định nghĩa cụ thể. Luật cạnh tranh đã đưa ra
khái niệm về liên doanh nhưng không nói đến quốc tịch của các bên liên doanh, do đó có thể hiểu rằng
việc liên doanh có thể tiến hành giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau hoặc giữa một hoặc nhiều
doanh nghiệp Việt Nam với một hoặc nhiều doanh nghiệp nước ngoài, miễn là có mục đích thành lập
doanh nghiệp mới.
Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp và hợp nhất doanh nghiệp cũng nhằm mục đích tạo
ra chủ thể pháp lý mới trên thị trường có sức mạnh kinh tế lớn hơn, song sự khác biệt cơ bản giữa hai
hành vi được thể hiện ở chỗ: đối với hành vi hợp nhất hợp nhất doanh nghiệp, sau khi chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp để hình thành doanh nghiệp mới thì sự tồn tại của các doanh

4


nghiệp bị hợp nhất chấm đứt về mặt pháp lý. Còn đối với hành vi liên doanh, các doanh nghiệp chỉ góp
một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của hình thành một doanh nghiệp mới, song các
doanh nghiệp góp vốn liên doanh vẫn tồn tại địa vị pháp lý của mình.
Các hành vi tập trung kinh tế khác: Đây là cách xây dựng pháp luật phổ biến của Việt Nam khi
sở dụng phương pháp liệt kê những vẫn dự phòng một điều khoản mở cho phép bổ sung khi cần thiết.
Từ các quy định trên có thể nhận thấy:
Thứ nhất, về bản chất pháp lý, mua lại doanh nghiệp là hình thức tập trung kinh tế bằng biện
pháp thiết lập quan hệ sở hữu giữa doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại. Việc mua lại
không phải là quá trình thống nhất về tổ chức giữa hai doanh nghiệp nói trên. Sau khi mua lại, doanh
nghiệp nắm quyền sở hữu có thể thực hiện việc sáp nhập hoặc không. Nếu thực hiện việc sáp nhập thì
sự thống nhất về tổ chức là kết quả của hoạt động sáp nhập và việc mua lại chỉ là tiền đề để có được
quyết định sáp nhập. Khi các doanh nghiệp tham gia đang hoạt động trên cùng thị trường liên quan thì

việc mua lại đã làm cho quan hệ cạnh tranh giữa họ không còn tồn tại. Các hình thức mua lại không bị
coi là tập trung kinh tế bao gồm: "Doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng mua lại doanh nghiệp
khác nhằm mục đích bán lại trong thời hạn dài nhất là 01 năm. Doanh nghiệp mua lại không thực
hiện quyền kiểm soát hoặc chi phối doanh nghiệp bị mua lại; hoặc Doanh nghiệp thực hiện quyền
kiểm soát/chi phối nhưng chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để đạt được mục đích bán lại". (Điều 35 Nghị
định 116/2005).
Thứ hai, Về quyền chi phối hoặc kiểm soát doanh nghiệp bị mua lại, pháp luật cạnh tranh quy
định quyền kiểm soát hoặc chi phối được hiểu là trường hợp doanh nghiệp mua lại dành được quyền
sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ chiếm được trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội
đồng cổ đông, Hội đồng quản trị hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh
nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp mua lại chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của
doanh nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị
kiểm soát2. Luật Doanh nghiệp năm 2005 không trực tiếp sử dụng thuật ngữ quyền chi phối hoặc kiểm
soát doanh nghiệp khác mà sử dụng quan hệ mẹ - con giữa các công ty để thể hiện mối quan hệ sở hữu
được xác lập từ việc mua lại hay góp vốn. Theo đó, một công ty được coi là công ty mẹ của công ty
khác nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông đã phát hành của công ty đó;
(b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó;
(c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công ty đó3.
Về ý nghĩa pháp lý, quy định trong hai văn bản trên là tương đồng, song về căn cứ xác định và
giá trị ứng dụng lại có những khác biệt đáng kể. Luật Doanh nghiệp cơ bản dựa trên mức vốn sở hữu
hoặc giá trị quyền quyết định đến bộ máy quản lý, điều hành doanh nghiệp trong khi Luật Cạnh tranh
đã quy đổi mức sở hữu thành giá trị của quyền biểu quyết trong bộ máy quản lý để xác định. Mặt khác,
Luật Doanh nghiệp còn sử dụng quyền quyết định đến việc sửa đổi, bổ sung điều lệ làm một trong
những trường hợp xác lập quan hệ mẹ - con, trong khi Luật Cạnh tranh sử dụng quyền chi phối các
chính sách tài chính, hoạt động của doanh nghiệp bị mua lại làm căn cứ xác định.

