Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích về tình trạng trẻ em phải lao động sớm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.5 KB, 13 trang )

A.Lời mở đầu
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” là câu nói bao hàm đầy đủ ý nghĩa về
Trẻ Em. Đấy là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng,
mỗi dòng tộc và mỗi gia đình…
Vì vậy nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên và nhi đồng là
trách nhiệm của toàn xã hội. Ngày 10/2/1948 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông
qua và tuyên bố NQ số 217A về Quyền con người. Tại điều 25, Liên hợp quốc đã
thông báo rằng: “Trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt, tất cả trẻ em
trong hay ngoài giá thú đều được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau”.
Nhiều thập kỷ qua, việc chăm sóc trẻ em ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đã
được quan tâm ở những mức độ khác nhau, song do các yếu tố chủ quan và khách
quan như thiên tai, mất mùa, chiến tranh, hoặc do trình độ dân trí thấp… trẻ em vẫn
còn phải gánh chịu những nỗi đau, những thiệt thòi, trẻ em vẫn bị đói rét và vẫn bị
giết hại trong những cuộc chiến, thậm chí vẫn bị bắt buộc cầm súng ra trận, hoặc phải
tự lao động nuôi thân quá sớm, hoặc bị mua bán, xâm hại…
Tình trạng trẻ em phải lao động sớm là một thực trạng đáng buồn vẫn đang tồn
tại ở trên thế giới nói chung và ở Việt Nam ta nói riêng. Một vấn đề được đặt ra là ai
là người có trách nhiệm trước tình trạng này và giải pháp để thoát khỏi tình trạng này
là gì? Câu trả lời sẽ có trong bài tiểu luận sau đây với đề tài : “Trách nhiệm của cha
mẹ và những người thân thích về tình trạng trẻ em phải lao động sớm”.
Vì trình độ còn nhiều hạn chế, thời gian tìm hiểu có hạn nên bài viết không tránh
khỏi những thiếu xót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và bè bạn
để em có thể hoàn thiện bài viết của mình hơn.

[1]


B.Nội dung
I.Trẻ em - đối tượng được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt theo quy định của pháp luật
thế giới và pháp luật Việt Nam.
“Trẻ em” là từ ngữ rất thông dụng hay được sử dụng để chỉ đối tượng là những


đứa trẻ lứa tuổi nhỏ. Tuy nhiên,theo quy định của pháp luật, bao nhiêu tuổi được coi
là “trẻ em” thì không phải ai cũng biết. Theo Điều 1 – Công ước quốc tế về quyền trẻ
em có ghi rõ rằng: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên
sớm hơn”. Như vậy, “trẻ em” theo luật pháp chung của quốc tế là người ở độ tuổi 018 tuổi. Riêng ở Việt Nam ta, vì nhiều nguyên nhân khách quan (lịch sử,truyền thống
văn hóa, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí…) mà pháp luật Việt
Nam quy định độ tuổi này khác đi một chút so với độ tuổi chung của thế giới. Cụ thể
là theo Điều 1 Luật của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 25/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt
Nam dưới mười sáu tuổi.”
Trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Liên Hợp Quốc đã công bố rằng
trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt.
“Tin tưởng rằng, gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự
nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ
em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết có thể đảm đương được đầy đủ các trách
nhiệm của mình trong cộng đồng. Công nhận rằng, để phát triển đầy đủ và hài hoà
nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trên môi trường gia đình, trong bầu
không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông. Xét rằng, trẻ em cần được chuẩn bị
đầy đủ để sống cuộc sống cá nhân trong xã hội và cần được nuôi dưỡng theo tinh
thần các lý tưởng đã nêu ra trong hiến chương Liên Hợp Quốc, đặc biệt về tinh thần
hoà bình, phẩm giá, khoan dung, tự do, bình đẳng và đoàn kết,
[2]