2 Điều 34 Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 09 năm 2005
3 Khoản 15 điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005


5


Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp
một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới4.
Liên doanh là dạng liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua việc cùng tham gia thành lập một doanh
nghiệp mới. Nói cách khác, sự tồn tại của doanh nghiệp mới tạo nên mối liên kết giữa các doanh
nghiệp tham gia. Xét về bản chất, hoạt động liên doanh đồng nghĩa với hoạt động góp vốn thành lập
doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật các Tổ chức tín dụng và
Luật Đầu tư. Thế nên, ngoài các quy định của Luật Cạnh tranh, hoạt động liên doanh còn chịu sự điều
chỉnh bởi các quy định về đăng ký kinh doanh, về thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư trong
các văn bản nói trên.
II.2. Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế
II.2.1. Các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi
thực hiện
Việt Nam áp dụng kiểm soát tập trung kinh tế theo hình thức tiền kiểm và yêu cầu trong trường
hợp các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường
liên quan thì phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi thực hiện hành vi tập trung kinh
tế. Trường hợp này bị áp dụng thủ tục kiểm soát bởi vì khi một doanh nghiệp có thị phần từ 30% trên
thị trường liên quan sẽ bị coi là có vị trí thống lĩnh và cần phải được kiểm soát. Như vậy, nếu TTKT
thuộc diện phải thông báo thì thủ tục xem xét TTKT bao gồm các bước:
Bước 1: Thông báo tập trung kinh tế: Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ
30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo
cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Trường hợp thị phần kết hợp của
các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc trường hợp
doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại vừa và nhỏ theo quy định của pháp luật
thì không phải thông báo.
Bước 2: Thụ lý hồ sơ thông báo tập trung kinh tế: Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày
tiếp nhận hồ sơ thông báo việc tiếp nhận hồ sơ, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm thông báo

bằng văn bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ về tính hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ; trường hợp hồ sơ chưa đầy
đủ, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm chỉ rõ nhứng nội dung cần bổ sung.
Bước 3: Trả lời thông bào về hồ sơ tập trung kinh tế: Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận
được đầy đủ hồ sơ thông báo tập trung kinh tế, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm trả lời bằng
văn bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ. Văn bản trả lời của cơ quan quản lý cạnh tranh phải xác định tập
trung kinh tế thuộc một trong các trường hợp sau đây: tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị
cấm; tập trung kinh tế bị cấm theo quy định tại điều 18 Luật cạnh tranh; lý do cần phải được nêu rõ
trong văn bản trả lời. Trường hợp tập trung kinh tế có nhiều tình tiết phức tạp, thời hạn trả lời quy định
có thể được thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn nhưng không quá 2 lần, mỗi lân không quá
30 ngày và phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ chậm nhất là 3 ngày làm việc
trước ngày hết hạn trả lời thông báo, nêu rõ lý do của việc gia hạn.
Bước 4: Thực hiện thủ tục tập trung kinh tế tại cơ quan đăng ký kinh doanh: Đại diện hợp pháp
của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thuộc diện phải thông báo chỉ được làm thủ tục tập
trung kinh tế tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp sau khi
được cơ quan quản lý cạnh tranh trả lời bằng văn bản về việc TTKT không thuộc trường hợp bị cấm.
4 Khoản 4 điều 17 Luật Cạnh tranh năm 2004