(…)
Ghi nhớ rằng, như đã chỉ ra trong Tuyên ngôn về Quyền trẻ em, “do còn non nớt
về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ
thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” …”
(Trích “Lời mở đầu” trong Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em”)

Những lời khẳng định trên đây được trích từ phần lời mở đầu trong Công ước của
Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em đã thể hiện một cách rõ ràng quan điểm của tổ chức
Liên Hiệp Quốc về việc trẻ em là đối tượng đặc biệt cần được toàn thế giới quan tâm,
chăm sóc và bảo vệ bởi trẻ em “ còn non nớt về thể chất và trí tuệ”. Công ước quốc tế
về quyền trẻ em đã được Liên Hiệp Quốc thông qua và mở cho các nước ký, phê
chuẩn và gia nhập theo nghị quyết 44/25 ngày 20-11-1989 của Đại Hội Đồng Liên
Hiệp Quốc, có hiệu lực từ ngày 2-9-1990 theo Điều 49 của Công ước. Công ước quốc
tế về quyền trẻ em là văn bản pháp luật quan trọng nhất trên thế giới về việc đảm bảo
các quyền của trẻ em.
Riêng Việt Nam, nước ta cũng đã ký vào công ước quốc tế về quyền trẻ em ngày
20 – 2 – 1990. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam cũng công nhận các quyền trẻ
em được ghi nhận trong Công ước quốc tế và công nhận rằng trẻ em là đối tượng
được chăm sóc, bảo vệ đặc biệt. Không dừng lại ở đó, nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề này, Luật của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 25/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em đã được ban hành phù hợp với nguyện vọng của
toàn thể nhân dân,khẳng định địa vị pháp lý đặc biệt của trẻ em trước
toàn xã hội.Ngoài ra, trong Luật hôn nhân và gia đình, trong Bộ luật
dân sự 2005 và trong một số luật khác cũng có những quy định riêng
vớ i đối tượng là trẻ em để nhằm đảm bảo các quyền của trẻ em.

[3]


II. Tình trạng trẻ em phải lao động sớm.
1.

Thế giới
Ngày nay trên thế giới tình trạng lao động trẻ em vẫn là một hiện tượng phổ biến,


trong đó có nhiều trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều kiện làm việc độc hại,
nguy hiểm và bị khai thác triệt để. Theo những số liệu mới nhất của ILO, có ít nhất
218 triệu lao động trẻ em. , trong đó 100 triệu là trẻ em gái và hơn một nửa số trẻ em
gái này đang phải lao động trong các điều kiện nguy hiểm, độc hại.trong độ tuổi từ 5
đến 17 tuổi, và hầu hết tập trung ở các nước đang phát triển. Trẻ em lao động ở nhiều
loại hình và lĩnh vực công việc và những mối nguy hại đe doạ lao động trẻ em thay
đổi tuỳ thuộc vào loại hình lao động và điều kiện lao động và để lại những hậu quả
nghiêm trọng cho sự phát triển bình thường của trẻ.
2.

Việt Nam
Theo thống kê gần đây nhất, cả nước hiện vẫn còn hơn 25.000 trẻ em làm việc

trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.Kết quả nghiên cứu gần đây nhất của
Bộ LĐ-TB-XH với sự hỗ trợ của ILO tại 58 tỉnh thành Việt Nam cho thấy: hơn 90%
trẻ em lao động ở vùng khảo sát làm việc trong ngành tự do. Trung bình trẻ em làm
việc 4-5 giờ/ngày và thậm chí đến 6 giờ hoặc cao hơn.Cá biệt, trong các cơ sở sản
xuất như may mặc, chế biến thực phẩm, các em phải làm từ 8-9 giờ, thậm chí là 1012 giờ/ngày. Khoảng 50% các em được khảo sát phải làm việc trong môi trường nguy
hiểm có thể ảnh hưởng tồi tệ đến sự phát triển về thể chất lẫn tinh thần và chịu nhiều
sức ép tâm lý.
Kết quả khảo sát tình trạng trẻ em lao động sớm của Sở LĐ-TB-XH Hà Nội trên
một số quận, huyện giai đoạn 2009-2010 cũng cho kết quả rằng : Gần 85% trẻ em
tham gia lao động nặng nhọc, độc hại đang đi học, trong đó có 18,3% đang học tiểu
học, 54,57% đang học THCS và 27% đang học THPT. Gần 60% trẻ em trong diện
điều tra phải làm việc sau giờ đi học, gần 40% làm việc cả trước và sau giờ đi học. Có