6


II.2.2. Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm
Điều 18 Luật Cạnh tranh quy định: “cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại
điều 19 của Luật này hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thục loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật”. Luật cạnh tranh quy định các trường hợp tập
trung kinh tế bị cấm nhằm tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp thực hiện hành vi tập trung kinh tế
một cách hợp pháp, tao cơ sở pháp lý cho cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi tập trung kinh tế
trái pháp luật và là cơ sở cho việc xử lý các vụ việc tập trung kinh tế theo luật định.
Theo điều 18 thì không phải tất cả các trường hợp tập trung kinh tế đều bị cấm mà chỉ cấm khi
thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên

quan. Quy định này là hoàn toàn hợp lý. Mục đích của quy định này là nhằm ngăn cản việc sáp nhập,
hợp nhất, mua lại, liên doanh dẫn đến hậu quả pháp lý là tạo ra một doanh nghiệp có khả năng khống
chế thị trường. Bởi lẽ khi nắm giữ trên 50% thị phần, doanh nghiệp có đủ khả năng hành động, thao
túng thị trường mà không cần quan tâm đến đối thủ dẽ dàng lạm dụng vị trí thống lĩnh để gây hạn chế
cạnh tranh cho các doanh nghiệp khác cũng ngành nghề. Việc ngăn cản hình thành doanh nghiệp
khống chế thị trường sẽ giúp duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, có lợi cho người tiêu dung mà
vẫn không ngăn cản việc hình thành các công ty lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước
và quốc tế. Ở Việt Nam hiện nay, chỉ có một số ít tổng công ty chiếm thị phần trên 50% như điện lực,
dầu khí, xăng dầu, hàng không, đường sắt…và đây là độc quyền tự nhiên do lịch sử để lại. Ngay cả
tổng công ty thép hiện nay cũng mới chỉ chiếm 20% thị phần sản xuất phôi thép và gần 30% thị phần
sản phẩm thép tại Việt Nam. Do vậy, theo Luật cạnh tranh thì tổng công ty thép vẫn có quyền tập trung
kinh tế để mạnh hơn nữa.
Có hai trường hợp ngoại lệ theo Điều 18 là trường hợp theo Điều 19 Luật cạnh tranh và trường
hợp sau khi tham gia tập trung kinh tế vẫn thuộc trường hợp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong nền kinh
tế Việt Nam hiện nay,các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 95% trong tổng số 80.000 doanh nghiệp
thì nhu cầu liên kết với nhau để tăng cường sức cạnh tranh là cần thiết và tất yếu. Pháp luật không cấm
tập trung kinh tế trong trường hợp này là phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam.
II.2.3. Trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm
Các trường hợp tập trung kinh tế được miễn trừ ở Việt Nam được ghi nhận tại điều 19 Luật cạnh
tranh. Điều luật này quy định các trường hợp tập trung kinh tế có thể được xem xét miễn trừ với mục
đích hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, tạo thuận lợi cho việc
hình thành những tập đoàn kinh tế mạnh đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nhằm đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đó là các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy
định tại Điều 18 nhưng có thể được xem xét miễn trừ khi:
Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình
trạng phá sản. bộ trưởng Bộ Thương mạu xem xét quyết định việc miễn trừ bằng văn bản đối với
trường hợp này. Ủy ban Thường vụ Quốc hộ giải thích quy định trên như sau: Doanh nghiệp đang
trong nguy cơ giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hoặc
mất khả năng thanh toán chứ hoàn toàn không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp dừng hoạt động và
không có nghĩa là xã hội không có nhu cầu sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vần có

hệ thống phân phối và uy tín của sản phẩm và đặc biệt là vẫn có thị phần trên thị trường do sự trung
thành của khách hàng với sản phẩm của doanh nghiệp.

7


Theo Khoản 1 Điều 36 Nghị định 116/2005/NĐ-CP thì: “doanh nghiệp đang trong nguy cơ bị
giải thể là doanh nghiệp thuộc trường hợp giải thể theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ của
doanh nghiệp nhưng chưa tiến hành thru tục giải thể hoặc đang tiến hành thủ tục giải thể nhưng chưa
có quyết định giải thể của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”. Theo Luật phá sản,
doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các
khoản nợ đế hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc miễn trừ bằng
văn bản đối với trường hợp tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển
kinh tế- xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.
Trong hai trường hợp miễn trừ, việc tập trung kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn hơn
bất lợi của nó đối với kinh tế. Trường hợp miễn trừ thứ nhất được áp dụng khi có cơ sở để khẳng định
rằng việc tập trung kinh tế là nhằm cứu vãn 1 chủ thể kinh doanh đang trên bờ vực giải thể hoặc phá
sản, giữ được công ăn việc làm cho người lao động trong doanh nghiệp. trong trường hợp miễn trừ thứ
hai, nếu tập trung kinh tế vượt quá 50% thị phần nhưng nhằm mục đích tạo ra thế mạnh trong cạnh
tranh quốc tế, hoặc để phát triển xuất khẩu thì vẫn được phép thực hiện vì lợi ích kinh tế của nó rõ ràng
rất lớn, có thể đền bù cho những hậu quả xấu nó gây cho cạnh tranh.