[4]


những em bị vắt kiệt sức lao động. Trong số đó, chỉ có 41% được nhận tiền lương,

tiền công. Cá biệt, có những em 5 tuổi đã phải đi kiếm tiền mang về cho cha mẹ.
Tất cả những con số trên đã chỉ ra cho chúng ta thấy tình trạng trẻ em phải lao
động sớm đang tồn tại và diễn biến hết sức phức tạp không chỉ ở Việt Nam mà trên
toàn thế giới. Vậy câu hỏi đặt ra, nguyên nhân của tình trạng đó là gì và ai là người có
trách nhiệm trước vấn đề này?
III. Nguyên nhân và trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích về tình
trạng trẻ em phải lao động sớm.
1. Nguyên nhân của lao động trẻ em
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lao động trẻ em, dưới đây là một số
nguyên nhân chủ yếu:


Nghèo đói là nguyên nhân cội rễ của lao động trẻ em, những hoàn cảnh như gia
đình đói ăn thiếu mặc, hoặc bản thân côi cút bơ vơ … là lý do đẩy tuổi thơ vào
con đường mưu sinh làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm, rủi ro hoặc bất
công. Tổ chức Lao động Quốc tế ILO nhấn mạnh: lao động trẻ em liên quan
chặt chẽ đến sự nghèo đói, và dẫn đến hậu quả là số trẻ được đến trường bị
giảm, số trẻ thất học, mù chữ thì tăng.



Một bộ phận trẻ em buộc phải di cư theo gia đình đến các thành phố lớn tìm
kiếm việc làm do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá và mất đất sản xuất của
những hộ gia đình sống ở các vùng ven đô thị;



Một bộ phận lao động trẻ em khác tham gia lao động do những biến cố lớn của
gia đình (cha mẹ bất hòa, ly hôn hoặc do mải miết làm giàu, bị hút theo những
ma lực khác nên bỏ mặc con cái … ), nhóm này tập trung nhiều ở lao động trẻ

em tự làm (trẻ em đường phố);



Một bộ phận không nhỏ các chủ doanh nghiệp tư nhân vì muốn tiết kiệm chi
phí sản xuất đã sử dụng nhiều lao động vị thành niên với tiền công rẻ mạt,

[5]


trường hợp này khá phổ biến tại các cơ sở trong ngành công nghiệp dệt may
hoặc giày da;


Sự phát triển của các khu vực du lịch và đa dạng hoá các loại hình du lịch cũng
là nguyên nhân đẫn đến lao động trẻ em gia tăng trong các hoạt động tự làm
như bán hàng rong, đồ lưu niệm



Một bộ phận dân cư nông thôn do thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về điều kiện
làm việc, về nguy cơ tiềm ẩn của việc trẻ em tham gia lao động, vì ngộ nhận
vào việc ‘dễ kiếm tiền ở thành phố” đã sẵn sàng để con em bỏ học đi làm.