III. Thực tiễn thực hiện tập trung kinh tế ở Việt Nam và một số kiến
nghị
III.1. Thực tiễn thực hiện tập trung kinh tế ở Việt Nam
III.1.1.Những vấn đề bất cập trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật về hiện tượng tập trung
kinh tế.
Quy định của Nhà nước liên quan đến hoạt động tập trung kinh tế được đề cập đến trong nhiều
văn bản pháp luật khác nhau như Bộ Luật Dân sự; Luật Cạnh tranh 2004; Luật Doanh nghiệp 2005;
Luật Chứng khoán 2006; Luật Đầu tư 2005… Do chịu sự điều tiết của nhiều văn bản pháp luật khác

nhau nên hoạt động tập trung kinh tế vẫn tồn tại những cách hiểu khác nhau như:
- Luật Cạnh tranh 2004, hoạt động tập trung kinh tế được xem là hành vi tập trung kinh tế thuộc
nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh;
- Luật Doanh nghiệp 2005, hoạt động tập trung kinh tế được xem là hành vi “tổ chức lạidoanh
nghiệp”;
Tuy nhiên các quy định trong các văn bản hiện hành không đối chọi nhau mà tạo ra cơ chế phối
hợp để kiểm soát tập trung kinh tế, ví dụ sự phối hợp giữa pháp luật canh tranh và pháp Luật doanh
nghiệp – theo đó pháp luật về doanh nghiệp sẽ thừa nhận quyền được tập trung kinh tế của nhà kinh
doanh, quy định về thủ tục pháp lý để họ thực hiện các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại và góp
vốn để bảo đảm trật tự pháp lý trong kinh doanh,còn Pháp luật cạnh tranh kiểm soát các hiện tượng tập
trung kinh tế có khả năng đe dọa đến trật tự cạnh tranh của thị trường bằng hai cơ chế, đó là: (1) Cấm
đoán các trường hợp tập trung kinh tế làm tổn hại đến tình trạng cạnh tranh; (2) Kiểm soát các trường
hợp có khả năng tổn hại đến cạnh tra. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận được những lỗ hổng
còn đang tồn tại trên thực tiễn cũng như nhưng trở ngại do chúng tạo ra cho những người hoạt động
trong lĩnh vực này.
Theo một số chuyên gia, hoạt động tập trung kinh tế tại Việt Nam trong thời gian gần đây bùng
nổ rầm rộ và phát triển mạnh mẽ trên thị trường, nhưng hiệu quả mang lại không như mong muốn, bởi
hệ thống pháp luật của chúng ta còn thiếu. Điều 94 và điều 95 BLDS 2005 quy định việc sáp nhập hợp

8


nhất chỉ được tiến hành giữa các pháp nhân cùng loại, nhưng lại không đưa ra khái niệm pháp nhân
cùng loại dẫn đến nhiều kho khăn cho người áp dụng. Như vậy muốn thực hiện tập trung kinh tế giữa
các pháp nhân không cùng loại chỉ có hai cách là mua lại hoặc liên doanh, tuy nhiên hiện tại lại chưa
có văn bản pháp luật nào hướng dẫn hoạt động tập trung kinh tế giữa các pháp nhân không cùng loại.
Ngay cả trong Luật Cạnh tranh cũng không định nghĩa rõ ràng về hoạt động mua lại. Chính điều này sẽ
gây ra nhiều tranh cãi khi xác định giữa việc mua cổ phần và việc mua lại tài sản của một doanh
nghiệp. Bên cạnh đó việc pháp luật cạnh tranh chỉ kiểm soát và cấm đoán các hành vi tập trung theo
chiều ngang cho thấy giới hạn điều chỉnh của pháp luật. Trong khi đó, các hiện tượng tập trung kinh tế

theo chiều dọc hoặc tập trung hỗn hợp cũng đã được các nhà kinh tế học khuyến cáo về khả năng gây
hại cho thị trường cạnh tranh 5. Luật Cạnh tranh hiện nay cấm những hoạt động sáp nhập và mua lại có
thể dẫn tới việc một doanh nghiệp có mức “tập trung kinh tế” lớn hơn 50% “thị trường liên quan”. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là Luật Cạnh tranh và các văn bản dưới luật không có quy định rõ ràng về khái
niệm “thị trường liên quan”. Và trong trường hợp một doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng (có
nhiều thị trường khác nhau) thì tuỳ theo các cách tính khác nhau có thể dẫn tới kết quả là doanh nghiệp
đó có thể bị coi là có “tập trung kinh tế” trên 50% hoặc có thể dưới
III.1.2.Những trở ngại khi tiến hành tập trung kinh tế tại Việt Nam
Thứ nhất, Thiếu tính rõ ràng trong luật sở hữu, bao gồm việc đưa ra các mức độ về quyền sở hữu
cho nhà đầu tư nước nước ngoài theo cam kết với WTO. Pháp luật về quyền sở hữu quy định tại Hiến
pháp và Bộ luật Dân sự đang có nhiều điểm bất cập và bất hợp lý. Hiến pháp năm 1992 quy định có 3
hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân. Bộ luật Dân sự quy định các hình thức sở hữu: Nhà
nước, tập thể, tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Những quy định này mang tính liệt
kê, chung chung hiện không giải quyết được nhiều vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra, và sẽ gây nhiều
bất lợi cho chính Việt Nam khi thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực này,
cũng như khiến cho các nhà đầu tư khác e ngại.
Thứ hai, Công ty nước ngoài không thể thành lập các công ty mẹ đầu tư tại Việt Nam.
Thứ ba, Các vấn đề xung quanh việc hoàn tất việc mua bán tài sản.
Thứ tư, Có những văn kiện mới chính thức về nguồn vốn, cơ cấu doanh nghiệp được pháp luật
cho phép nhừng các cơ quan có thẩm quyền chưa quen với việc áp dụng.
Thứ năm, Thiếu các thông tin có sẵn trên các phượng tiện thông tin đại chúng.
Hiện nay, quy định về hoạt động tập trunh kinh tế của Việt Nam nằm rải rác trong BLDS, Luật
doanh nghiệp và Luật Cạnh tranh,... Việc thiếu thông tin trong các quyết định tập trung kinh tế sẽ
mang lại nhiều rủi ro cho chính doanh nghiệp. Ví dụ trong trường hợp của Việt Nam - thông tin tài
chính thiếu minh bạch cũng như chất lượng thông tin thấp; khung khổ pháp lý chưa đầy đủ và chặt
chẽ, tỷ lệ rủi ro được đánh giá là khá cao. Bên cạnh đó việc thiếu thông cũng làm các doanh nghiệp
luôn lúng túng với những vấn đề như các hình thức giao dịch, thẩm định và điều tra, đàm phán và soạn
thảo hợp đồng…
Thứ sáu, Các vấn đề xung quanh việc sửa đổi giấy phép, các yêu cầu hành chính khác làm chậm

tiến trình hoàn tất các giao dịch.
Ngoài ra về thủ tục còn nhiều khâu của Việt Nam đã làm nhiều nhà đầu tư “ngán” mỗi khi có ý
định tập trung kinh tế tại Việt Nam. Chẳng hạn, khi mua 10% hoặc 20% cổ phần của một doanh
5 Trích kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn đề của Việt Nam - “Nguyễn Ngọc Sơn” - Nghiên cứu Lập pháp tháng 07/2006 .