2.Trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích về tình trạng trẻ em phải lao
động sớm.
Theo Điều 6 của Bộ luật lao động Việt Nam 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2002) có
quy định: “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có
giao kết hợp đồng lao động ”. Như vậy, Bộ luật lao động đã quy định rõ ràng độ tuổi
lao động là đủ 15 tuổi trở lên tức là gián tiếp khẳng định những người lao động và

những người sử dụng lao động dưới 15 tuổi là vi phạm luật lao động Việt Nam. Tuy
nhiên, mặc dù pháp luật cấm sử dụng lao động trẻ em dưới 15 tuổi nhưng ở cả nông
thôn và thành thị, một bộ phận trẻ em vẫn phải chia sẻ gánh nặng công việc và trách
nhiệm gánh vác gia đình.
Điều 34 - Luật hôn nhân và gia đình quy định nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối
với con như sau:
“1.Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và
giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người
con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2.Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm
con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi
giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”
[6]


Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định một số điều
khoản như sau:
Điều 5: Trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em:
1. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà
trường, Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức,
gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm
hàng đầu.
2. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ở
trong nước và nước ngoài góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em.
Điều24 Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng
1. Cha mẹ, người giám hộ là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em; khi gặp khó
khăn tự mình không giải quyết được, có thể yêu cầu và được cơ quan, tổ chức hữu

quan giúp đỡ để thực hiện trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
em.
2. Cha mẹ, người giám hộ, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình phải gương
mẫu về mọi mặt cho trẻ em noi theo; có trách nhiệm xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển toàn diện của
trẻ em. (…)
Như vậy, ta thấy rằng, pháp luật có những quy định rõ ràng trách nhiệm chăm
sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trước hết là của cha mẹ, gia đình, những người thân
thích; sau đó là trách nhiệm của nhà trường, các tổ chức, cộng đồng, xã hội. Với tình
trạng trẻ em phải lao động sớm, trách nhiệm pháp lý đầu tiên phải kể đến là trách
nhiệm của cha mẹ. Cha mẹ đã không làm tròn bổn phận, nghĩa vụ của mình, không
những không bảo đảm cho các em quyền được học tập, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe,
[7]


quyền được vui chơi, giải trí mà còn bỏ mặc, thiếu trách nhiệm để con em mình rơi
vào tình trạng lao động sớm.
Thay vì được cắp sách đi học, được vui sống trong môi trường lành mạnh vui
tươi, nhiều trẻ em phải lao động sớm, phải làm việc bốn, năm hoặc sáu tiếng một
ngày, thậm chí nhiều em làm tám chín cho đến mười một mười hai tiếng một ngày.
Trẻ em lao động sớm phát xuất từ vấn đề kinh tế, gia đình khó khăn, cha mẹ thiếu ý
thức về pháp luật nên để con lao động sớm. Trẻ em cũng không biết bảo vệ quyền lợi
của mình thành chấp nhận làm việc trong điều kiện chủ đặt tới đâu thì làm tới đó.
Người chủ khi thuê mướn trẻ em lao động thì họ biết pháp luật cấm không được thuê
mướn trẻ lao động sớm nhưng mà họ đâu có khai báo, họ che dấu. Thành ra không có
ai tố cáo, nhà nước rất khó phát hiện để bảo vệ quyền trẻ em. Mặt khác, gia đình của
trẻ lao động sớm cũng mặc nhiên chấp nhận hoàn cảnh đó.Có lẽ thực sự cũng không
ai muốn trẻ em hay chính con em của mình phải lao động vất vả. Tuổi các em là được
chơi được vui được học hành. Thế nhưng tình trạng lao động trẻ em đến từ chính bản
thân bố mẹ và gia đình các em. Thông thường ở những vùng quá nghèo khó, cha mẹ

học không đến nơi đến chốn thì họ lựa chọn cái trước mắt hơn là phải đầu tư thời gian
đầu tư cơ hội cho con em mình được đến trường.
Điều này có nghĩa là khi chúng ta muốn can thiệp để giúp cho các em tránh được
tình trạng lao động sớm thì không phải chỉ đổ lỗi, quy trách nhiệm cho riêng cha mẹ
các em mà chúng ta cũng phải nghĩ cách làm thế nào để tạo công ăn việc làm cho bố
mẹ các em, từ đó làm vơi bớt đi gánh nặng đổ trên vai các em. Nói như vậy cũng
không loại trừ việc các bậc làm cha, làm mẹ cần phải cố gắng nhiều hơn nữa, biết dựa
vào sức của mình, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức, đoàn thể để cải thiện đời
sống gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống và vì một mục đích lớn hơn nữa là cho
con em mình được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, bảo vệ của gia đình.