9


nghiệp, ở nước ngoài chỉ cần mất khoảng 1 đến 2 ngày thì thời gian đó tại Việt Nam ít nhất cũng phải
mất vài tháng mới xong khâu thẩm tra, phê duyệt… Mặt khác pháp luật quy định kết quả của tập trung
kinh tế tạo thị phần từ 30% trở lên phải thông báo với cơ quan quản lý. Tuy nhiên việc xác định được
bao nhiêu phần trăm là điều rất khó mà doanh nghiệp và cả cơ quan quản lý cũng khó xác định được.
Theo Pricewaterhuose Coopers, hãng cung cấp dịch vụ tư vấn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
hàng đầu thế giới, số vụ sáp nhập và mua lại các doanh nghiệp (M&A) ở Việt Nam có tốc độ tăng
nhanh nhất trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Bên cạnh những lợi ích từ M&A như hợp lý hóa
tổ chức sản xuất, kinh doanh nhờ lợi thế kinh tế theo quy mô và phạm vi, nhanh chóng tiếp cận thị
trường mới, nâng cao hiệu quả đầu tư cho sáng tạo,… con đường tăng trưởng ngoại sinh này của
doanh nghiệp có thể tiềm ẩn những vấn đề về cạnh tranh như sự hình thành nên các doanh nghiệp có
sức mạnh chi phối thị trường, triệt tiêu đối thủ cạnh tranh hoặc khả năng hình thành nên các thỏa thuận
gây hạn chế cạnh tranh do hiệu ứng phối hợp khi số lượng “người chơi” trên thị trường giảm bớt.
Một số vấn đề phát sinh liên quan tới thể chế giám sát, kiểm soát tập trung kinh tế tại Việt Nam:
- Xuất phát từ đặc điểm quy mô doanh nghiệp tuyệt đại đa số là nhỏ bé, các vụ giao dịch quy mô
nhỏ và vừa vẫn chiếm đại đa số thì các vụ tập trung kinh tế chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh
chưa nhiều. Tuy nhiên, trong thời gian tới, thực tế này có thể thay đổi do tình hình kinh tế có nhiều
biến động.
- Đa số các vụ tập trung kinh tế có quy mô đáng kể đều do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thực hiện6, do vậy khó tránh khỏi xu hướng tập trung kinh tế chỉ tập trung vào một vài lĩnh vực
nào đó và nhằm cho phép một số ít công ty chi phối thị trường, tác động tới môi trường cạnh tranh và
hạn chế sự phét triển trong một số ngành, lĩnh vực bị chi phối đó. Để kiểm soát xu hướng này trong
tương lai với cách tiếp cận là phát hiện và có biện pháp ngăn ngừa các hành vi lạm dụng sức mạnh thị

trường của những doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường sau khi thực hiện tập trung kinh tế.
Việc xử lý và điều tiết các giao dịch tập trung kinh tế thuộc đối tượng phải kiểm soát sẽ được xem xét
trên cơ sở đánh giá tác động tổng thể của tập trung kinh tế đối với lợi ích của xã hội và có sự phân tích
cân bằng giữa những tác động tích cực và tiêu cực. Thể chế giám sát hiện nay chưa thể hiện được
những vấn đề sẽ phát sinh trên thực tiễn như đã nêu.
- Thực tế cho thấy mặc dù số lượng các giao dịch M&A là rất lớn và cũng có khả năng nhiều
giao dịch có quy mô lớn nhưng số lượng các giao dịch có thông báo đến Cục Quản lý cạnh tranh theo
quy định của Luật cạnh tranh còn khá khiêm tốn. Một phần vì quy mô các doanh nghiệp hiện nay còn
nhỏ nên mức độ kết hợp thị phần còn nhỏ (dưới 30%). Nhưng điểm quan trọng là việc xác định thị
phần kết hợp trên thị trường liên quan là một vấn đề kỹ thuật khó, gây lúng túng cho các doanh nghiệp.
- Cần thống nhất một khái niệm và cách hiểu đúng về "kiểm soát tập trung kinh tế", đây là khái
niệm được đưa ra dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh và là một chức năng của Cục Quản lý cạnh
tranh. Vì vậy, kiểm soát tập trung kinh tế không có nghĩa là kiểm soát tất cả các hoạt động mua lại và
sáp nhập trên thị trường mà chỉ kiểm soát những hoạt động thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật cạnh
tranh, những giao dịch mà có khả năng hình thành vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền dẫn tới nguy cơ
lạm dụng vị trí này và gay tổn hại tới môi trường cạnh tranh. Do đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về
bức tranh tổng quát mua lại và sáp nhập trên thị trường cũng hết sức quan trọng để phục vụ cho việc
phát hiện và giám sát các hoạt động tập trung kinh tế thuộc đối tượng kiểm sóat được thuận lợi và có
tính khả thi cao.
III.2. Một số kiến nghị
6

Xem Bảng 1 Phụ lục.