[8]


IV.Giải pháp
Từ việc xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng lao động trẻ em, xác định
nguyện vọng của lao động trẻ em và các khó khăn, rào cản trong việc giải quyết vấn
đề lao động trẻ em trong những năm qua, trong thời gian tới cần ưu tiên thực hiện
một số hoạt động dưới đây nhằm quản lý, ngăn ngừa có hiệu quả hơn tình trạng lao
động trẻ em, giảm thiểu tình trạng lao động trẻ em và từng bước tiến tới xóa bỏ các
hình thức lao động trẻ em.
Đối với cấp quản lý trung ương (quốc gia) về vấn đề lao động trẻ em (Bộ Lao
động Thương binh Xã hội và các bộ ngành liên quan)
1.

Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, các quy định và hướng dẫn thực

hiện về trẻ em và vấn đề lao động trẻ em;
2.


Xây dựng hệ thống chỉ tiêu cụ thể và thống nhất, đồng bộ để có thể theo dõi và

cập nhật số liệu về các vấn đề trẻ em, kể cả lao động trẻ em. Cần thống nhất khái
niệm về trẻ em giữa các luật: Luật Thanh niên, Luật Chăm sóc và Bảo vệ Trẻ em (16
tuổi), Luật Lao động (đủ 15 tuổi là đủ tuổi lao động). Cần nghiên cứu đưa ra khái
niệm đầy đủ về lao động trẻ em áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước;
3.

Xây dựng mạng lưới bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng trên cơ sở xây dựng “Xã

phường phù hợp với trẻ em”. Xác định trách nhiệm, vai trò của chính quyền, gia đình,
nhà trường, người sử dụng lao động,
4.

Tăng cường hoạt động truyền thông, phổ biến pháp luật về trẻ em, lao động trẻ

em trong cộng đồng. Huy động sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng;
5.

Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em như các mô hình tư vấn cho trẻ em về

pháp luật, về định hướng nghề nghiệp, các trung tâm xã hội cho trẻ em;
6.

Tăng phân bổ ngân sách cho các hoạt động ngăn chặn, giải quyết lao động trẻ

em, đặc biệt là lao động trẻ em nặng nhọc trong điều kiện độc hại và nguy hiểm;
7.

Có các chính sách cụ thể hỗ trợ đối tượng là lao động trẻ em trong giáo dục,


định hướng ghề nghiệp và đào tạo nghề; hỗ trợ về y tế- chăm sóc sức khoẻ;
[9]


8.

Có chính sách hỗ trợ việc làm cho lao động bị mất đất ở các vùng ven nhằm hạn

chế lao động di cư ra các thành phố lớn tìm kiếm việc làm, qua đó giảm thiểu lao
động trẻ em di cư.
9.

Tăng cường các hoạt động hợp tác nghiên cứu quốc tế về lao động trẻ em.
Đối với cấp địa phương (UBND, cơ quan quản lý lao động và xã hội, các cơ

quan liên quan và các hội đoàn thể)
1.

Tiếp tục thực hiện hoạt động truyền thông, tuyên truyền hơn nữa về chống lạm

dụng sức lao động trẻ em trong xã hội, cộng đồng, các hiệp hội, tổ chức của doanh
nghiệp. Huy động sự tham gia của giới truyền thông đại chúng tại địa phương vào
hoạt động này.
2.

Thực hiện đầy đủ và nghiêm túc đề án ngăn chặn và giải quyết tình trạng trẻ em

phải lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại và nguy hiểm giai đoạn 2005 – 2010.
Trong đó ưu tiên lựa chọn một số hoạt động của đề án cần phải được triển khai sớm,

bao gồm:


Điều tra, khảo sát về quy mô và thực trạng lao động trẻ em trên địa bàn; lập
hồ sơ quản lý và phân laọi lao động trẻ em, trong đó có lao động trẻ em nặng
nhọc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm;



Phát triển số lượng và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ trợ giúp trẻ em
lao động thông qua xây dựng các mô hình can thiệp tại địa phương và thiết lập
mạng lưới trợ giúp cộng đồng; tổ chức khám chữa bệnh cho lao động trẻ em bị
ảnh hưởng bởi tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đưa ra khỏi công việc
đang làm và yêu cầu chủ sử dụng lao động có trách nhiệm trong việc điều trị,
bồi thường cho lao động trẻ em bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;



Nghiên cứu đề xuất quy trình kiểm tra, thanh tra liên ngành về lao động trẻ
em. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về lao động trẻ em trên địa bàn.

3.

Đưa vấn đề bảo vệ trẻ em, lao động trẻ em vào trong kế hoạch phát triển kinh tế

xã hội ở địa phương.
[10]


4.


Yêu cầu các xã/phường cam kết thực hiện ngăn ngừa lao động trẻ em, chống

bệnh thành tích. Không đưa vấn đề tồn tại về số lượng và loại hình lao động trẻ em
trên địa bàn vào đánh giá thành tích chung mà đưa vấn đề hỗ trợ và giải quyết được
bao nhiêu trường hợp lao động trẻ em trong năm vào việc đánh giá thành tích năm
của xã/phường;
5.

Bố trí thêm ngân sách địa phương, huy động các nguồn tài chính từ cộng đồng

cho các hoạt động về mục tiêu ngăn ngừa lao động trẻ em trên địa bàn;
6.

Có hình thức cụ thể khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc đấu

tranh, phát hiện và tố giác với các đơn vị chức năng về các trường hợp sử dụng lao
động trẻ em trên địa bàn;
7.

Có chế tài mạnh đối với những người sử dụng lao động trẻ em vào các công

việc độc hại, nguy hiểm, thậm chí truy tố hình sự đối với những trường hợp này làm
gương “răn đe” hạn chế số trường hợp vi phạm.

C. Kết luận
Ở nước ta lao động trẻ em là vấn đề phức tạp và mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn.
Lao động trẻ em đang là vấn đề ngày càng được quan tâm ở Việt Nam, đặc biệt từ khi
Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em trong năm 1990;
Việt nam ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 và năm 2004,

Luật phổ cập giáo dục tiểu học trong năm 1991. Mục tiêu của Việt Nam là đến năm
2016 xóa bỏ lao động trẻ em, nhưng để thực hiện được mục tiêu này quả thật không
dễ. Tuy vậy, vẫn hy vọng rằng, tất cả cộng đồng, xã hội cùng chung tay góp sức để
trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ không còn gặp phải tình trạng trẻ em phải
lao động sớm, không được đảm bảo các quyền vốn có của mình.

[11]


Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,

2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
Bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2002)
.
/> />
9.


em.aspx
/>
o-TP-HCM-Can-mot-cai-bat-tay.htm
10. />
Mục lục
Trang
A.

Lời mở đầu……………………………………………………………1
[12]


B.
I.

Nội dung
Trẻ em - đối tượng được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt theo

quy định của pháp luật thế giới và pháp luật Việt Nam……………………..2
II.
1.
2.
III.

Thực trạng trẻ em phải lao động sớm………………………………….4
Thế giới…………………………………………………………………….4
Việt Nam…………………………………………………………………...4
Nguyên nhân và trách nhiệm của cha mẹ và


những người thân thích về tình trạng trẻ em phải lao động sớm………… .5
1.
2.

Nguyên nhân của lao động trẻ em………………………………………….5
Trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích về

tình trạng trẻ em phải lao động sớm…………………………………………..6
IV.
C.

Giải pháp……………………………………………………………….8
Kết luận……………………………………………………………….11

Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………………12

[13]



×