10


Cần thống nhất và làm rõ các khái niệm về những hành vi tập trung kinh tế, đặc biệt là quan
niệm về hành vi mua lại doanh nghiệp giữa các lĩnh vực pháp luật có liên quan
Những quan niệm không đầy đủ trong pháp luật đầu tư, doanh nghiệp cần được sửa đổi cho phù

hợp với nội dung tương ứng trong Luật Cạnh tranh. Ngoài ra, khả năng mở rộng khái niệm về tập
trung kinh tế cũng cần được nghiên cứu đối với những trường hợp liên kết thông qua việc quản lý mà
không là sở hữu vốn hay tổ chức lại. Chẳng hạn, trong pháp luật đầu tư chỉ có một quy định đề cập đến
vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế dưới góc độ của Luật Cạnh tranh: khi sáp nhập, mua lại công ty, chi
nhánh tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp về điều kiện tập trung kinh tế
và pháp luật về cạnh tranh. Quy định này cho thấy, pháp luật đầu tư chưa có được những đánh giá
chính xác về ảnh hưởng của các hình thức đầu tư đến thị trường cạnh tranh. Với quy định nói trên,
dường như pháp luật đầu tư chỉ coi hiện tượng sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh tại Việt Nam là
những hiện tượng có liên quan đến tập trung kinh tế. Trong khi đó, phần lớn các hình thức đầu tư được
ghi nhận đều có thể được sử dụng như biện pháp tập trung kinh tế như liên doanh thành lập doanh
nghiệp giữa doanh nghiệp có vốn nước ngoài với doanh nghiệp có vốn trong nước, giữa các doanh
nghiệp trong nước với nhau và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nhau, hình thức mua cổ
phần, mua vốn góp để quản lý doanh nghiệp. Tương tự như vậy, quy định trên trong pháp luật đầu tư
chỉ là sự dẫn chiếu đến khả năng áp dụng Luật Cạnh tranh mà chưa có cơ chế phối hợp một cách hợp
lý. Theo quy định tại Điều 20 Luật Cạnh tranh, nếu doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế
vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ thì không phải thực hiện thủ tục thông báo tập trung kinh tế.
Tuy nhiên, định nghĩa thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì lại chỉ được quy định tại Điều 3 Nghị
định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
thì "Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không
quá 300 người". Theo Nghị định này, đối tượng áp dụng của khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ là
các doanh nghiệp trong nước mà không áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về xác định thị trường liên quan:
- Không chỉ nhận dạng thị trường qua việc xác định trường liên quan về không gian và đối tượng
mà còn phải cân nhắc về thời điểm xác định thị trường liên quan vì cơ sở thực tế của việc áp dụng
pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh là nhận dạng hình thái của thị trường... Để nhận dạng được thị
trường dưới tác động của các hành vi hạn chế cạnh tranh cần phải xác định được thị trường thông qua
3 dấu hiệu: đối tượng của thị trường, giới hạn không gian của thị trường và giới hạn thời gian của thị
trường. Phạm vi của thị trường liên quan và thị phần của từng doanh nghiệp trên thị trường luôn biến
đổi không ngừng, do vậy tại thời điểm hành vi tập trung kinh tế được thực hiện thì phạm vi thị trường

liên quan có thể mở rộng hoặc hẹp hơn với thời điểm tiến hành điều tra sau đó. Nên xem xét thị trường
tại thời điểm các bên thực hiện hành vi tập trung kinh tế, nó sẽ tính toán được chính xác thị phần kết
hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế; từ đó đảm bảo kiểm soát được các hành vi tập
trung kinh tế mà vẫn không can thiệp thái quá vào quyền tự do liên kết kinh doanh của các doanh
nghiệp bằng các lệnh cấm thực hiện tập trung kinh tế không công bằng và ảnh hưởng đến kế hoạch
phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh phải tham khảo nhiều phương pháp khác nhau khi xác
định thị trường liên quan và những phương pháp đó cần được quy định chi tiết trong pháp luật cạnh
tranh, và đóng vai trò là cơ sở pháp lý định hướng cho công việc điều tra quá trình TTKT của cơ quan
quản lý nhà nước về cạnh tranh.

11


Bổ sung thêm tiêu chí vốn để kiểm soát tập trung kinh tế theo hình thức liên doanh. Luật cạnh
tranh Việt Nam mới chỉ chú ý đến liên kết theo chiều ngang vì chỉ quan tâm đến thị phần của doanh
nghiệp song chắc chắn không có cơ sở để ngăn ngừa, cấm đoán việc liên doanh giữa các doanh nghiệp,
vì liên doanh hình thành một doanh nghiệp mới nên hoàn toàn chưa có thị phần. Mặc khác, việc xác
định thị phần của các vụ tập trung kinh tế theo chiều dọc hoặc hỗn hợp cũng rất khó xác định, ngay cả
Pháp cũng đã bỏ tiêu chí thị phần và thay vào đó bằng tiêu chí doanh thu để tính ngưỡng kiểm soát
hành vi tập trung kinh tế.
Cần thống nhất và làm rõ các khái niệm về những hành vi tập trung kinh tế, đặc biệt là quan
niệm về hành vi mua lại doanh nghiệp giữa các lĩnh vực pháp luật có liên quan. Những quan niệm
không đầy đủ trong pháp luật đầu tư, doanh nghiệp…cần được sửa đổi cho phù hợp với nội dung
tương ứng trong Luật cạnh tranh. Ngoài ra, khả năng mở rộng khái niệm về tập trung kinh tế cũng cần
được nghiên cứu đối với những trường hợp liên kết thông qua việc quản lý mà không là sở hữu vốn
hay tổ chức lại. Chẳng hạn, trong pháp luật đầu tư chỉ có một quy định đề cập đến vấn đề kiểm soát
TTKT dưới góc độ của Luật Cạnh tranh: “khi sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh tại Việt Nam phải
tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp về điều kiện tập trung kinh tế và pháp luật về cạnh
trạnh” (Khoản 2 Điều 10 Nghị định 108/2006/NĐ-CP). Quy định này cho thấy, pháp luật đầu tư chưa

có được những đánh giá chính xác về ảnh hưởng của các hình thức đầu tư đến thị trường cạnh tranh.
Với quy định như trên, dường như pháp luật đầu tư chỉ coi hiện tượng sáp nhập, mua lại công ty, chi
nhánh tại Việt Nam là những hiện tượng có liên quan đến tập trung kinh tế. Trong khi đó, phần lớn các
hình thức đầu tư được ghi nhận đều có thể sử dụng như biện pháp tập trung kinh tế như liên doanh
thành lập doanh nghiệp giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp có vốn trong
nước, giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với
nhau, hình thức mua cổ phần, mua vốn góp để quản lý doanh nghiệp…
Để việc kiểm soát tập trung kinh tế được chủ động và hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tran nên có
những nghiên cứu và dự đoán trước những thị trường, những lĩnh vực kinh tế có nguy cơ xảy ra hiện
tượng tập trung kinh tế, thậm chí những doanh nghiệp có khả năng thực hiện hành vi thâu tóm thị
trường bằng hình thức tập trung kinh tế.
Cần quy định cụ thể hơn trường hợp miền trừ theo quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật canh
tranh 2004. Khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh quy định cho phép miễn trừ đối với các vụ tập trung kinh
tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kĩ thuật, công nghệ.
Quy định này sẽ dẫn đến cách hiểu không thống nhất bởi việc đánh giá dự án tập trung kinh tế có góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kĩ thuật, công nghệ hay không lại dựa trên sự suy đoán. Do
vậy, nếu không có những tiêu chí cụ thể xác định tập trung kinh tế như thế nào là sẽ góp phần phát
triển kinh tế - xã hội thì việc đánh giá tiêu chí đó sẽ phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của cơ quan
thực thi Luật cạnh tranh và doanh nghiệp. Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế cần được hoàn thiện
và vận hành theo những nguyên tắc sau: Pháp luật cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tách những
trường hợp tập trung kinh tế gây tổn hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và nhưng trường hợp có tác
dụng tích cực cho nền kinh tế; Các thủ tục cần được thực hiện không bị lạm dụng để gây khó khăn cho
doanh nghiệp, không được cản trở các chiến lược, kế hoạch kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp.

12



×